CHÚA NHẬT 2 MÙA PHỤC SINH NĂM A
CHÚA NHẬT LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Đây là những bài giảng và huấn dụ của Đức Thánh Cha trong các Thánh Lễ và các buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với các tín hữu vào Chúa Nhật 2 Mùa Phục Sinh năm A, Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót.
Các bài giảng và huấn dụ của Đức Thánh Cha trong Chúa Nhật
2 Mùa Phục Sinh Năm A:
Đức Phanxicô: 16.04.2023 – Ở lại cộng đoàn để gặp Chúa 19.04.2020 – Chúa chờ đợi Tôma 23.04.2017 – Chiếc áo trắng 27.04.2014 – Vết thương vinh hiển của Chúa Phục sinh Đức Bênêđictô XVI: 01.05.2011 – Phúc cho những người không thấy mà tin 30.03.2008 – Nguồn hy vọng cho nhân loại |
(Cập nhật đến ngày 20.04.2020)
Đức Phanxicô, ngày 16.04.2023 – Ở lại cộng đoàn để gặp Chúa
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay, Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót, Tin Mừng thuật lại cho chúng ta hai lần Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ, nhất là với Tôma, vị “tông đồ cứng tin” (x. Ga 20,24-29).
Thực tế, Tôma không phải là người duy nhất cứng tin. Tôma đại diện cho tất cả chúng ta ở một mức độ nào đó. Thật vậy, việc tin không phải lúc nào cũng dễ, nhất là khi, như trong trường hợp của Tôma, một người đã phải chịu một sự thất vọng nặng nề. Sau một thất vọng lớn thì thật khó để lấy lại được niềm tin. Ông đã theo Chúa nhiều năm, mạo hiểm và chịu đựng gian khổ, nhưng Thầy bị đóng đinh như một kẻ tội phạm và không ai giải thoát Người, chẳng ai làm gì cả! Thầy đã chết và mọi người đều sợ hãi. Làm sao để tin tưởng một lần nữa? Làm sao để tin những lời nói rằng Thầy vẫn sống? Sự nghi ngờ xuất hiện bên trong Tôma.
Tuy nhiên, Tôma cho thấy rằng ông có can đảm: trong khi những người khác đang đóng cửa trong phòng tiệc ly vì sợ thì ông đã đi ra ngoài, với nguy cơ là ai đó có thể nhận ra ông, đi trình báo và bắt giữ ông. Thậm chí chúng ta có thể nghĩ rằng, với lòng can đảm, ông xứng đáng được gặp Chúa phục sinh hơn những người khác. Ngược lại, chính vì ông đã bỏ đi, nên khi Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ lần đầu tiên vào chiều Phục Sinh, ông đã không có mặt ở đó và bỏ lỡ cơ hội. Tôma đã rời khỏi cộng đoàn. Làm thế nào để có lại được cơ hội đó? Chỉ bằng cách quay trở lại với những người khác, trở lại nơi đó, trong gia đình đó nơi ông đã bỏ đi trong sợ hãi và buồn bã. Khi Tôma trở lại, họ nói với ông rằng Chúa Giêsu đã đến, nhưng điều đó thật khó tin; ông muốn nhìn thấy các dấu thương tích của Người. Và Chúa Giêsu đã làm thoả lòng ông: tám ngày sau, Người lại hiện ra giữa các môn đệ và cho họ nhìn thấy những vết thương, trên tay, trên chân và cạnh sườn Người, những bằng chứng tình yêu của Người, vốn là những kênh thương xót luôn rộng mở của Người.
Hãy suy nghĩ về những sự việc này. Để tin, Tôma muốn có một dấu chỉ lạ thường: chạm vào vết thương. Chúa Giêsu đã cho họ thấy những vết thương đó, nhưng theo một cách bình thường, đến trước mặt mọi người trong cộng đoàn, chứ không ở ngoài. Điều đó như muốn nói với ông rằng: muốn gặp Thầy thì đừng tìm ở đâu xa, hãy ở trong cộng đoàn, với những người khác; đừng bỏ đi, hãy cầu nguyện với họ, bẻ bánh với họ. Đó là nơi con có thể tìm thấy Thầy, đó là nơi Thầy sẽ cho con thấy những dấu thương tích trên thân thể Thầy. Đó là dấu hiệu của Tình yêu chiến thắng hận thù, của Sự tha thứ giải trừ hận thù, của Sự sống chiến thắng cái chết. Chính ở đó, trong cộng đoàn, con sẽ khám phá ra khuôn mặt của Thầy, trong khi cùng chia sẻ những khoảnh khắc nghi ngờ và sợ hãi với anh chị em, thậm chí khi đó còn siết chặt vòng tay nhau hơn. Không có cộng đoàn thì khó gặp thấy Chúa Giêsu hơn.
Anh chị em thân mến, lời mời dành cho Tôma cũng vẫn còn giá trị cho chúng ta. Chúng ta tìm Đấng Phục Sinh ở đâu? Phải chăng trong một sự kiện đặc biệt nào đó, trong một sự kiện tôn giáo ngoạn mục hoặc nổi bật nào đó, chỉ trong những cảm xúc và cảm giác của chúng ta? Hay trong cộng đoàn, trong Giáo hội, chấp nhận thách đố ở lại đó, cho dù nó chưa hoàn hảo? Đối với tất cả những giới hạn và sa ngã, thì đó là những giới hạn và sa ngã của chúng ta, Giáo hội Mẹ của chúng ta là Thân thể Chúa Kitô; và chính nơi đó, trong Nhiệm thể Chúa Kitô, những dấu chỉ vĩ đại nhất về tình yêu của Người vẫn còn mãi mãi. Tuy nhiên, chúng ta hãy tự vấn xem nhân danh tình yêu này, nhân danh những vết thương của Chúa Giêsu, chúng ta có sẵn sàng mở rộng vòng tay đón nhận những người mang những vết thương của cuộc đời, không loại trừ ai khỏi lòng thương xót của Thiên Chúa, nhưng đón nhận tất cả mọi người; mỗi người như anh chị em. Thiên Chúa chào đón tất cả.
