|
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Chúa Kitô Vua năm C, Tông du Nhật Bản (24/11/2019) - Tiếng nói cuối cùng |
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Chúa Kitô Vua năm C, Tông du Giáo phận Asti (20/11/2022) - Làm khán giả hay làm người nhập cuộc
(Thánh lễ trong cuộc tông du Giáo phận Asti và ban thừa tác vụ giúp lễ cho thầy Stefano)
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đã thấy chàng thanh niên Stefano này, người đã xin được lãnh nhận thừa tác vụ giúp lễ như một phần trong quá trình chuẩn bị cho chức linh mục. Chúng ta nên cầu nguyện cho anh, để anh kiên trì trong ơn gọi và trung thành với ơn gọi của mình; nhưng chúng ta cũng nên cầu nguyện cho Giáo hội Asti này, để Chúa ban ơn gọi linh mục, bởi vì, như anh chị em thấy, phần lớn giáo dân đều đã cao tuổi, giống như tôi: Cần có những linh mục trẻ, giống như một số linh mục ở đây, những người rất tốt. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban phước lành cho vùng đất này.
Từ những vùng đất này, cha tôi đã lên đường di cư đến Argentina, và giờ đây, trên những vùng đất này, được tô điểm bởi những hoa trái trù phú của đất đai và trên hết là lòng cần cù của người dân bản địa, tôi đã trở về để tìm lại và tận hưởng nguồn cội của mình.
Nhưng hôm nay, một lần nữa, Tin mừng đưa chúng ta trở lại những cội nguồn của đức tin. Chúng được tìm thấy trên mảnh đất khô cằn của đồi Canvê, nơi hạt giống của Chúa Giêsu, qua cái chết, đã làm nẩy mầm niềm hy vọng: được gieo vào lòng đất, nó đã mở đường cho chúng ta đến Thiên Đàng; với cái chết của mình, Người đã ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu; qua cây thánh giá, Người đã mang lại cho chúng ta hoa trái ơn cứu độ. Vì vậy, chúng ta hãy nhìn vào Người, nhìn vào Thánh giá.
Vua theo kiểu Chúa Giêsu
Trên thánh giá chỉ có một câu: “Đây là Vua dân Do Thái” (Lc 23,38). Đây là tước hiệu: Vua. Tuy nhiên, khi quan sát Chúa Giêsu, ý niệm về vua của chúng ta bị đảo lộn. Chúng ta hãy thử tưởng tượng cách trực quan về một vị vua: chúng ta sẽ nghĩ về một người mạnh mẽ ngồi trên ngai vàng với những huy hiệu quý giá, trên tay là vương trượng và những chiếc nhẫn lấp lánh giữa các ngón tay, đồng thời thốt ra những lời long trọng với thần dân của mình. Nói cách chung, đây là hình ảnh mà chúng ta có trong đầu. Nhìn vào Chúa Giêsu, chúng ta thấy điều hoàn toàn ngược lại. Người không ngồi trên ngai vàng thoải mái, mà bị treo trên giá khổ hình; vị Thiên Chúa “hạ bệ kẻ quyền thế” (Lc 1,52) hành động như một tôi tớ bị treo lên thập giá bởi những người quyền thế; được trang điểm chỉ bằng đinh và gai, bị tước bỏ tất cả nhưng lại giàu về tình yêu. Từ ngai thập giá, Người không còn giảng dạy đám đông bằng lời, Người không còn giơ tay để dạy dỗ. Người làm nhiều hơn thế: Người không chỉ tay vào bất cứ ai, nhưng mở rộng vòng tay với mọi người. Đây là cách Vua của chúng ta thể hiện: với vòng tay rộng mở.
Chỉ khi bước vào vòng tay của Người, chúng ta mới hiểu: chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa đã đi đến tận đó, đến tận nghịch lý của thập giá, để ôm lấy mọi thứ của chúng ta, ngay cả những gì xa lạ với Người nhất: cái chết của chúng ta, nỗi đau của chúng ta, sự nghèo khó của chúng ta, sự mong manh của chúng ta. Người trở thành tôi tớ để mỗi người chúng ta cảm thấy mình như một người con; Người để cho mình bị xúc phạm và nhạo báng, để trong mọi sự sỉ nhục, không ai trong chúng ta còn cô độc nữa; Người để mình bị tước đoạt, để không ai cảm thấy bị tước đoạt phẩm giá của họ; Người đã lên thánh giá, để trên mọi thập giá của lịch sử đều có sự hiện diện của Thiên Chúa. Đây là Vua của chúng ta, Vua của vũ trụ vì Người đã vượt qua những biên giới xa xôi nhất của nhân loại, Người đã đi vào hố đen của hận thù và ruồng bỏ để soi sáng mọi cuộc đời và ôm lấy mọi thực tại. Anh chị em thân mến, đây là vị Vua mà chúng ta tôn vinh! Và câu hỏi đặt ra cho chính chúng ta là: Vị Vua của vũ trụ này có phải là vị Vua của sự sống tôi không? Làm sao tôi có thể tôn vinh Người là Chúa của mọi sự nếu Người không trở thành Chúa của đời tôi?
Chúa luôn mở rộng vòng tay
Do đó, chúng ta hãy hướng nhìn về Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh. Hãy xem, Người không chỉ quan sát cuộc sống của bạn trong chốc lát, Người không liếc nhìn bạn như chúng ta vẫn thường làm với Người, nhưng Người ở đó, với vòng tay rộng mở, để nói trong im lặng với bạn rằng không có điều gì về bạn lại xa lạ với Người, rằng Người muốn ôm bạn, nâng bạn dậy và cứu bạn từ chính hiện tại của bạn, với lịch sử, những đau khổ, tội lỗi của bạn. “Nhưng lạy Chúa, có thật là Chúa yêu con với tất cả những vấp ngã của con không?” Ngay bây giờ, hãy nghĩ về sự nghèo khó của chính mình: “Lạy Chúa, Chúa có yêu con với sự nghèo khó thiêng liêng và tất cả những giới hạn này không?” Và Chúa mỉm cười và cho chúng ta hiểu rằng Người yêu thương chúng ta và đã hiến mạng sống vì chúng ta.
Hãy nghĩ về những giới hạn của chính mình, nhưng cũng hãy nghĩ về những điều tốt đẹp. Người yêu thương chúng ta như chúng ta hiện tại, như chúng ta đang có. Người ban cho chúng ta khả năng chế ngự cuộc sống, nếu chúng ta quy phục trước tình yêu nhu mì của Người vốn đề nghị chứ không áp đặt, trước tình yêu của Người vốn luôn tha thứ, luôn nâng bạn dậy, luôn trả lại phẩm giá đế vương của bạn. Đúng vậy, ơn cứu độ đến từ việc để cho mình được Người yêu thương, bởi vì chỉ bằng cách này, chúng ta mới được giải thoát khỏi ách nô lệ của cái tôi, khỏi nỗi sợ hãi cô đơn, khỏi suy nghĩ rằng tôi không thể làm được. Anh chị em thân mến, chúng ta hãy năng đặt mình trước Thánh Giá, và để cho mình được yêu thương, bởi vì những vòng tay rộng mở đó cũng mở cửa thiên đàng cho chúng ta, như cho “người trộm lành”. Chúng ta hãy nghe câu nói đó với chúng ta, câu duy nhất mà hôm nay Chúa Giêsu nói từ trên thập giá: “Anh sẽ được ở với tôi trên trên thiên đàng” (Lc 23,43). Đây là điều Chúa muốn nói với chúng ta mỗi khi chúng ta để cho Người nhìn. Và chúng ta hiểu rằng chúng ta không có một vị thần vô danh ở trên trời, quyền năng và xa cách, nhưng là một vị Thiên Chúa gần gũi, dịu dàng và đầy lòng trắc ẩn, nơi đó Người luôn dang rộng vòng tay để an ủi và triều mến. Đây là vị Vua của chúng ta!
