NĂM 2010: “CHÚNG TA CÓ MỘT VỊ THƯỢNG TẾ SIÊU PHÀM”
Đây là bài giảng của Đức Hồng y Raniero Cantalamessa OFM Cap, giảng thuyết Phủ Giáo Hoàng, vào Thứ Sáu Tuần Thánh năm 2005 với sự hiện diện của Đức Giáo Hoàng và Giáo triều Roma. Mở đầu bài giảng, ngài nói:
"Chúng ta có một tư tế siêu phàm, đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa" (Dt 4,14): chính những lời này mở đầu cho đoạn thư Do thái mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc II. Trong Năm Linh Mục này, phụng vụ hôm nay cho phép chúng ta trở lại với nguồn gốc lịch sử của chức tư tế Kitô giáo.
Cái chết của Đức Kitô là nguồn gốc của hai chức tư tế: chức tư tế thừa tác của các giám mục và linh mục, và chức tư tế phổ quát của tất cả các tín hữu. Chức tư tế sau cũng dựa trên hy tế của Đức Kitô. Sách Khải huyền nói: "Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi của chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phục vụ Thiên Chúa là Cha của Người" (Kh 1,5-6). Điều hết sức quan trọng là phải hiểu bản chất của hy tế và chức tư tế của Đức Kitô, vì chính từ chức tư tế này mà linh mục cũng như giáo dân, theo cách khác nhau, phải mang dấu ấn và tìm cách sống theo những đòi hỏi của nó.
Thư Do thái giải thích chức tư tế của Đức Kitô mới mẻ và độc đáo ở điểm nào, không chỉ liên quan đến chức tư tế của giao ước cũ, mà còn đến tất cả định chế tư tế ngay cả ở bên ngoài ngoài Kinh Thánh.
"Đức Kitô, đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai […]. Người đã vào cung thánh, không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình. Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta. Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hóa được họ nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người than tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.” (Dt 9,11-14)
Chính đó là sự mới mẻ. Mọi linh mục khác đều hiến dâng một cái gì đó bên ngoài, còn Đức Kitô, Ngài đã dâng hiến chính mình; mọi linh mục khác đều dâng các tế vật, còn Đức Kitô, Ngài đã dâng hiến chính mình làm tế vật! Thánh Augustinô tóm tắt trong một công thức nổi tiếng loại tư tế mới này, trong đó linh mục và tế vật là một: "Ideo sacerdos, quia sacrificium", nghĩa là “linh mục vì là tế vật"[1].
* * *
Năm 1972, một nhà tư tưởng nổi tiếng người Pháp đã tung ra luận đề theo đó "bạo lực là trái tim và linh hồn bí ẩn của thiêng thánh[2]". Quả thực, hy tế là nguồn gốc và trung tâm của tất cả các tôn giáo, nghi thức về vật thế chỗ luôn bao gồm sự hủy diệt và cái chết. Nhật báo "Le Monde" hoan nghênh quả quyết này của René Girard, khi nói rằng quả quyết này biến năm đó thành "một năm đánh dấu bằng dấu hoa thị trong biên niên sử của nhân loại". Nhưng đã lâu trước đây, nhà thông thái này đã đến với Kitô giáo, và vào Lễ Phục sinh năm 1959, đã công khai hóa "sự hoán cải" của mình, tuyên bố mình là một tín đồ và trở lại Giáo hội.
Điều này cho phép ông, trong các nghiên cứu về sau, không dừng lại để phân tích cơ chế của bạo lực, nhưng chỉ ra cách thoát khỏi nó. Tiếc thay nhiều người ngày nay vẫn tiếp tục nêu René Girard như một người đã tố cáo liên minh giữa thánh thiêng và bạo lực, không để ý đến lời ông nhấn mạnh sự tan vỡ toàn diện và vĩnh viễn của liên minh này trong mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô.