Xin Mẹ Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, giúp chúng ta yêu mến Giáo hội và biến Giáo hội trở thành ngôi nhà chào đón tất cả mọi người.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, ngày 19.04.2020 – Chúa chờ đợi Tôma
Chúa Nhật trước chúng ta mừng Chúa sống lại; hôm nay chúng ta chứng kiến sự phục sinh của môn đệ Ngài. Đã một tuần qua đi, một tuần kể từ khi các môn đệ nhìn thấy Chúa Phục sinh, nhưng cho dù như vậy, các ông vẫn còn sợ hãi, ẩn mình sau “những cánh cửa đóng kín” (Ga 20:26), thậm chí không thể thuyết phục Tôma, người duy nhất vắng mặt, về sự phục sinh. Chúa Giêsu làm gì trước việc nhút nhát thiếu lòng tin này? Ngài quay trở lại, và đứng tại cùng một chỗ, “ở giữa” các môn đệ, Ngài lặp lại lời chào: “Bình an cho các con!” (Ga 20:19, 26). Ngài lặp đi lặp lại. Sự phục sinh của môn đệ Ngài bắt đầu từ đây, từ lòng thương xót trung tín và kiên nhẫn, từ việc khám phá ra rằng Chúa không bao giờ mệt mỏi trong việc tiến đến để nâng chúng ta dậy khi chúng ta vấp ngã. Ngài muốn chúng ta nhìn thấy Ngài, không phải như một người đốc công mà chúng ta phải trả những món nợ, nhưng như là Cha của chúng ta là người luôn nâng đỡ chúng ta dậy. Trong cuộc sống chúng ta tiến bước một cách ngập ngừng, không vững chắc, giống như một em bé chập chững đi được vài bước lại ngã; bước thêm vài bước nữa rồi lại ngã, nhưng mỗi lần cha của bé đều nâng bé dậy đứng vững trên đôi chân. Bàn tay luôn luôn nâng chúng ta đứng dậy trên đôi chân là lòng thương xót: Chúa biết rằng không có lòng thương xót thì chúng ta sẽ ngã nằm trên mặt đất, và để tiếp tục bước đi, chúng ta cần phải được nâng đỡ dậy để đứng vững trên đôi chân.
Anh chị em có thể phản đối: “Nhưng con cứ vấp ngã hoài!” Chúa biết điều này và Ngài luôn sẵn sàng để nâng bạn dậy. Ngài không muốn chúng ta cứ gắn chặt với suy nghĩ về những vấp ngã của mình; nhưng Ngài muốn chúng ta hãy hướng trông về Ngài. Vì khi chúng ta vấp ngã, Ngài nhìn thấy những đứa con cần được nâng dậy để đứng trên đôi chân; trong những vấp ngã của chúng ta ngài nhìn thấy những đứa con cần có tình yêu thương xót. Hôm nay, trong ngôi nhà thờ này đã trở thành đền thờ của lòng thương xót ở Roma, và vào Chúa nhật này Thánh Gioan Phaolô II đã cung hiến cho Lòng Thương xót của Chúa hai mươi năm trước, chúng ta vui mừng trước sứ điệp này. Chúa Giêsu đã nói với Thánh Faustina: “Cha là tình yêu và lòng thương xót; không có sự đau đớn nào của con người có thể sánh bằng lòng thương xót của Cha” (Nhật ký, 14 tháng Chín 1937). Có một lần trong sự toại nguyện, Thánh nhân thưa với Chúa Giêsu rằng chị đã dâng lên Ngài tất cả sự sống của mình và mọi điều chị có. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu làm chị sững sờ: “Con vẫn chưa dâng lên Cha điều thật sự thuộc về con.” Vậy người nữ tu thánh thiện đó đã giữ lại cho mình điều gì? Chúa Giêsu dịu dàng nói với chị: “Con của Cha, hãy dâng lên Cha những vấp ngã của con” (10 Tháng Mười 1937). Chúng ta cũng hãy tự hỏi mình: “Tôi đã dâng lên Chúa những vấp ngã của tôi chưa? Tôi có để cho Ngài nhìn thấy sự vấp ngã của tôi để Ngài có thể nâng tôi dậy không?” Hay vẫn có điều gì đó mà tôi còn giữ trong lòng mình? Một tội, một sự hối tiếc của quá khứ, một vết thương tôi mang trong lòng, một sự oán hận chống lại ai đó, một ý nghĩ về một người nào đó … Chúa chờ đợi chúng ta mang đến cho Ngài những vấp ngã của chúng ta để Ngài có thể giúp chúng ta trải nghiệm lòng thương xót của Ngài.
Chúng ta hãy trở lại với các môn đệ. Các ông đã bỏ Chúa trong cuộc Khổ nạn và cảm thấy có tội. Nhưng khi gặp các ông, Chúa Giêsu không cho một bài giảng thuyết dài dòng. Với các ông là những người đã bị thương tổn trong lòng, Ngài cho các ông thấy những vết thương của Ngài. Bây giờ Tôma có thể đụng chạm vào chúng và hiểu được tình yêu của Chúa Giêsu và Ngài đã phải chịu đau khổ như thế nào cho ông, dù ông đã bỏ rơi Ngài. Trong những vết thương đó, ông chạm đến được sự gần gũi dịu dàng của Thiên Chúa bằng chính bàn tay của mình. Tôma đến sau, nhưng khi ông đón nhận được lòng thương xót, ông vượt qua những môn đệ khác: ông không chỉ tin vào sự phục sinh, nhưng còn tin vào tình yêu vô biên của Chúa. Và ông đã thực hiện một lời tuyên xưng đức tin đơn sơ nhất và đẹp nhất: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” (c. 28). Đây là sự phục sinh của người môn đệ: nó được kiện toàn khi sự mỏng giòn và tính nhân loại bị thương tổn của người môn đệ đi vào những vết thương của Chúa Giêsu. Ở đó, mọi sự hoài nghi được xóa tan; ở đó, Thiên Chúa trở thành Thiên Chúa của con; ở đó, chúng ta bắt đầu chấp nhận bản thân mình và yêu thương sự sống như đúng bản chất của nó.