Là khán giả hay người nhập cuộc
Anh chị em thân mến, sau khi đã nhìn xem người, chúng ta có thể làm gì? Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta hai con đường. Trước mặt Chúa Giêsu, có những người đóng vai khán giả và những người nhập cuộc. Các khán giả thì nhiều, chiếm đa số. Thật vậy – bản văn nói – “dân chúng đứng nhìn” (c. 35). Họ không phải là người xấu, nhiều người là tín hữu, nhưng khi nhìn thấy Thánh giá, họ vẫn là khán giả: họ không tiến một bước đến gần về phía Chúa Giêsu, nhưng nhìn Người từ xa, tò mò và thờ ơ, không thực sự quan tâm và cũng chẳng buồn hỏi tôi phải làm gì. Họ đưa ra những bình luận, họ bày tỏ những phán xét và ý kiến, một số người phàn nàn, nhưng tất cả mọi người đều khoanh tay đứng nhìn. Nhưng ngay cả đứng gần thập giá cũng có những khán giả: những người lãnh đạo dân chúng, những người muốn chứng kiến cảnh tượng đẫm máu về kết cục chẳng vinh quang của Chúa Kitô; những người lính, những người hy vọng rằng cuộc hành quyết sẽ sớm kết thúc; một trong những kẻ bị hành quyết cũng trút giận lên Chúa Giê-su. Họ nhạo cười, lăng mạ, xối xả.
Và tất cả những khán giả này chia sẻ một điệp khúc mà bản văn lặp lại ba lần: “Nếu ông là vua thì hãy tự cứu lấy mình đi!” (xem câu 35.37.39) Hãy tự cứu mình, hoàn toàn ngược lại với những gì Chúa Giê-su đang làm, là Đấng không nghĩ đến mình, mà là cứu họ. Ngược lại, tự cứu mình thì dễ lây lan: từ các nhà lãnh đạo, binh lính đến người dân, làn sóng của sự dữ lan đến hầu hết mọi người. Những người đó nói về Chúa Giêsu nhưng không hòa hợp chút nào với Chúa Giêsu. Làn sóng sự dữ luôn lan tràn thế này: nó bắt đầu bằng cách đứng đàng xa, bằng cách nhìn mà không làm gì, bằng cách không quan tâm, chỉ nghĩ đến những gì mình thích và quen thuộc, rồi quay đi hướng khác. Đó cũng là một mối nguy cho đức tin của chúng ta, đức tin sẽ tàn lụi nếu nó chỉ là một mớ lý thuyết và không trở thành một điều thực hành, nếu không có sự can dự, nếu chúng ta không tự hiến mình, nếu chúng ta không đặt mình vào cuộc. Sau đó, chúng ta trở thành những Kitô hữu kiểu nước hoa hồng, những người nói rằng tôi tin Chúa và muốn hòa bình, nhưng lại không cầu nguyện và không quan tâm đến người khác. Chỉ là những Kitô hữu trên danh nghĩa.
Như anh trộm lành
Có làn sóng sự dữ đã xảy ra ở đồi Canvê, nhưng cũng có một sóng tốt lành. Trong số nhiều khán giả, một người đã nhập cuộc, “người trộm lành”. Trong khi những người khác cười nhạo Chúa, anh nói với Người và gọi tên Người: “Giêsu”; trong khi nhiều người trút giận vào Người, anh lại thú nhận lỗi lầm của mình với Chúa; nhiều người nói “hãy tự cứu lấy mình đi”, anh lại cầu nguyện: “Lạy ông Giêsu, xin nhớ đến tôi” (c. 42). Như vậy, một tên tội phạm trở thành vị thánh đầu tiên: anh đến gần Chúa Giêsu trong giây lát và Chúa cho anh ở bên Người mãi mãi. Giờ đây, Tin mừng kể về người trộm lành cho chúng ta, để mời gọi chúng ta chiến thắng sự dữ bằng cách thôi làm những khán giả. Bắt đầu từ đâu? Từ sự tin tưởng, từ việc gọi Thiên Chúa bằng tên, làm như người trộm lành, người đến cuối đời đã tìm thấy sự tin tưởng can đảm của trẻ thơ, những người tin tưởng, cầu xin và nài nỉ. Và với sự tin tưởng, anh thú nhận lỗi lầm của mình, anh khóc nhưng không phải về bản thân mình, mà trước mặt Chúa. Còn chúng ta, chúng ta có niềm tín thác này không, chúng ta mang đến với Chúa Giêsu những gì chúng ta có bên trong hay chúng ta ngụy trang trước mặt Chúa, có lẽ bằng một chút thánh thiêng và trầm hương? Những người thực hành sự tin tưởng học biết chuyển cầu, học cách mang đến với Chúa những gì họ thấy, những đau khổ của thế giới, những người họ gặp, để nói với Người, như anh trộm lành: “Lạy Chúa, xin nhớ”. Chúng ta sống trong thế giới này không phải chỉ tự cứu lấy mình, nhưng để mang anh chị em đến vòng tay của vị Vua. Nhưng khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta cho chuyển cầu không?
Tuỳ vào chọn lựa của chúng ta
Anh chị em thân mến, hôm nay vị Vua của chúng ta từ trên thập giá nhìn chúng ta với vòng tay rộng mở. Tùy thuộc chúng ta chọn trở thành những khán giả hay những người nhập cuộc. Chúng ta thấy những cuộc khủng hoảng ngày nay, sự suy giảm niềm tin, sự thiếu tham gia... Chúng ta phải làm gì? Chúng ta có tự giới hạn mình trong việc đưa ra những lý thuyết, chỉ trích, hay chúng ta xắn tay áo lên, đảm nhận lấy cuộc sống? Chúng ta có đi từ chữ “nếu” của biện hộ đến chữ “xin vâng” của cầu nguyện và phục vụ không? Tất cả chúng ta đều nghĩ rằng mình biết điều gì không ổn trong xã hội, trên thế giới, ngay cả trong Giáo hội, nhưng rồi chúng ta có làm gì không? Chúng ta có để tay mình bị làm bẩn như Chúa chúng ta bị đóng đinh vào cây gỗ hay chúng ta đứng để tay vào túi và quan sát? Hôm nay, trong khi Chúa Giêsu, chịu lột trần trên thập giá, vén bỏ mọi bức màn che phủ Thiên Chúa và phá hủy mọi hình ảnh sai lầm về vương quyền của Người, chúng ta hãy nhìn lên Người và nhờ đó tìm thấy can đảm nhìn về chính mình, để bước đi trên con đường tin tưởng và chuyển cầu, để cho mình trở thành người phục vụ, để được hiển trị với Người.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Chúa Kitô Vua năm C, Tông du Nhật Bản (24/11/2019) - Tiếng nói cuối cùng
“Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23,42).