Theo René Girard, Đức Kitô vạch mặt và phá vỡ cơ chế thần thiêng hóa bạo lực, biến mình thành "vật bung xung" (bouc émissaire) cho nhân loại, nạn nhân vô tội của mọi bạo lực. Đức Kitô đã không đến để hiến dâng máu của người khác, nhưng của chính mình. Ngài đã không đặt tội lỗi của mình lên lưng người khác – con người hay động vật – Ngài đã gánh trên vai tội lỗi của mọi người: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá” (1Pr 2,24).
Quá trình dẫn đến sự ra đời của tôn giáo bị đảo ngược so với lời giải thích của Freud. Trong Đức Kitô, chính Thiên Chúa biến mình thành nạn nhân, và không phải nạn nhân (người cha nguyên thủy theo Freud), mà, một khi đã hy sinh, sẽ được nâng lên địa vị thần thánh (Cha trên trời). Đó không còn là con người hiến tế cho Thiên Chúa, mà là Thiên Chúa, Đấng đã “hiến tế” mình cho con người, bằng cách trao nộp Con Một cho sự chết vì con người (x. Ga 3,16). Hy tế không phải để "xoa dịu" Thiên Chúa nữa, nhưng đúng hơn để xoa dịu con người, khiến con người không còn thù nghịch với Thiên Chúa và với người lân cận.
Khi ấy người ta có thể tiếp tục nói về hy tế, nhân nói về cái chết của Đức Kitô và như vậy về Thánh lễ chăng? Trong một thời gian dài, Girard đã bác bỏ khái niệm này, coi nó như quá bị ý tưởng bạo lực ghi dấu, nhưng cuối cùng ông thừa nhận khả năng này theo truyền thống Kitô giáo, với điều kiện nhìn thấy một loại hy tế mới trong hy tế của Đức Kitô, và nhìn thấy "sự kiện trung tâm trong lịch sử tôn giáo của nhân loại" trong sự thay đổi ý nghĩa này.
***
Nhìn dưới ánh sáng này, hy tế của Đức Kitô chứa đựng một thông điệp tuyệt vời cho thế giới hôm nay. Ông nói to cho thế giới biết rằng bạo lực là một cặn bã cổ, một sự thụt lùi về các giai đoạn nguyên thủy và lỗi thời của lịch sử nhân loại và – trong trường hợp của các tín hữu – một sự chậm trễ có lỗi và tai tiếng trong việc nhận ra bước nhảy vọt về phẩm chất do Đức Kitô tạo ra.
Ông cũng nhắc nhớ rằng bạo lực lúc nào cũng thua. Trong hầu hết các thần thoại cổ xưa, nạn nhân là kẻ chiến bại và người đao phủ thủ là người chiến thắng[3]. Đức Giêsu đã thay đổi dấu chỉ chiến thắng. Ngài đã mở đầu một loại chiến thắng mới, không phải ở chỗ làm ra những nạn nhân, nhưng là biến mình thành nạn nhân. Augustinô định nghĩa Đức Giêsu trên thập giá là "Victor quia victima!", Đấng chiến thắng vì là tế vật[4].
Giá trị hiện đại của việc bảo vệ các nạn nhân, các người nghèo và đời sống bị đe dọa, xuất hiện trong vùng Kitô giáo, đó là một thành quả muộn màng của cuộc cách mạng do Đức Kitô thực hiện. Chúng ta có bằng chứng nghịch lại. Ngay khi người ta bỏ (như Nietzsche đã bỏ) nhãn quan Kitô giáo để làm sống lại nhãn quan ngoại giáo, người ta quên mất cuộc chinh phục này, và lại bắt đầu tôn dương "người mạnh mẽ, quyền lực, đến tột đỉnh là siêu nhân"; và người ta định nghĩa những giá trị Kitô giáo như tạo ra một thứ “đạo đức của những người nô lệ", kết quả của sự oán hận bất lực của kẻ yếu chống lại kẻ mạnh.