Anh chị em thân mến, trong thời gian thử thách mà chúng ta đang trải qua, chúng ta cũng vậy, giống như Tôma với những nỗi sợ hãi và hoài nghi, đã có kinh nghiệm về sự mỏng giòn của chúng ta. Chúng ta cần có Chúa, Đấng nhìn vượt xa hơn sự mỏng giòn và thấy một nét đẹp không thể thay thế được. Cùng với Ngài chúng ta tái khám phá chúng ta quý giá biết bao nhiêu thậm chí trong sự mong manh của mình. Chúng ta khám phá ra rằng chúng ta giống như những món đồ pha lê xinh đẹp, vừa mỏng giòn dễ vỡ nhưng đồng thời rất quý giá. Và nếu chúng ta cũng trong suốt giống như pha lê, thì ánh sáng của Ngài – ánh sáng của lòng thương xót – sẽ tỏa rạng trong chúng ta và xuyên qua chúng ta đi vào thế giới. Như trong Thư của Thánh Phêrô nói, đây là lý do để được “hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách” (1 Pr 1:6).
Trong ngày Lễ Lòng Chúa Thương xót này, thông điệp đẹp nhất đến từ Tôma, người môn đệ đến sau; ông là người duy nhất vắng mặt. Nhưng Chúa chờ đợi Tôma. Lòng thương xót không bỏ rơi những người đến sau. Giờ đây, khi chúng ta đang trông mong vào một sự phục hồi từ từ và gian khổ sau đại dịch, có nguy cơ là chúng ta sẽ quên những người bị bỏ rơi đằng sau. Nguy cơ sau này chúng ta có thể bị tấn công bởi một con virus còn tồi tệ hơn, đó là con virus thờ ơ ích kỷ. Một con virus lây lan bởi suy nghĩ cho rằng cuộc sống sẽ tốt hơn nếu nó tốt hơn cho tôi, và rằng mọi sự sẽ tốt đẹp nếu nó tốt đẹp cho tôi. Nó bắt đầu từ đó và kết thúc bằng sự lựa chọn người này với người kia, gạt bỏ người nghèo, và hy sinh những người bị bỏ rơi trên bàn thờ của sự tiến bộ. Tuy nhiên, cơn đại dịch hiện tại nhắc nhở chúng ta rằng không có sự khác biệt hoặc những đường biên giới giữa những người đau khổ. Tất cả chúng ta đều mong manh, tất cả đều bình đẳng, tất cả đều quý giá. Ước mong rằng chúng ta được đánh động sâu sắc bởi những gì đang xảy ra chung quanh chúng ta: đã đến lúc phải loại trừ những bất bình đẳng, để chữa lành sự bất công đang bào mòn sức khỏe của toàn gia đình nhân loại! Chúng ta hãy học từ cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi được miêu tả trong Sách Công vụ Tông đồ. Cộng đoàn đón nhận được lòng thương xót và sống lòng thương xót: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu” (Cv 2:44-45). Đây không phải là một trong những hệ tư tưởng: đây là Kitô giáo.
Trong cộng đoàn đó, sau sự phục sinh của Chúa Giê-su, chỉ có một người bị bỏ lại đằng sau và những người khác thì chờ đợi Ngài. Ngày nay dường như tình trạng thì ngược lại: một phần nhỏ của gia đình nhân loại tiến về phía trước, trong khi đa phần vẫn ở lại phía sau. Mỗi người chúng ta có thể nói rằng: “Đây là những vấn đề phức tạp, việc của tôi không phải là đi chăm sóc người thiếu thốn, có những người khác quan tâm đến điều đó rồi!” Thánh Faustina viết sau khi gặp gỡ Chúa Giêsu: “Trong một linh hồn đang đau khổ, chúng ta sẽ nhìn thấy Chúa Giêsu trên thập giá, không phải là một người ăn bám hay một gánh nặng … [Thiên Chúa] Người ban cho chúng con cơ hội để thực hành những việc của lòng thương xót, và chúng con lại thực hành việc đưa ra những phán xét” (Nhật ký, 6 tháng Chín, 1937). Tuy nhiên, chính thánh nhân một ngày kia đã phàn nàn với Chúa Giêsu rằng khi có lòng thương xót, người ta lại cho rằng đó là người khờ dại. Thánh nhân nói, “Lạy Chúa, họ thường lạm dụng lòng tốt của con.” Và Chúa Giêsu trả lời: “Đừng quan tâm, đừng để điều đó làm phiền con, hãy luôn tỏ lòng thương xót với tất cả mọi người” (24 tháng Mười Hai 1937). Với mọi người: chúng ta đừng chỉ nghĩ riêng đến những lợi ích của chúng ta, những lợi ích được trao cho chúng ta. Chúng ta hãy đón thời gian thử thách này như một cơ hội để chuẩn bị cho tương lai chung của chúng ta. Vì nếu không có tầm nhìn ôm lấy tất cả, thì sẽ không có tương lai cho bất cứ người nào.
Hôm nay tình yêu của Chúa Giêsu làm hồi sinh tâm hồn của người môn đệ. Giống như Thánh Tông đồ Tôma, chúng ta hãy đón nhận lòng thương xót, ơn cứu độ của thế giới. Và chúng ta hãy thể hiện lòng thương xót cho những người dễ bị tổn thương nhất; vì chỉ bằng cách này thì chúng ta mới xây dựng được một thế giới mới.