Vào Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ này, chúng ta cùng đồng thanh với tên trộm bị đóng đinh bên cạnh Chúa Giêsu, người đã nhận ra và tuyên bố Chúa Giêsu là vua. Ở đó, trong giờ phút ít chiến thắng và vinh quang, giữa những tiếng kêu gào chế giễu và sỉ nhục, tên tội phạm đã có thể lên tiếng và tuyên xưng đức tin của mình. Đây là những lời cuối cùng mà Chúa Giêsu lắng nghe; và đến lượt mình, Chúa cũng đã có những lời cuối cùng trước khi phó mình cho Chúa Cha: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43).
Quá khứ không ngay chính của tên trộm ngay lập tức mang một ý nghĩa mới: đồng hành với cuộc khổ nạn của Chúa. Và khoảnh khắc đó không gì khác hơn là xác nhận toàn bộ ý nghĩa cuộc đời của Chúa Giêsu: Đấng luôn luôn và ở khắp mọi nơi để ban ơn cứu độ. Thái độ của tên trộm lành đã biến nỗi kinh hoàng và bất công trên đồi Canvê – nơi sự bất lực và thiếu hiểu biết kết nối với những lời chế giễu và nhạo báng từ những kẻ thờ ơ trước cái chết của một người vô tội – trở thành một thông điệp hy vọng cho toàn thể nhân loại. "Hãy tự cứu mình đi!" Những tiếng la hét chế giễu đầy khinh miệt nhắm vào nạn nhân vô tội của đau khổ sẽ không phải là lời cuối cùng; thay vào đó, chúng sẽ khơi dậy một phản ứng từ những ai để lòng mình được chạm đến, những ai chọn lòng trắc ẩn làm con đường đích thực để định hình lịch sử.
Hôm nay, ở đây chúng ta muốn làm mới lại đức tin và dấn thân của chúng ta. Như người trộm lành, chúng ta biết rõ lịch sử của những thất bại, tội lỗi và giới hạn của chúng ta, nhưng chúng ta không muốn điều này quyết định hiện tại và tương lai của chúng ta. Chúng ta biết rằng tất cả chúng ta đều dễ dàng chọn con đường dễ dàng là hét lên: "Hãy tự cứu mình đi!" và chọn cách không nghĩ đến trách nhiệm xoa dịu nỗi đau của những người vô tội xung quanh. Vùng đất này đã trải qua, như ít quốc gia nào khác, sức mạnh hủy diệt mà con người chúng ta có thể chịu đựng. Giống như người trộm lành, hôm nay, chúng ta muốn sống giây phút mà chúng ta có thể lên tiếng và tuyên xưng đức tin của mình, để bảo vệ và phục vụ Chúa, Người vô tội đau khổ. Chúng ta muốn đồng hành với nỗi thống khổ của Chúa, nâng đỡ Chúa trong lúc cô đơn và bị bỏ rơi. Và một lần nữa, chúng ta lắng nghe ơn cứu độ, đó là lời mà Chúa muốn ban cho mọi người: "Hôm nay anh sẽ ở cùng tôi trên thiên đường".
Thánh Phaolô Miki và các bạn đã hy sinh mạng sống để làm chứng can đảm cho ơn cứu độ và sự chắc chắn ấy, cùng với hàng trăm vị tử đạo mà chứng tá của họ là một phần nổi bật trong di sản tinh thần của anh chị em. Chúng ta muốn tiếp tục bước đi như thế, chúng ta muốn ra đi, tuyên xưng với lòng can đảm rằng tình yêu được Chúa Kitô trao ban, hy sinh và tôn vinh trên thập giá có thể vượt qua mọi hận thù, ích kỷ, sỉ nhục; có thể vượt qua bất kỳ sự bi quan biếng nhác hoặc mê ngủ trong an hưởng. Như Công đồng Vatican II đã nhắc nhở chúng ta: Chúng ta là công dân của cả hai đô thị, hãy nỗ lực chu toàn cách trung thành những bổn phận trần thế, và chu toàn dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc âm. Thực sai lầm cho những ai đang khi biết rằng chúng ta không có một quê hương trường tồn ở trần thế và đang phải kiếm tìm một quê hương hậu lai để rồi vì đó tưởng rằng mình có thể xao lãng các bổn phận trần gian (Gaudium et spes, 43).
Đức tin của chúng ta là tin vào Thiên Chúa của người sống. Chúa Kitô đang sống và đang hành động giữa chúng ta, hướng dẫn tất cả chúng ta đến cuộc sống viên mãn. Chúa Kitô đang sống và Người muốn chúng ta sống: đây là niềm hy vọng của chúng ta (Christus Vivit, 1). Mỗi ngày, chúng ta khẩn nài: Lạy Chúa, xin cho Nước Chúa trị đến. Và khi làm như vậy, chúng ta cũng muốn cuộc sống và hành động của chúng ta trở thành một lời khen ngợi. Nếu sứ mệnh của chúng ta là môn đệ truyền giáo, làm chứng và loan báo những gì sẽ đến, thì điều này không cho phép chúng ta cam chịu trước sự dữ, nhưng thôi thúc chúng ta trở thành men của Nước Chúa. Cho dù chúng ta ở đâu: trong gia đình, tại nơi làm việc, trong công ty, hãy là một lối mở nhỏ, trong đó Thánh Thần tiếp tục thổi bùng niềm hy vọng giữa các dân tộc. Nước Trời là mục đích chung của chúng ta, một mục tiêu không chỉ cho tương lai, nhưng chúng ta khẩn nài và bắt đầu sống Nước Chúa ngay hôm nay. Chúng ta phải biết rằng, sự thờ ơ và im lặng đang bao quanh chúng ta, người già và người tàn tật, người bị bỏ rơi, người tị nạn và người lao động nước ngoài; tất cả đều là bí tích sống động của Chúa Kitô, Vua của chúng ta (Mt 25,31-46). Như thế, nếu chúng ta thực sự xuất phát lại từ việc suy ngẫm Chúa Kitô, chúng ta sẽ biết cách nhìn thấy trong khuôn mặt của những người này chính Chúa muốn đồng hóa với họ ( Novo millennio ineunte, 49).
Trên Núi Sọ, nhiều tiếng nói im lặng, rất nhiều người nhạo báng; chỉ có tên anh trộm lành biết cách đứng lên và bảo vệ người vô tội đau khổ: một hành động can đảm tuyên xưng đức tin. Tùy thuộc vào việc mỗi chúng ta quyết định giữ im lặng, chế giễu hoặc nói lời ngôn sứ.