Nhưng, thật không may, chính nền văn hóa hiện đại này lên án bạo lực, thì mặt khác lại ủng hộ và tán dương nó. Người ta rên rỉ trước một số biến cố đẫm máu được tờ báo tường thuật, mà không nhận ra rằng đồng thời chỗ được chuẩn bị cho các biến cố đó trong trang quảng cáo tiếp theo hoặc trong chương trình truyền hình được thông báo. Việc người ta ngày càng thích các chi tiết trong mô tả bạo lực – được tìm đọc đầu tiên và đáng tin nhất – chỉ ủng hộ bạo lực mà thôi. Kết quả là người ta không hồi tâm về sự dữ, lại còn được khuyến khích làm sự dữ. Thật đáng lo ngại khi thấy bạo lực và máu đã là những thành phần quảng cáo trong các phim và trò chơi điện tử, khiến người ta bị chúng thu hút và bén mùi.
Cũng nhà thông thái nói trên đã vạch trần ma trận của cơ chế bạo lực là bắt chước, xu hướng bẩm sinh này gắn liền với bản tính con người, coi những gì người khác muốn là đáng muốn, do đó, lặp lại những gì người ta thấy làm cho người khác. Tâm lý "bầy đàn" đưa đến việc chọn một "vật bung xung" để tìm ra một sự gắn kết nhất thời và giả tạo giữa con người, trong cuộc tranh đấu chống lại kẻ thù chung - nói chung là yếu tố yếu nhất, yếu tố khác biệt.
Chúng ta có một ví dụ về việc nại tới bạo lực của những người trẻ trong các sân vận động, trong việc bắt nạt ở trường học và trong một số cuộc biểu tình trên đường phố để lại phá hoại và đổ nát. Thế hệ thanh niên này được sự ưu đãi hiếm hoi là đã không biết đến chiến tranh thực sự, chưa bao giờ bị động viên, giải trí (vì đây thật sự là một trò chơi, cho dù ngu ngốc và đôi khi bi thảm) bằng cách bày ra những chiến tranh nhỏ, được thúc đẩy bởi cùng một bản năng như một bày lũ man rợ.
* * *
Tuy vậy còn có một bạo lực nghiêm trọng và lan rộng hơn so với bạo lực của những người trẻ trong các sân vận động và trên đường phố. Ở đây, chúng ta sẽ không nói về bạo lực đối với trẻ em, tội mà một số người trong hàng giáo sĩ đã phải chịu ô danh; người ta đã nói đủ về nó ở chỗ khác. Tôi nói về bạo hành đối với phụ nữ. Tôi có cơ hội giúp cho những con người và các tổ chức tranh đấu chống lại bạo hành này hiểu rằng Đức Kitô là đồng minh tốt nhất của họ.
Bạo hành này càng nghiêm trọng hơn vì thường xẩy ra trong khung cảnh gia đình, người khác không biết, khi nó không được biện minh dứt khoát bởi những định kiến về tôn giáo giả tạo và văn hóa. Các nạn nhân thấy mình cô đơn cách tuyệt vọng và bất lực. Chỉ có ngày hôm nay, nhờ sự hỗ trợ và khuyến khích của nhiều hiệp hội và tổ chức, một số người mới mạnh mẽ bước ra ánh sáng và tố giác thủ phạm.
Phần lớn bạo hành này có thêm khía cạnh tình dục. Đàn ông nghĩ mình đang chứng tỏ nam tính của mình bằng cách làm khổ phụ nữ, mà không nhận ra rằng họ chỉ cho thấy sự bất an và hèn nhát của mình. Ngay cả đối với người phụ nữ có hành động xấu, thật là tương phản giữa cách hành xử của Đức Kitô và cách hành xử của một số giới! Những người cuồng tín kêu gọi ném đá; trước những người dẫn đến cho Ngài một người phụ nữ ngoại tình, Đức Kitô nói: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!" (Ga 8,7). Ngoại tình là một tội do hai người phạm, nhưng lúc nào cũng chỉ có một người bị trừng phạt.