Nguồn: daminhtamhiep.net (20.04.2020)
Đức Phanxicô, ngày 23.04.2017 – Chiếc áo trắng
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Mỗi Chúa nhật chúng ta tưởng niệm cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, nhưng trong mùa này sau lễ Phục Sinh, Chúa nhật có một ý nghĩa càng rạng ngời hơn. Trong truyền thống của Giáo Hội, Chúa nhật này được gọi là “in albis”, thành ngữ này muốn nhắc lại nghi thức mà những người đã chịu phép rửa tội trong đêm vọng Phục Sinh thi hành. Mỗi người nhận được một áo trắng, alba, để chỉ phẩm giá mới của con cái Thiên Chúa. Chúa nhật hôm nay cũng vậy, các tân tòng nhận được một chiếc áo trắng nhỏ tượng trưng, trong khi những người lớn thì mặc áo trắng lớn của mình. Áo này, xưa kia, được mặc trong một tuần lễ, cho đến Chúa nhật in albis - tức là Chúa nhật sau lễ Phục Sinh - khi họ cởi áo này và các tân tòng bắt đầu đời sống mới trong Chúa Kitô và trong Giáo Hội.
Trong Năm Thánh 2000, thánh Gioan Phaolô II đã qui định rằng Chúa nhật này được dâng kính Lòng Chúa thương xót. Thật là một trực giác rất đẹp! Năm Thánh đặc biệt Lòng Thương Xót cũng mới kết thúc cách đây vài tháng và Chúa nhật này mời gọi chúng ta mạnh mẽ lấy lại ơn thánh xuất phát từ lòng thương xót của Thiên Chúa. Tin mừng hôm nay là một trình thuật cuộc hiện ra của Chúa Kitô Phục Sinh với các môn đệ họp nhau trong Nhà Tiệc Ly (Xc Ga 20,19-31). Thánh Gioan kể rằng Chúa Giêsu, sau khi chào các môn đệ, Ngài nói với họ: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói rồi, Ngài thổi hơi vào họ và nói thêm: “Các con hãy nhận lấy Thánh Linh. Các con tha tội cho ai thì người ấy được tha” (vv.21-23). Đó là ý nghĩa lòng thương xót được trình bày trong ngày Chúa Giêsu sống lại như ơn tha thứ tội lỗi. Chúa Giêsu đã thông truyền cho Giáo Hội của Ngài, như nghĩa vụ đầu tiên, chính sứ mạng của Ngài là mang đến cho tất cả mọi người sự loan báo cụ thể về ơn tha thứ. Dấu chỉ hữu hình này về lòng thương xót của Chúa mang theo an bình trong tâm hồn và niềm vui được tái gặp gỡ với Chúa.
Lòng thương xót dưới ánh sáng Phục Sinh tỏ cho thấy được nhận thức như một hình thức ý thức thực sự về mầu nhiệm chúng ta đang sống. Chúng ta biết rằng ta nhận biết qua nhiều hình thức: qua các giác qua, qua trực giác, lý trí, và những cách khác. Đúng thế, ta cũng có thể nhận biết qua kinh nghiệm về lòng thương xót nữa! Lòng thương xót mở cửa tâm trí để hiểu rõ hơn mầu nhiệm Thiên Chúa và cuộc sống bản thân chúng ta. Lòng thương xót giúp hiểu rằng bạo lực, oán hận, trả thù không có ý nghĩa gì, và nạn nhân đầu tiên chính là người sống những tâm tình ấy, vì họ bị mất phẩm giá của mình. Lòng thương xót cũng mở cửa tâm hồn và giúp biểu lộ sự gần gũi, nhất là với những người lẻ loi và bị gạt ra ngoài lề, vì làm cho họ cảm thấy là anh chị em của nhau và là con của một Cha duy nhất. Lòng thương xót giúp nhận ra những người cần an ủi và làm cho ta tìm được những lời nói thích hợp để ủi an họ. Lòng thương xót sửa ấm tâm hồn và làm cho nó nhạy cảm đối với những nhu cầu của anh chị em qua sự chia sẻ và tham gia. Tóm lại, lòng thương xót kêu gọi mọi người trở thành dụng cụ của công lý, hòa giải, và hòa bình. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng lòng thương xót chính là chìa khóa chủ yếu trong đời sống đức tin, và là hình thức cụ thể qua đó chúng ta mang lại sự cụ thể hữu hình cho sự sống lại của Chúa Giêsu.
Xin Mẹ Maria, Mẹ Từ Bi Thương Xót, giúp chúng ta tin và vui sống tất cả những điều ấy.
Nguồn:archivioradiovaticana.va (23.04.2017)
Đức Phanxicô, ngày 27.04.2014 – Vết thương vinh hiển của Chúa Phục sinh
Nơi trọng tâm Chúa nhật kết thúc Tuần Bát Nhật Phục Sinh này, mà Đức Gioan Phaolô II đã muốn gọi là Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa, có những vết thương vinh hiển của Chúa Giêsu Phục sinh.
Chúa đã tỏ các vết thương ấy lần đầu tiên khi Ngài hiện ra với các Tông Đồ, chính buổi chiều tối ngày sau ngày sabát, ngày Phục sinh, nhưng chiều tối hôm ấy không có tông đồ Tôma; và khi nhưng vị khác kể lại với ông là đã thấy Chúa, ông trả lời là sẽ không tin nếu không nhìn thấy và động chạm đến các vết thương của Ngài. Tám ngày sau, Chúa Giêsu lại hiện ra tại Nhà Tiệc Ly, giữa các môn đệ, và có cả Tôma; Ngài ngỏ lời với ông và mời ông chạm đến các vết thương của Ngài. Bấy giờ con người chân thành ấy, con người quen đích thân kiểm chứng, liền quỳ xuống trước Chúa Giêsu và thưa: ”Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28).
Những vết thương của Chúa Giêsu là cớ vấp phạm đối với đức tin, nhưng chúng cũng là điều kiểm chứng niềm tin. Vì thế nơi thân thể của Chúa Kitô Phục Sinh, những vết thương ấy không biến mất, nhưng tồn tại, vì những vết thương ấy là dấu chỉ trường tồn về tình thương của Thiên Chúa đối với chúng ta, và chúng không thể thiếu được để tin nơi Thiên Chúa. Không phải để tin Thiên Chúa hiện hữu, nhưng để tin rằng Thiên Chúa là tình thương, là lòng từ bi, trung tín. Thánh Phêrô, nhắc lại Ngôn sứ Isaia, đã viết cho các tín hữu Kitô: ”Từ những vết thương của Người, anh chị em được chữa lành” (1 Pr 2,24; Xc Is 53,5).