Anh chị em thân mến, Nagasaki đã để lại trong tâm hồn anh chị em một vết thương khó lành, một biểu hiện của đau khổ không thể giải thích được của rất nhiều người vô tội; nạn nhân của các cuộc chiến tranh trong quá khứ nhưng ngày nay vẫn phải chịu đựng. Tại đây, chúng ta lên tiếng, cùng nhau cầu nguyện cho tất cả những người còn đang phải chịu đau khổ trong thân xác, tội này kêu thấu trời cao. Chúng ta cùng nhau cầu nguyện để cho ngày càng có nhiều người, giống như người trộm lành, không im lặng hoặc chế giễu, nhưng nói lời ngôn sứ bằng tiếng nói của chính mình cho một vương quốc của sự thật và công lý, của sự thánh thiện và ân sủng, của tình yêu và hòa bình.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Chúa Kitô Vua năm C, Bế mạc Năm thánh Lòng Thương Xót (20/11/2016) - Vương Triều nghịch lý của Chúa Kitô
Anh chị em thân mến!
Chúa nhật Kính Chúa Kitô Vua chính là sự kết thúc của năm Phụng vụ và cũng là đỉnh điểm của Năm thánh Lòng Thương Xót này. Nói một cách chính xác, Tin Mừng đã trình bày Vương Triều của Chúa Kitô như là đỉnh điểm công trình cứu chuộc của Ngài, và thực ra, với một cách thức rất đáng ngạc nhiên. “Đấng Messias được Thiên Chúa tuyển chọn”, “Đức Vua” (Lc 23,35.37) đã xuất hiện mà không biểu lộ quyền lực và vinh quang: Ngài chết treo trên Thập Giá, và xem ra là kẻ bị khuất phục chứ không phải là người chiến thắng. Vương Quyền của Ngài là một sự nghịch lý: Ngai của Ngài là Thập Giá, triều thiên của Ngài là mạo gai; Ngài không có vương trượng, nhưng một cây lau đã được đặt vào tay Ngài; Ngài không mang cẩm bào lộng lẫy, nhưng quần áo của Ngài đã bị cướp mất; Ngài không mang nhẫn lấp lánh trên ngón tay, nhưng đôi tay Ngài bị đinh xuyên thủng; Ngài không sở hữu những kho báu, nhưng bị bán với giá ba mươi đồng bạc.
Vương Triều thực sự của Chúa Kitô không phải ở nơi thế gian này (xc. Ga 18,36), nhưng chính xác là trong Ngài, như Thánh Phaolô Tông Đồ nói với chúng ta qua Bài Đọc II, chúng ta thấy ơn cứu độ và ơn tha thứ (xc. Cl 1,13-14). Vì sự vĩ đại của Vương Triều Ngài không hệ tại ở chỗ có quyền lực theo tiêu chuẩn thế gian, nhưng chiếu theo Tình Yêu Thiên Chúa, đó là một Tình Yêu có thể đến được với tất cả và chữa lành tất cả. Nhờ vào Tình Yêu ấy, Chúa Kitô đã hạ mình xuống với chúng ta, đã cư ngụ trong sự nghèo nàn khốn cùng của kiếp con người chúng ta, đã trải qua những điều đáng xấu hổ nhất của kiếp nhân sinh chúng ta: sự bất công, phản bội và bị bỏ rơi; Ngài đã kinh qua sự chết, đã được an táng trong mồ, đã xuống tận âm phủ. Bằng cách đó, Đức Vua của chúng ta đã đi tới tận cùng vũ trụ để ôm lấy tất cả sự sống cũng như để cứu thoát tất cả. Ngài đã không kết tội chúng ta, Ngài cũng không chế ngự chúng ta, Ngài đã không bao giờ gây tổn thương cho sự tự do của chúng ta, nhưng Ngài mở ra con đường thông qua Tình Yêu khiêm nhượng, mà Tình Yêu ấy tha thứ tất cả, hy vọng tất cả và chịu đựng tất cả (xc. 1Cr 13,7). Chỉ Tình Yêu ấy đã chiến thắng kẻ thù to lớn của chúng ta, và Tình Yêu ấy tiếp tục chiến thắng: tội lỗi, tử thần và sự sợ hãi.
Anh chị em thân mến, hôm nay chúng ta công bố cuộc chiến thắng vô tiền khoáng hậu ấy, nhờ vào Chúa Giêsu, Đấng đã trở thành Vua của mọi thời đại, là Chúa của lịch sử: với quyền năng duy nhất của Tình Yêu mà nó là bản thể của Thiên Chúa, là chính sự sống của Ngài, và không bao giờ ngừng (xc. 1Cr 13,8). Chúng ta hãy hân hoan chia sẻ sự tuyệt vời trước việc có Chúa Giêsu làm Vua. Sự thống trị của Ngài sẽ biến tội lỗi thành ân sủng, biến sự chết thành sự phục sinh, biến nỗi sợ hãi thành niềm tín thác.
Như vẫn sẽ còn rất ít nếu như chỉ tin rằng Chúa Giêsu là vua vũ trụ và là trung tâm điểm của lịch sử mà không để cho Ngài trở thành Chúa của đời sống chúng ta: tất cả đều vô ích nếu như chúng ta không đón nhận Ngài cách cá nhân, và nếu như chúng ta không đón nhận cách thức thống trị của Ngài. Ở đây, những con người mà bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu, sẽ giúp chúng ta. Bên cạnh Chúa Giêsu, xuất hiện ba nhân vật: đám đông dân chúng hiếu kỳ, nhóm người bên Thập Giá, và tên gian phi bị đóng đinh bên cạnh Chúa Giêsu.
Trước tiên là đám đông: Tin Mừng nói rằng, “dân chúng đứng nhìn” (Lc 23,35). Không ai nói một lời, không ai đến gần. Dân chúng đứng từ đàng xa để nhìn điều gì đang diễn ra. Đó là những con người giống nhau, vì những nhu cầu riêng của mình, họ đã chen lấn để đến gần Chúa Giêsu, nhưng giờ đây lại giữ khoảng cách. Khi tận mắt chứng kiến những hoàn cảnh cuộc sống hay những mong đợi không được hiện thực hóa của chúng ta, có thể chúng ta cũng sẽ bị cám dỗ muốn giữ khoảng cách với Vương Triều của Chúa Giêsu để không đón nhận sự phẫn nộ nơi Tình Yêu khiêm nhượng của Ngài cho đến cùng, mà Tình Yêu ấy gây tức giận cho cái TÔI của chúng ta cũng như quấy rối nó. Người ta thích ở lại đằng xa, thích đứng xa hơn là đến gần và trở thành người đồng cảnh ngộ. Nhưng Dân Thánh của Thiên Chúa, tức Dân có Chúa Giêsu làm vua, luôn được kêu gọi đi theo con đường Tình Yêu cụ thể của Ngài, để tự hỏi – mỗi người và mỗi ngày: “Tình Yêu đang đòi hỏi gì từ nơi tôi, nó đẩy tôi đi tới đâu? Tôi sẽ trả lời cho Chúa Giêsu làm sao với cuộc sống của mình?”