Bạo hành đối với phụ nữ bao giờ cũng đáng ghét khi xẩy ra nơi lẽ ra phải tôn trọng và yêu thương nhau, trong mối quan hệ giữa vợ và chồng. Đúng là bạo hành không luôn luôn và hoàn toàn là lỗi của một bên, người ta cũng có thể bạo hành bằng lời nói, nhưng không ai có thể phủ nhận rằng, trong phần lớn các trường hợp, nạn nhân là phụ nữ
Trong một số gia đình, đàn ông coi mình được quyền lên tiếng và giơ tay đánh vợ. Vợ con đôi khi sống dưới sự đe dọa thường xuyên của người chồng người cha hay nổi giận. Đối với người này hay người ngang hàng với ông ta, nên lịch sự nói: “Các bạn thân mến, khi tạo ra chúng ta thuộc nam giới, Thiên Chúa không có ý định cho chúng ta quyền nổi giận và đập tay xuống bàn, cho dù có lý do nào đi nữa. Lời Thiên Chúa nói với Evà sau khi sa ngã: "Và nó (người chồng) sẽ thống trị ngươi" (St 3,16) là một lời tiên báo cay đắng, không phải một sự cho phép.”
Đức Gioan Phaolô II đã khai mào cách thực hành cầu xin sự tha thứ cho những sai lầm tập thể. Một trong những cách thực hành này, công bằng nhất và cần thiết nhất, sẽ là sự tha thứ mà một nửa nhân loại phải cầu xin nửa kia: chồng đối với vợ. Lời cầu xin này không thể chung chung và trừu tượng. Đặc biệt đối với những người tự xưng là Kitô hữu, nó phải đưa tới những cử chỉ cụ thể hoán cải, những lời xin lỗi và hòa giải trong gia đình và xã hội.
***
Trong bài trích Thư gửi tín hữu Do Thái mà chúng ta đã nghe, tác giả tiếp tục như sau: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khấn nguyện len Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết”. Đức Giêsu đã biết đến tình trạng của nạn nhân trong tất cả sự tàn ác của nó, những tiếng khóc nghẹn ngào và những giọt lệ âm thầm. Thực sự, "Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yêu hèn của ta”. Trong mỗi nạn nhân của bạo lực, Đức Kitô làm sống lại cách mầu nhiệm kinh nghiệm trần thế của mình. Chính về từng người trong số họ mà Ngài nói: "là các ngươi đã làm cho chính Ta" (Mt 25,40).
Họa hiếm mới có một sự trùng hợp là năm nay Lễ Vượt Qua của chúng ta rơi vào cùng tuần với Lễ Vượt Qua của người Do Thái, là tổ tiên của nó và là cái nôi hình thành ra nó. Điều này thúc đẩy chúng ta hướng về người anh em Do Thái chúng ta. Do kinh nghiệm, họ biết nạn nhân của bạo hành tập thể là như thế nào và chính vì thế, họ sẵn sàng nhận ra các triệu chứng tái phát của nó.
Chúng ta hãy chúc cho những người anh em Do Thái của chúng ta một lễ Vượt Qua tốt đẹp. Chúng ta dúng chính những lời của thầy Gamaliel trong sách Seder – nghi lễ Vượt Qua Do thái – được phụng vụ lâu đời nhất của Kitô giáo giữ lại:
"Chính Người đã làm cho chúng ta vượt qua
từ nô lệ đến tự do,
từ nỗi buồn đến niềm vui,
từ tang tóc đến lễ lạc
từ bóng tối đến ánh sáng
từ tôi đòi đến cứu chuộc "
để chúng ta ca lên trước mặt Người: Halleluia[5].”
[1] Augustino, Confessions, 10, 43.
[2] x. R. Girard, La violence et le sacré, Grasset, Paris 1972.
[3] x. R. Girard, Le sacrifice, Bibliothèque Nationale, 2003, p.73 et s
[4] Augustinô, Confessions, 10, 43.
[5] Mêlitô Sarđê, Pesachim, X, 5 và Homélie de Pâques, 68 (Sch 123, p. 98).