Đức Gioan XXIII và Gioan Phaolô II đã can đảm nhìn những vết thương của Chúa Giêsu, động chạm đến những bàn tay bị thương và cạnh sườn của Chúa bị đâm thâu qua. Các vị đã không hổ thẹn vì thân thể của Chúa Kitô, không vấp phạm về Chúa, về thập giá của Ngài (Is 58,7); không hổ thẹn vì thân mình của người anh em (Xc 58,7), vì nơi mỗi người đau khổ, các vị nhìn thấy Chúa Giêsu. Hai vị là những người can đảm, đầy ơn táo bạo (parresía) của Chúa Thánh Linh, và đã làm chứng cho Giáo Hội và thế giới về lòng từ nhân của Thiên Chúa, về lòng từ bi của Chúa. Các vị đã là những linh mục, giám mục và giáo hoàng của thế kỷ 20. Các vị đã sống những thảm trạng, nhưng không để chúng lướt thắng. Nơi các vị, Thiên Chúa mạnh mẽ hơn; niềm tin nơi Chúa Giêsu Đấng Cứu Chuộc con người và là Chúa tể của lịch sử mạnh mẽ hơn; nơi các vị sự gần gũi từ mẫu của Mẹ Maria mạnh mẽ hơn. Nơi hai vị là những người chiêm ngắm các vết thương của Chúa Kitô và là chứng nhân về lòng từ bi của Chúa có một ”niềm hy vọng sinh động”, cùng với một ”niềm vui khôn tả và vinh hiển” (1 Pr 1,3.8). Niềm hy vọng và niềm vui mà Chúa Kitô phục sinh ban cho các môn đệ của Ngài, và không ai và không gì có thể làm cho họ bị thiếu những hồng ân ấy. Niềm hy vọng và niềm vui phục sinh, được thanh luyện qua cái lò từ bỏ, loại trừ sự gần gũi tội lỗi cho đến tột cùng, đến độ cảm thấy buồn nôn vì chén đắng. Đó chính là niềm hy vọng và niềm vui mà hai vị Thánh Giáo Hoàng đã lãnh nhận như hồng ân từ Chúa phục sinh và tiếp đến, các vị đã trao tặng dồi dào cho Dân Chúa, và được lòng biết ơn đời đời của họ.
Niềm hy vọng và niềm vui này được cảm nghiệm trong cộng đoàn đầu tiên của các tín hữu ở Jerusalem, như sách Tông đồ công vụ kể lại (Xc 2,42-47). Đó là một cộng đoàn trong đó nòng cốt của Tin Mừng được sống thực, nghĩa là tình thương, lòng từ bi, trong đơn sơ và huynh đệ.
Và đó là hình ảnh Giáo Hội mà Công đồng chung Vatican II đã có trước mắt. Đức Gioan XXIII và Gioan Phaolô II đã cộng tác với Chúa Thánh Linh để phục hồi và canh tân Giáo Hội theo dạng thức nguyên thủy, dạng thức mà các thánh qua các thế kỷ đã mang lại cho Giáo Hội. Chúng ta đừng quên rằng chính các thánh đã làm cho Giáo Hội tiến bước và tăng trưởng. Trong việc triệu tập Công đồng chung Vatian II, Đức Gioan XXIII đã chứng tỏ một thái độ ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh, đã để cho Chúa hướng dẫn, và đối với Giáo Hội, Người là một vị mục tử đối với Hội Thánh, một vị hướng đạo được hướng dẫn. Đó chính là một sự phục vụ cao cả Người dành cho Giáo Hội; Người là một vị Giáo Hoàng ngoan ngoãn tuân theo Chúa Thánh Linh.
Trong việc phục vụ Dân Chúa, Đức Gioan Phaolô II là vị Giáo Hoàng của gia đình. Chính Người đã có lần nói là muốn được nhắc nhớ đến như vị Giáo Hoàng của gia đình. Tôi vui lòng nhấn mạnh điều đó trong lúc chúng ta đang sống hành trình Thượng HĐGM về gia đình và với các gia đình, một hành trình mà từ trời cao, chắc chắn Người đang tháp tùng và hỗ trợ. xin cả hai vị tân Hiển Thánh Mục Tử của Dân Chúa chuyển cầu cho Giáo Hội, để trong hai năm hành trình Thượng Hội đồng Giám mục này, Giáo hội ngoan ngoãn tuân theo chỉ dạy của Chúa Thánh Linh trong việc phục vụ mục vụ gia đình. Xin cả hai thánh nhân dạy chúng ta đừng coi các vết thương của Chúa Kitô như cớ vấp phạm, tập trung vào mầu nhiệm từ bi của Chúa, luôn hy vọng, luôn tha thứ, luôn yêu thương.
Nguồn: archivioradiovaticana.va (27.04.2014)
Đức Bênêđictô XVI, ngày 01.05.2011 (bài giảng phong chân phước cho Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II) – Phúc cho những người không thấy mà tin
Anh chị em thân mến,
Cách đây hơn 6 năm, chúng ta đã tụ họp tại Quảng trường này để cử hành lễ an táng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Nỗi đau buồn vì sự mất mát thật là sâu đậm, nhưng cũng có một cảm thức lớn lao hơn nữa về một ân phúc vô biên bao trùm Roma và toàn thế giới: ân phúc ấy như là thành quả trọn cuộc đời vị Tiền Nhiệm yêu quí của tôi và đặc biệt là chứng tá của ngài trong đau khổ. Ngay từ ngày ấy, chúng ta đã cảm thấy hương thơm thánh thiện của ngài loan tỏa và Dân Chúa đã biểu lộ lòng tôn kính ngài bằng nhiều cách. Vì thế, tôi đã muốn rằng án phong chân phước cho ngài được tiến hành sớm trong niềm tôn trọng đúng phép đối với qui luật của Giáo Hội. Và nay, ngày mong đợi đã đến; và đã đến sớm, vì điều đẹp lòng Chúa là: Đức Gioan Phaolô II là chân phước!