Có một nhóm thứ hai, nhóm này tập hợp lại từ nhiều cá nhân khác nhau: những nhà lãnh đạo dân, các tên lính và một tên gian phi. Tất cả họ đều chế nhạo Chúa Giêsu. Họ dành cho Ngài những lời khiêu khích giống nhau: “Hãy tự cứu mình đi!” (xc. Lc 23,35.37.39). Đó là một cơn cám dỗ còn tồi tệ hơn là cơn cám dỗ của đám đông. Ở đây, họ cám dỗ Chúa Giêsu, giống như ma quỷ đã làm điều đó lúc khởi đầu Tin Mừng (xc. Lc 4,1-13), để Ngài khước từ việc thống trị theo cách thức của Thiên Chúa, và thay vào đó, theo lô-gích thế gian: xuống khỏi Thập Giá và chiến thắng quân thù! Nếu ngươi là Thiên Chúa thì ngươi hãy biểu lộ quyền năng và sự ưu việt đi! Cơn cám dỗ này chính là đòn tấn công trực tiếp vào Tình Yêu: “Hãy tự cứu mình đi!” (Lc 23,37.39), không phải cứu người khác, nhưng hãy tự cứu mình đi! Cái TÔI có thể chiến thắng với sức mạnh của nó, với danh vọng của nó và với sự thành công của nó. Đó là một cơn cám dỗ đáng sợ nhất, đó là cơn cám dỗ xuất hiện từ đầu đến cuối Tin Mừng. Nhưng khi tận mắt chứng kiến cuộc tấn công vào bản tính có tính sinh tử của con người Ngài, Chúa Giêsu đã không nói bất cứ điều gì, Ngài không hề phản ứng. Ngài không biện minh cũng không cố gắng thuyết phục, Ngài đã không bào chữa cho Vương Triều của Ngài. Thay vào đó, Ngài tiếp tục yêu thương, tha thứ, sống khoảnh khắc thử thách trong sự đồng tâm nhất trí với Thánh Ý của Thiên Chúa Cha, và trong niềm xác tín rằng, Tình Yêu sẽ đơm bông kết trái.
Đón nhận Vương Triều của Chúa Kitô, chúng ta được kêu gọi hãy chiến đấu chống lại cơn cám dỗ và hướng cái nhìn lên Đấng Chịu Đóng Đinh cũng như không ngừng trung tín với Ngài. Trái lại, nhiều người, ngay cả chúng ta nữa, vẫn thường kiếm tìm những sự an toàn mang tính tạm bợ mà thế gian giới thiệu. Chúng ta thường xuyên bị cám dỗ muốn xuống khỏi Thập Giá biết là dường nào. Sức cuốn hút của quyền lực và sự thành công được trình bày như là một con đường dễ dàng và nhanh chóng đối với việc loan báo Tin Mừng, và ở đây, việc Triều Đại Thiên Chúa hoạt động như thế nào sẽ nhanh chóng bị lãng quên. Năm Thánh Lòng Thương Xót này mời gọi chúng ta hãy tái khám phá ra điểm trung tâm để trở về lại với những điều chính yếu. Mùa của Lòng Thương Xót này mời gọi chúng ta hãy nhìn lên dung nhan đích thực của Đức Vua chúng ta, Dung Nhan ấy chiếu sáng trong ngày Phục Sinh, và tái khám phá ra dung nhan trẻ trung và mỹ miều của Giáo hội, mà dung nhan ấy sẽ tỏa sáng khi Giáo hội trở nên hiếu khách, tự do, trung tín, nghèo nàn nơi của cải vật chất, nhưng giầu có nơi Đức Ái và truyền giáo. Nếu như Lòng Thương Xót dẫn chúng ta đi vào trong con tim của Tin Mừng, thì rồi nó cũng đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ những thói quen và những tập quán, mà chúng có thể ngăn cản việc phục vụ Triều Đại Thiên Chúa; Lòng Thương Xót nhắc chúng ta chỉ hướng đến Vương Triều khiêm nhượng của Chúa Giêsu và đừng thích ứng với những vương quyền thiếu chắc chắn và những quyền lực bất định của bất cứ thời đại nào.
Trong Tin Mừng vẫn còn một nhân vật khác, nhân vật này ở ngay bên cạnh Chúa Giêsu. Đó là tên gian phi, anh đã xin Ngài: “Ông Giêsu ơi, khi nào ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42). Con người này đã ngước nhìn lên Chúa Giêsu một cách đơn giản, và qua đó tin vào Vương Quốc của Ngài. Anh đã không tự nhốt mình lại trong chính mình, nhưng đã hướng về Chúa Giêsu với những lỗi lầm, tội lỗi và những khó khăn của mình. Anh đã xin Ngài nhớ đến anh, và anh đã có được kinh nghiệm về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa: “Ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Ngay khi chúng ta trao cho Ngài cơ hội, thì Thiên Chúa sẽ lập tức nhớ tới chúng ta. Ngài sẵn sàng xóa sạch mọi tội lỗi của chúng ta, xóa hoàn toàn và vĩnh viễn, vì ký ức của Ngài không ghi chép lại những điều xấu xa đã làm, và không bao giờ tính toán về những điều bất công đã phải chịu đựng như chúng ta vẫn làm. Thiên Chúa sẽ không nhớ tới những tội lỗi nữa, Ngài nhớ tới chúng ta, nhớ tới từng người một trong chúng ta, những đứa con mến yêu của Ngài. Và Ngài tin rằng, vẫn luôn có thể tái bắt đầu và tái đứng dậy.
Chúng ta cũng hãy cầu xin cho mình ơn có được ký ức rộng mở và sống động ấy. Chúng ta hãy cầu xin cho được ơn đừng bao giờ đóng sập những cánh cửa của sự giao hòa và tha thứ, nhưng luôn luôn vượt lên trên sự ác và những bất đồng, và mở ra bất cứ con đường hy vọng nào có thể. Như Thiên Chúa vẫn tin vào chính chúng ta một cách không giới hạn, bất chấp những công lao của chúng ta, chúng ta cũng được kêu gọi hãy trao tặng niềm hy vọng cho người khác cũng như hãy trao cho họ những cơ hội. Vì ngay cả khi Cổng Thánh được đóng lại, thì cánh cổng đích thực của Lòng Thương Xót, tức Thánh Tâm của Chúa Giêsu, vẫn tiếp tục được mở ra cho chúng ta. Từ cạnh sườn được mở ra của Đấng Phục Sinh, Lòng Thương Xót, niềm ủi an và niềm hy vọng vẫn tiếp tục tuôn trào cho tới thời cùng tận.
Nhiều khách hành hương đã bước qua các Cổng Thánh, và đã kinh qua sự tốt lành lớn lao của Thiên Chúa, vượt sang bên kia những bản báo cáo ồn ào. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa về điều đó, và chúng ta hãy nhớ rằng, Lòng Thương Xót được ban tặng cho chúng ta để chúng ta mang lấy nếp nghĩ của Lòng Thương Xót, và rồi chính chúng ta cũng sẽ trở nên những khí cụ của Lòng Thương Xót. Chúng ta hãy cùng nhau đi tiếp con đường này. Ở đây, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, sẽ đồng hành với chúng ta. Mẹ cũng đã ở gần bên Thập Giá và đã sinh ra chúng ta ở đó với tư cách là Thân Mẫu đầy tình mến của Giáo hội, Mẹ muốn thâu hợp tất cả chúng ta lại dưới tà áo choàng của Mẹ. Dưới chân Thập Giá, Mẹ đã nhìn thấy tên trộm lành đạt tới được ơn tha thứ như thế nào, và đã đón nhận người môn đệ của Chúa Giêsu làm con của Mẹ. Mẹ là Thân Mẫu của Lòng Thương Xót và chúng ta hãy tín thác vào Mẹ: Nếu không có biến cố, không có sự cầu nguyện mà với chúng, chúng ta đến trước cặp mắt đầy Lòng Xót Thương Của Mẹ, thì rồi câu trả lời sẽ vẫn chưa có!
Nguồn: daminhtamhiep.net
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Chúa Kitô Vua năm C, Bế mạc năm Đức tin (24/11/2013) - Chúa Kitô là trung tâm
Hôm nay, trong ngày lễ trọng kính Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ – đỉnh cao của năm phụng vụ – chúng ta cũng cử hành việc bế mạc năm Đức tin, được Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI khai mở; giờ đây chúng ta hướng về ngài với tâm tình yêu mến và tri ân vì món quà quý báu mà ngài đã trao ban. Với sáng kiến đầy quan phòng này, ngài đã giúp chúng ta tái khám phá vẻ đẹp của hành trình đức tin được khởi đầu từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, ngày làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và anh chị em trong lòng Giáo hội. Đó là một hành trình có cùng đích là cuộc gặp gỡ trọn vẹn với Thiên Chúa; và trong suốt hành trình ấy, Chúa Thánh Thần thanh luyện, nâng đỡ và thánh hóa chúng ta, để chúng ta được bước vào hạnh phúc mà lòng chúng ta hằng khát mong.
Tôi xin gửi lời chào thắm thiết và huynh đệ đến các vị Thượng phụ và các Tổng Giám mục trưởng của những Giáo hội Công giáo Đông phương đang hiện diện nơi đây. Việc trao đổi dấu chỉ chúc bình an mà tôi sẽ thực hiện với quý vị trước hết là dấu chỉ lòng trân trọng mà Giám mục Rôma dành cho các cộng đoàn đã tuyên xưng danh Chúa Kitô với sự trung tín gương mẫu, thường là với một giá rất đắt.
Với cử chỉ này, qua quý vị, tôi ước mong gửi đến tất cả các Kitô hữu đang sống tại Thánh địa, tại Syria và khắp vùng Cận Đông lời cầu xin ơn bình an và hòa hợp.
Các bài đọc Thánh Kinh được công bố hôm nay đều quy hướng về chủ đề chung: tính trung tâm của Chúa Kitô. Chúa Kitô ở trung tâm, Chúa Kitô là trung tâm. Người là trung tâm của toàn thể công trình tạo dựng, là trung tâm của dân Người, và là trung tâm của toàn bộ lịch sử nhân loại.
1) Trong bài đọc thứ hai hôm nay, trích từ thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Côlôsê, vị Tông đồ trình bày cho chúng ta một viễn tượng sâu xa về tính trung tâm của Đức Giêsu. Ngài giới thiệu Chúa Kitô như Trưởng Tử của mọi loài thụ tạo: trong Người, nhờ Người và cho Người mà muôn vật được tạo thành. Người là trung tâm của mọi sự, Người là khởi nguyên: Chúa Giêsu Kitô, Đức Chúa. Thiên Chúa đã ban cho Người viên mãn, ban cho Người toàn thể, để nhờ Người mà mọi sự được hòa giải (x. Cl 1,12-20). Người là Chúa của công trình tạo dựng, Người là Chúa của công trình hòa giải.
Hình ảnh này giúp chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu là trung tâm của thụ tạo; và do đó thái độ mà chúng ta – những tín hữu đích thực – được mời gọi nhận biết và đón nhận vị trí trung tâm của Chúa Kitô nơi đời sống mình: trong tư tưởng, trong lời nói và trong hành động của chúng ta. Nhờ đó, tư tưởng của chúng ta sẽ là tư tưởng Kitô giáo, tư tưởng của Chúa Kitô; hành động của chúng ta sẽ là hành động Kitô giáo, hành động của Chúa Kitô; và lời nói của chúng ta sẽ là lời nói Kitô giáo, lời của Chúa Kitô. Nhưng khi đánh mất trung tâm này, khi để cho một điều gì khác thay thế vị trí ấy, thì điều đó chỉ có thể gây hại – cho mọi sự chung quanh chúng ta, và cho chính bản thân chúng ta.
2) Ngoài việc là trung tâm của công trình tạo dựng và trung tâm của công trình hòa giải, Chúa Kitô còn là trung tâm của Dân Thiên Chúa. Hôm nay, Người hiện diện giữa chúng ta. Người hiện diện ngay lúc này trong Lời của Người, và Người sẽ hiện diện trên bàn thờ, sống động và hiện diện giữa dân Người. Điều này được thấy trong bài đọc thứ nhất, mô tả thời khắc các chi tộc Israel đến tìm Đavít và xức dầu cho ông làm vua Israel trước nhan Chúa (x. 2 Sm 5,1-3). Khi đi tìm một vị vua lý tưởng, dân đang thực sự tìm kiếm chính Thiên Chúa: một Thiên Chúa gần gũi với họ, đồng hành với họ trên hành trình, một Thiên Chúa trở nên người anh em của họ.
Đức Kitô, hậu duệ vua Đavít, thực sự là “người anh em” mà dân Thiên Chúa quy tụ quanh Người. Chính Người chăm sóc dân Người, chăm sóc tất cả chúng ta, ngay cả khi phải trả giá bằng mạng sống của Người. Trong Người, tất cả chúng ta là một, một dân tộc duy nhất, hiệp nhất với Người và cùng chia sẻ một hành trình duy nhất, một vận mệnh duy nhất. Chỉ trong Người, trong Người là trung tâm, chúng ta mới nhận được căn tính của mình như một dân tộc.
Sau cùng, Chúa Kitô là trung tâm của lịch sử nhân loại và cũng là trung tâm của lịch sử mỗi con người. Nơi Người, chúng ta có thể dâng lên mọi niềm vui và hy vọng, mọi nỗi buồn và khắc khoải thuộc về đời sống chúng ta. Khi Chúa Giêsu là trung tâm, ánh sáng vẫn chiếu soi ngay cả giữa những thời khắc tăm tối nhất của cuộc đời; Người trao ban hy vọng, như Người đã trao cho người trộm lành trong bài Tin mừng hôm nay.