Chúa nhật này được chọn làm ngày cử hành lễ phong chân phước vì, do một ý định của Chúa Quan Phòng, vị Tiền Nhiệm của tôi đã từ trần chính vào tối hôm áp lễ này. Ngoài ra, hôm nay là ngày đầu tháng 5, tháng kính Đức Mẹ Maria và cũng là ngày kính nhớ thánh Giuse Thợ. Các yếu tố này góp phần làm cho kinh nguyện của chúng ta thêm phong phú, nâng đỡ chúng ta là những người còn lữ hành trong thời gian và không gian; trong khi ở trên trời, đại lễ nơi các Thiên Thần và các Thánh rất khác! Tuy nhiên, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, một Đức Kitô là Chúa, Đấng giống như chiếc cầu nối liền đất và Trời, và chúng ta trong lúc này đây, chúng ta cảm thấy gần gũi hơn bao giờ hết, như thể được tham dự vào Phụng vụ thiên quốc.
“Phúc cho những người không thấy mà tin” (Ga 20,29). Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tuyên bố mối phúc này: mối phúc đức tin này đánh động chúng ta một cách đặc biệt vì chúng ta tụ họp nơi đây để cử hành một lễ phong chân phước, và hơn nữa, hôm nay là lễ phong chân phước cho một vị Giáo Hoàng, người Kế Vị thánh Phêrô được kêu gọi củng cố anh em mình trong đức tin. Đức Gioan Phaolô II là chân phước vì niềm tin của ngài, niềm tin mạnh mẽ và quảng đại, tông truyền. Và chúng ta nhớ ngay tới một mối phúc khác: “Hỡi Simon, con của Giona, con có phúc vì không phải phàm nhân tỏ điều đó cho con, nhưng chính là Cha Thầy ở trên trời” (Mt 16,17). Cha trên trời đã tỏ điều gì cho Simon? Thưa đó là: Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Do niềm tin đó, Simon trở thành “Phêrô”, là đá tảng trên đó Chúa Giêsu xây dựng Giáo Hội của Người. Hạnh phúc vĩnh cửu của Đức Gioan Phaolô II mà hôm nay Giáo Hội vui mừng tuyên bố, hệ tại lời này của Chúa Kitô: “Hỡi Simon, con có phúc” và “Phúc cho những ai không thấy mà tin!”. Hạnh phúc đức tin, mà Đức Gioan Phaolô II đã lãnh nhận từ Chúa Cha như hồng ân, để xây dựng Giáo Hội của Chúa Kitô.” (...)
Anh chị em thân mến, hôm nay hình ảnh Đức Gioan Phaolô II kính mến chiếu tỏa rạng ngời trước mắt chúng ta trong ánh sáng thiêng liêng tràn đầy của Chúa Kitô phục sinh. Hôm nay tên của ngài được thêm vào hàng ngũ các thánh và chân phước mà ngài đã tôn phong trong gần 27 năm làm Giáo Hoàng, nhắc nhớ hùng hồn về ơn gọi của tất cả hãy đạt tới đỉnh cao của đời sống Kitô, đạt tới sự thánh thiện, như Hiến chế Lumen gentium, Ánh sáng muôn dân, của Công đồng đã quả quyết. Tất cả mọi thành phần của Dân Chúa - Giám Mục, Linh Mục, phó tế, giáo dân, tu sĩ nam nữ - chúng ta đang tiến về quê hương thiên quốc, nơi mà Đức Trinh Nữ Maria đi trước chúng ta, Mẹ kết hiệp một cách đặc biệt và hoàn hảo với mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội. Đức Karol Wojtila, trước tiên như Giám Mục Phụ tá, rồi như Tổng Giám Mục giáo phận Cracovia, đã tham dự Công Đồng Chung Vatican II và ngài biết rõ rằng sự kiện Công Đồng dành cho Mẹ Maria chương cuối cùng trong Văn kiện về Giáo Hội có nghĩa là đặt Mẹ Đấng Cứu Chuộc như hình ảnh và mẫu gương thánh thiện cho mỗi Kitô hữu và cho toàn thể Giáo Hội. Cái nhìn thần học này cũng là cái nhìn mà Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã khám phá khi còn trẻ, và sau đó đã bảo tồn và đào sâu suốt đời. Đó là một cái nhìn được tóm gọn trong hình ảnh của Kinh Thánh về Chúa Kitô trên Thánh Giá cạnh Đức Maria Mẹ Người. Đó là một hình ảnh ở trong Tin mừng theo thánh Gioan (19,25-27) và được tóm tắt trong huy hiệu Giám Mục và huy hiệu Giáo Hoàng của Đức Karol Wojtila: trên đó có một Thánh Giá màu vàng, một chữ M dưới chân bên phải của Thánh Giá, và khẩu hiệu “Totus tuus”, Toàn thân con thuộc về Mẹ, là câu nói nổi tiếng của thánh Louis Marie de Montfort trong đó Đức Karol Wojtila đã tìm được nguyên lý nền tảng cho cuộc đời của ngài: “Toàn thân con thuộc về Mẹ, mọi sự của con là của Mẹ. Con đón nhận Mẹ trong mọi sự của con. Lạy Mẹ Maria, xin ban cho con trái tim Mẹ” (Totus tuus ego sum et omnia mea tua sunt. Accipio Te in mea omnia. Praebe mihi cor tuum) (Trattato della vera devozione alla Santa Vergina, n.266).