Trong khi tất cả những người khác đối xử với Chúa Giêsu bằng thái độ khinh miệt — “Nếu ông là Đấng Kitô, Đấng Mêsia, thì hãy tự cứu mình mà xuống khỏi thập giá!” — thì người trộm đã lầm lạc cả đời nhưng nay hoán cải lại bám chặt vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh và nài xin Người: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23,42). Chúa Giêsu hứa với anh: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (c. 43), trong Nước của Người. Chúa Giêsu chỉ nói một lời tha thứ, chứ không phải lời kết án; bất cứ khi nào ai đó can đảm xin ơn tha thứ, Chúa không bao giờ để lời cầu xin ấy rơi vào quên lãng. Hôm nay, tất cả chúng ta đều có thể suy nghĩ về lịch sử đời mình, về chính hành trình của mình. Mỗi người trong chúng ta đều có một lịch sử riêng: hãy nghĩ về những lỗi lầm, những tội đã phạm, những lúc tốt đẹp và những giai đoạn u ám. Mỗi người chúng ta, trong ngày hôm nay, thật tốt khi xét lại lịch sử đời mình, hướng nhìn lên Chúa Giêsu, và tiếp tục thưa với Người, chân thành, âm thầm: “Lạy Chúa, xin nhớ đến con, giờ đây Chúa ở trong Nước Chúa! Lạy Chúa Giêsu, xin nhớ đến con, vì con muốn sống tốt, nhưng con không đủ sức: con là kẻ tội lỗi, con là tội nhân. Nhưng xin nhớ đến con, lạy Chúa Giêsu! Xin nhớ đến con, vì Chúa là trung tâm, Chúa thật sự đang ở trong Nước Chúa!” Thật đẹp biết bao! Hôm nay, chúng ta hãy làm điều này, mỗi người trong thâm sâu lòng mình, lặp đi lặp lại: “Xin nhớ đến con, lạy Chúa, Chúa là trung tâm, Chúa đang ở trong Nước Chúa.”
Lời hứa của Chúa Giêsu dành cho người trộm lành cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao: lời ấy nói với chúng ta rằng ân sủng của Thiên Chúa luôn lớn hơn lời cầu xin tìm kiếm ân sủng ấy. Chúa luôn ban nhiều hơn; lòng quảng đại của Người vô biên: Người luôn ban nhiều hơn điều chúng ta xin. Bạn xin Người nhớ đến bạn, và Người đưa bạn vào Nước của Người!
Chúng ta hãy xin Chúa nhớ đến chúng ta, với niềm xác tín rằng nhờ lòng thương xót của Người, chúng ta sẽ được chung hưởng vinh quang với Người trên thiên đàng. Chúng ta cùng nhau tiến bước trên con đường này! Amen!
Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng lễ Chúa Kitô Vua năm C, Công nghị tấn phong hồng y (21/11/2010) - Vị Vua của Tình Yêu chịu đóng đinh
Kính thưa quý Đức Hồng y, quý Đức cha và quý Cha đáng kính, anh chị em thân mến,
Trong lễ trọng mừng kính Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta được hân hoan quy tụ chung quanh bàn thờ Chúa cùng với 24 Tân Hồng y mà hôm qua tôi đã tuyển chọn và ghi tên vào Hồng y đoàn.
Trước hết, tôi xin gửi đến các ngài lời chào thân ái, và tôi cũng xin gởi lời chào ấy đến các Đức Hồng y khác và toàn thể quý Đức Giám mục hiện diện, cùng với các vị lãnh đạo khả kính, quý vị Đại sứ, các linh mục, tu sĩ và toàn thể anh chị em tín hữu đã đến từ nhiều nơi trên thế giới để tham dự biến cố trọng đại mang tính hoàn vũ này.
Nhiều người trong anh chị em chắc hẳn đã nhận ra rằng Công nghị Công khai cuối cùng để tấn phong các Hồng y, được cử hành vào tháng 11 năm 2007, cũng diễn ra vào buổi chiều trước lễ trọng Chúa Kitô Vua. Ba năm đã trôi qua, và vì thế, theo chu kỳ phụng vụ các Chúa nhật, lời Chúa lại đến với chúng ta qua cùng những bài đọc Kinh thánh dành cho đại lễ quan trọng này. Đại lễ được cử hành vào Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ và, ở điểm kết thúc của hành trình đức tin, trình bày cho chúng ta dung mạo vương đế của Đức Kitô, như hình ảnh Đấng Toàn Năng (Pantocrator) trong cung thánh của một đền thờ cổ kính.
Sự trùng hợp này mời gọi chúng ta suy niệm sâu hơn về thừa tác vụ của Giám mục Rôma và thừa tác vụ của các Hồng y vốn gắn liền với sứ vụ ấy, trong ánh sáng vương quyền độc nhất vô nhị của Đức Giêsu, Chúa chúng ta.
Thừa tác vụ nền tảng của Đấng kế vị Thánh Phêrô chính là sứ vụ phục vụ đức tin. Trong Tân ước, Thánh Phêrô trở nên “đá tảng” của Giáo hội chính vì ngài là người mang lấy đức tin. Từ “chúng ta” của Giáo hội bắt đầu từ tên của con người đầu tiên tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô, bắt đầu từ chính đức tin của ngài, một đức tin ban đầu còn non yếu và “quá đỗi nhân loại”. Tuy nhiên, sau biến cố Phục sinh, đức tin ấy được trưởng thành, khiến ngài có khả năng theo sát Đức Kitô đến mức hiến dâng cả mạng sống mình. Đức tin ấy lớn lên trong xác tín rằng Đức Giêsu thật sự là Vua, và Ngài là Vua chính vì Ngài đã ở lại trên thập giá, và bằng cách đó, Ngài đã hiến mạng sống mình cho những người tội lỗi.
Trong Tin mừng, chúng ta thấy mọi người đều yêu cầu Đức Giêsu xuống khỏi thập giá. Họ nhạo báng Người, nhưng đồng thời đó cũng là cách họ tự bào chữa, như muốn nói rằng: không phải lỗi của chúng tôi khi ông phải treo trên thập giá; đó hoàn toàn là lỗi của ông, bởi nếu thật sự ông là Con Thiên Chúa, là Vua dân Do Thái, thì ông đã không ở lại đó, nhưng đã tự cứu mình mà bước xuống khỏi giá treo ô nhục ấy.
Bởi thế, nếu ông cứ ở lại đó, điều ấy có nghĩa là ông sai và chúng tôi đúng. Bi kịch diễn ra dưới chân thập giá Đức Giêsu là một bi kịch mang tầm mức phổ quát; nó liên quan đến toàn thể nhân loại đứng trước Thiên Chúa, Đấng tỏ mình ra đúng như Ngài là: Tình Yêu.
Nơi Đức Giêsu chịu đóng đinh, thần tính bị che khuất, bị tước bỏ mọi vẻ vinh quang bề ngoài, nhưng vẫn hiện diện thật sự và trọn vẹn. Chỉ có đức tin mới nhận ra điều này: đức tin của Mẹ Maria, người cũng ghi khắc vào lòng mình cảnh cuối cùng này trong toàn bức khảm về cuộc đời Con của Mẹ. Mẹ chưa thấy toàn cảnh, nhưng vẫn tiếp tục tín thác vào Thiên Chúa, một lần nữa thưa lên với tất cả tâm tình phó thác: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa” (x. Lc 1,38).
Rồi đến đức tin của người trộm lành: một đức tin còn đơn sơ, nhưng đủ để đảm bảo cho ông phần rỗi: “Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên Thiên Đàng.” Chính cụm từ “với tôi” mới là yếu tố quyết định. Chính điều ấy cứu ông. Dĩ nhiên, người trộm lành cũng bị treo trên thập giá như Đức Giêsu, nhưng quan trọng hơn, ông ở trên thập giá cùng với Đức Giêsu. Và khác với tên gian ác kia và tất cả những người nhạo báng, ông không xin Đức Giêsu xuống khỏi thập giá, cũng không xin cho mình được tháo xuống. Trái lại, ông thưa: “Khi nào vào Nước của Ngài, xin nhớ đến tôi.”