Trong di chúc, Đức tân chân phước đã viết: “Ngày 16-10-1978, khi mật nghị Hồng chọn Gioan Phaolô II, Đức Hồng Y Stefan Wyszynbski, Giáo Chủ Ba Lan, nói với tôi: “Nhiệm vụ của vị Giáo Hoàng mới là đưa Giáo Hội vào Ngàn Năm Thứ Ba”. Và ngài viết thêm: “Một lần nữa tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đối với Chúa Thánh Linh vì đại hồng ân Công Đồng Chung Vatican II, mà tôi cảm thấy mắc nợ cùng với toàn thể Giáo Hội, nhất là toàn thể hàng Giám Mục. Tôi xác tín rằng về lâu về dài các thế hệ mới còn được kín múc từ sự phong phú mà Công Đồng Chung của thế kỷ 20 đã rộng ban cho chúng ta. Trong tư cách là Giám Mục đã tham dự Công đồng từ ngày đầu tiên đến ngày cuối cùng, tôi muốn phó thác gia sản lớn lao này cho tất cả những người đang và sẽ được kêu gọi thi hành gia sản này trong tương lai. Về phần tôi, tôi cảm tạ vị Mục Tử Vĩnh Cữu đã cho tôi được phục vụ chính nghĩa rất cao cả trong tất cả những năm qua trong triều đại Giáo Hoàng của tôi”.
Đâu là chính nghĩa ấy? Chính nghĩa ấy đã được Đức Gioan Phaolô II nói đến trong thánh lễ trọng thể đầu tiên của ngài tại Quảng trường thánh Phêrô, với những lời đáng ghi nhớ: “Anh chị em đừng sợ! Hãy mở ra, đúng hơn, hãy mở toang mọi cánh cửa cho Chúa Kitô!”. Điều mà Đức tân Giáo Hoàng yêu cầu tất cả mọi người, chính ngài đã thi hành trước tiên: ngài đã mở rộng cho Chúa Kitô xã hội, văn hóa, các chế độ chính trị và kinh tế, với sức mạnh của một người khổng lồ, sức mạnh ngài nhận được từ Thiên Chúa, ngài đã đảo lộn một xu hướng dường như không thể lật ngược được”.
Đức Karol Wojtila lên ngai tòa thánh Phêrô mang theo suy tư sâu sắc của ngài về sự đối chiếu giữa thuyết mác xít và Kitô giáo, quy trọng tâm vào con người. Sứ điệp của ngài là: con người là đường đi của Giáo Hội và Chúa Kitô là con đường của con người. Với sứ điệp này, vốn là đại gia sản của Công Đồng Chung Vatican II và của Vị Tôi Tớ Chúa Đức Giáo Hoàng Phaolô 6, “hoa tiêu” của Công Đồng, Đức Gioan Phaolô II đã hướng dẫn Dân Chúa tiến qua ngưỡng cửa Ngàn Năm Thứ Ba, mà nhờ Chúa Kitô, ngài đã có thể gọi là “ngưỡng cửa hy vọng”. Đúng vậy, qua hành trình dài chuẩn bị Đại Năm Thánh, Ngài đã mang lại cho Kitô giáo một hướng đi mới tiến về tương lai, tương lai của Thiên Chúa, tương lai siêu việt so với lịch sử, nhưng cũng ảnh hưởng trên lịch sử. Sức mạnh của niềm hy vọng ấy trước đó phần nào đã bị nhường cho chủ thuyết mác xít và ý thức hệ tiến bộ, nhưng ngài đã phục hồi một cách hợp pháp cho Kitô giáo, trả lại cho Kitô giáo hình dạng đích thực của niềm hy vọng, một niềm hy vọng cần được sống trong lịch sử với tinh thần chờ đợi, trong cuộc sống bản thân và cộng đồng, hướng về Chúa Kitô, là sự sung mãn của con người và là sự viên mãn những mong đợi công lý và hòa bình.
Sau cùng, tôi cũng muốn cảm tạ Thiên Chúa vì kinh nghiệm bản thân Chúa đã ban cho tôi, được cộng tác lâu dài với Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Trước kia, tôi đã từng được biết và quí mến ngài, nhưng từ năm 1982, khi ngài gọi tôi về Roma làm Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, trong 23 năm trời, tôi đã được ở gần ngài và ngày càng kính mến ngài hơn. Công tác phục vụ của tôi được nâng đỡ nhờ linh đạo sâu xa và những trực giác phong phú của ngài. Gương cầu nguyện của ngài luôn đánh động và khích lệ tôi: Ngài chìm đắm trong cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, dù giữa bao nhiêu công việc bề bộn trong sứ vụ của ngài. Rồi chứng tá của ngài trong đau khổ: Chúa đã dần dần tước bỏ mọi sự của ngài, nhưng ngài vẫn luôn là “một đá tảng” như Chúa Kitô đã muốn. Lòng khiêm tốn sâu xa của ngài được ăn rễ sâu nơi sự kết hiệp thân mật với Chúa Kitô, đã giúp ngài tiếp tục hướng dẫn Giáo Hội và mang lại cho thế giới một sứ điệp hùng hồn hơn, chính trong thời kỳ sức lực thể lý của ngài bị suy giảm. Vì thế, ngài đã thực hiện một cách ngoại thường ơn gọi của mỗi linh mục và giám mục, đó là trở nên một với Chúa Giêsu, Đấng mà hằng ngày các vị lãnh nhận và trao ban trong Thánh Thể.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II quí yêu, phúc cho ngài vì ngài đã tin! Chúng con xin ngài tiếp tục nâng đỡ niềm tin của Dân Chúa từ trời cao. Amen.
Nguồn: archivioradiovaticana.va (01.05.2011)
Đức Bênêđictô XVI, ngày 30.03.2008 – Nguồn hy vọng cho nhân loại
Anh chị em thân mến
Trong Năm Thánh 2000, vị Tôi tớ Chúa đáng mến Gioan Phaolô II đã ấn định rằng trong toàn thể Hội thánh, chúa nhựt sau lễ Phục sinh, ngoài danh hiệu Chúa nhựt Áo trắng, sẽ còn được đặt tên là Chúa nhựt kính Lòng Chúa Thương xót. Điều này đã xảy ra trùng với lễ phong thánh cho chị Faustina Kowalska, một nữ tu khiêm tốn người Ba lan, sinh năm 1903 và qua đời năm 1938, một người nhiệt thành truyền bá lòng sùng kính Chúa Giêsu Thương xót. Thực ra lòng thương xót là cốt lõi của sứ điệp Tin mừng, và chính là danh tính của Thiên Chúa, dung mạo đã được mặc khải trong Cựu ước và một cách sung mãn ở nơi đức Giêsu Kitô, là Tình thương tạo dựng và cứu chuộc nhập thể.
Lòng thương xót của Chúa cũng làm sáng tỏ dung mạo của Hội thánh, và được biểu lộ qua các bí tích, cách riêng là bí tích Hoà giải, cũng như qua các hoạt động bác ái, tập thể hay cá nhân. Tất cả những gì mà Hội thánh nói và thực hiện, đều nhằm bày tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho con người. Mỗi khi Hội thánh nhắc nhớ một chân lý đã bị bỏ sót hay một điều tốt đã bị méo mó, thì Hội thánh làm do lòng thương xót thúc đẩy, ngõ hầu nhân loại được sống và sống dồi dào (xc Ga 10,10). Do lòng thương xót của Thiên Chúa mang lại bình an cho tâm hồn, phát sinh bình an chân chính trên thế giới, bình an giữa các dân tộc, văn hoá, tôn giáo.
Cũng như chị Faustina, đức Gioan Phaolô II đã trở thành một tông đồ của Lòng Chúa Thương xót. Vào buổi tối ngày thứ bảy, mồng 2 tháng 4 năm 2005, Người nhắm mắt lìa trần vào ngày áp chúa nhựt kính Lòng Chúa Thương xót, và nhiều người đã nhận ra sự trùng hợp đặc biệt đó, liên kết chiều kích Thánh mẫu, ngày thứ 7 đầu tháng, với Lòng Chúa Thương xót. Thực vậy, đây là trung tâm của triều đại giáo hoàng lâu dài của Người: trót sứ mạng của Người để phục vụ chân lý về Thiên Chúa và về con người, về hoà bình trên thế giới được tóm lại trong lời loan báo lòng Chúa thương xót, như Người đã có lần nói tại Cracovia-Lagiewniki năm 2003 vào dịp khánh thành thánh điện kính Lòng Chúa Thương xót: “ngoài lòng Chúa Thương xót ra, không còn nguồn hy vọng nào khác cho nhân loại”. Như vậy sứ điệp của Người, cũng như của chị Faustina đã nhắc đến dung mạo của Chúa Kitô, đấng mặc khải lòng thương xót của Thiên Chúa. Chiêm ngắm Dung nhan của Chúa Kitô: đó là gia sản mà Người để lại cho chúng ta, và chúng ta hoan hỉ đón nhận.
Đề tài lòng Chúa thương xót sẽ được học hỏi cách đặc biệt trong những ngày sắp tới, nhân dịp Hội nghị thế giới lần thứ nhất về lòng Chúa Thương xót sắp diễn ra tại Rôma, và sẽ được khai mạc với Thánh lễ mà tôi sẽ chủ sự vào sáng thứ tư, mồng 2/4, giáp 3 năm ngày vị Tôi tớ Chúa Gioan Phaolô II qua đời. Chúng ta hãy đặt Hội nghị này ở dưới sự che chỏ của Đức Maria chí thánh, Mẹ của lòng thương xót, Mater Misericordiae. Chúng ta hãy ký thác cho Mẹ nền hoà bình thế giới, để nài xin Chúa thực hiện điều mà sức con người xem ra không thực hiện nổi, và xin Chúa khơi lên trong trái tim con người lòng can đảm đối thoại và hoà giải.
Nguồn: archivioradiovaticana.va (30.03.2008)
LỜI CHÚA
Bài Ðọc I: Cv 2, 42-47
"Tất cả mọi kẻ tin, đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung".
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.
Khi ấy, các anh em bền bỉ tham dự những buổi giáo lý của các Tông đồ, việc thông hiệp huynh đệ, việc bẻ bánh và cầu nguyện. Mọi người đều có lòng kính sợ. Vì các Tông đồ làm nhiều việc phi thường và nhiều phép lạ tại Giêrusalem, nên mọi người đều sợ hãi. Tất cả mọi kẻ tin đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ bán tài sản gia nghiệp, rồi phân phát cho mọi người tuỳ nhu cầu từng người. Hằng ngày họ hợp nhất một lòng một ý cùng nhau ở trong đền thờ, bẻ bánh ở nhà, họ dùng bữa cách vui vẻ đơn sơ; họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân mến chuộng. Hằng ngày Chúa cho gia tăng số người được cứu rỗi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 2-4. 13-15. 22-24
Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở.
Xướng: 1) Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi nhà Aaron, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người muôn thuở".
Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở.
2) Tôi đã bị đẩy, bị xô cho ngã xuống, nhưng Chúa đã phù trợ tôi. Chúa là sức mạnh, là dũng lực của tôi, và Người trở nên Ðấng cứu độ tôi. Tiếng reo mừng và chiến thắng vang lên trong cư xá những kẻ hiền nhân. Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt.
Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở.
3) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.
Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở.
Bài Ðọc II: 1 Pr 1, 3-9
"Nhờ việc Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống".
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì lòng từ bi cao cả, nhờ việc Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống, được hưởng gia nghiệp không hư nát, tinh tuyền, không suy tàn, dành để cho anh em trên trời. Anh em được bảo vệ trong quyền năng của Thiên Chúa, nhờ tin vào sự cứu độ đã được mạc khải trong thời sau hết. Lúc đó anh em sẽ vui mừng, tuy bây giờ anh em phải sầu khổ một ít lâu giữa trăm chiều thử thách, để đức tin anh em được tôi luyện, nên quý hơn vàng được thử lửa bội phần, nhờ đó, anh em được ngợi khen, vinh quang và vinh dự khi Ðức Giêsu Kitô hiện đến. Anh em yêu mến Ngài, dù không thấy Ngài, và anh em tin Ngài, dù bây giờ anh em cũng không thấy Ngài; bởi anh em tin, anh em sẽ được vui mừng vinh quang khôn tả, vì chắc rằng anh em đạt tới cứu cánh của đức tin là phần rỗi linh hồn.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 20, 29
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 20, 19-31
"Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
Ðó là lời Chúa.