Người trộm lành nhìn thấy Đức Giêsu bị đóng đinh trên thập giá bị biến dạng, chẳng còn ai nhận ra được, thế nhưng ông lại phó thác vào Người như phó thác vào một vị vua, đúng hơn, phó thác vào Vị Vua đích thực. Ông tin vào dòng chữ ghi trên tấm bảng đặt trên đầu Đức Giêsu: “Vua người Do Thái.” Ông đã tin và đã phó thác. Vì thế, ông được ở ngay lập tức trong “hôm nay” của Thiên Chúa, trong thiên đàng; bởi vì thiên đàng chính là được ở với Đức Giêsu, được ở với Thiên Chúa.
Vậy đó, thưa anh em thân mến, đây là sứ điệp đầu tiên và nền tảng mà Lời Chúa hôm nay ngỏ với chúng ta: với tôi, Đấng kế vị Thánh Phêrô, và với anh em, các vị Hồng y.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ở lại với Đức Giêsu, như Mẹ Maria, và không xin Người xuống khỏi thập giá, nhưng đúng hơn là ở lại đó với Người. Và vì thừa tác vụ của mình, chúng ta phải thực hiện điều ấy không chỉ cho chính bản thân, nhưng còn cho toàn thể Giáo hội, cho toàn thể Dân Thiên Chúa.
Chúng ta biết từ các sách Tin mừng rằng thập giá là điểm thử thách quyết liệt của đức tin nơi ông Simon Phêrô và các Tông đồ khác. Điều đó thật rõ ràng và khó có thể khác được: họ là những con người mang những suy nghĩ “theo kiểu loài người”; họ không thể chấp nhận được ý tưởng về một Đấng Mêsia chịu đóng đinh.
“Cuộc hoán cải” của Thánh Phêrô chỉ thật sự trọn vẹn khi ngài không còn muốn “cứu” Đức Giêsu, nhưng chấp nhận để chính mình được Người cứu. Ngài thôi không tìm cách ngăn cản Đức Giêsu đi vào con đường thập giá, nhưng để cho thập giá của Đức Giêsu cứu mình.
“Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất đức tin; phần anh, một khi đã trở lại, hãy củng cố anh em mình” (Lc 22,32), Chúa nói như thế. Thừa tác vụ của Thánh Phêrô trước hết cốt yếu nằm ở đức tin của ngài: một đức tin mà chính Đức Giêsu, ngay từ đầu, đã nhận ra là chân thật, là hồng ân của Chúa Cha trên trời; nhưng cũng là một đức tin phải đi qua vấp phạm của thập giá thì mới trở nên trưởng thành, đích thực “Kitô giáo”, và trở thành đá tảng, trên đó Đức Giêsu có thể xây dựng Hội thánh của Người.
Việc tham dự vào vương quyền của Đức Kitô chỉ có thể thực sự xảy ra bằng cách thông phần vào sự tự hạ của Người, nghĩa là cùng mang lấy thập giá. Thừa tác vụ của tôi, thưa anh em thân mến, và vì thế cũng là thừa tác vụ của anh em, hoàn toàn hệ tại nơi đức tin. Đức Giêsu có thể xây dựng Hội thánh của Người trên chúng ta bao lâu trong chúng ta còn tìm thấy đức tin chân thật mang chiều kích vượt qua ấy, đức tin không tìm cách xin Người xuống khỏi thập giá, nhưng phó thác trọn vẹn cho Người trên chính thập giá.
Xét theo nghĩa này, vị trí đích thực của Đấng Đại diện Đức Kitô chính là thập giá; đó là chỗ của sự kiên vững trong đức vâng phục của thập giá.
Thừa tác vụ này thật khó khăn, bởi nó không phù hợp với cách suy nghĩ tự nhiên của con người - với thứ lô-gích bản năng vốn vẫn còn hoạt động nơi mỗi chúng ta. Thế nhưng chính nơi đây, và mãi mãi vẫn là đây, sự phục vụ hàng đầu mà chúng ta phải thi hành: phục vụ đức tin, đức tin có khả năng biến đổi trọn vẹn đời sống, đức tin tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa, rằng Ngài là Vua chính vì Ngài đã đi đến tận cùng, đã yêu thương chúng ta đến mức hiến mình trọn vẹn.
Chúng ta phải làm chứng và loan báo vương quyền nghịch lý này như chính Vua Giêsu đã thực hiện: nghĩa là đi theo con đường của Người và cố gắng đón nhận chính lô-gích của Người, lô-gích của khiêm nhường và phục vụ, của hạt lúa mì chịu mục nát để sinh nhiều hoa trái.
Đức Giáo hoàng và các Hồng y được mời gọi hiệp nhất sâu xa trước hết trong điểm này: tất cả cùng nhau, dưới sự hướng dẫn của Đấng kế vị Thánh Phêrô, phải ở lại trong vương quyền của Đức Kitô, suy nghĩ và hành động theo lô-gích của thập giá — điều vốn chẳng bao giờ dễ dàng hay có thể lường trước.
Trong điều này, chúng ta phải hiệp nhất và thực sự chúng ta hiệp nhất, bởi vì không phải một ý tưởng hay chiến lược nào gắn kết chúng ta lại, nhưng chính tình yêu dành cho Đức Kitô và Thánh Thần của Người. Hiệu quả trong việc phục vụ Giáo hội, Hiền Thê của Đức Kitô, hệ tại chủ yếu ở chính điều này: ở sự trung thành của chúng ta đối với vương quyền thần linh của Tình Yêu chịu đóng đinh.
Vì lý do ấy, trên chiếc nhẫn mà hôm nay tôi trao cho anh em, dấu ấn của giao ước hôn ước giữa anh em với Giáo hội có khắc hình ảnh Chúa chịu đóng đinh. Và cũng vì lý do này, màu đỏ của phẩm phục anh em mang mặc gợi đến máu, biểu tượng của sự sống và của tình yêu: Máu Đức Kitô, thứ máu mà, theo truyền thống biểu tượng cổ xưa, Đức Maria đã hứng lấy từ cạnh sườn bị đâm thâu của Con Mẹ khi Người chết trên thập giá; và cũng là dòng máu mà Tông đồ Gioan đã chiêm ngắm khi nó tuôn trào cùng với nước, ứng nghiệm lời Kinh thánh tiên báo.
Anh em thân mến, chính từ đây mà sự khôn ngoan của chúng ta phát sinh: sapientia Crucis — sự khôn ngoan của Thập Giá. Chính thánh Phaolô đã suy tư sâu sắc về mầu nhiệm này. Ngài là người đầu tiên phác họa tư tưởng Kitô giáo một cách có hệ thống, quy tâm điểm vào nghịch lý của Thập giá (x. 1 Cr 1,18-25; 2,1-8).
Trong thư gửi tín hữu Côlôxê, nơi phụng vụ hôm nay trích đọc bài Thánh thi Kitô học, tư tưởng của thánh Phaolô, nhờ ơn Thánh Thần tác động, đã đạt đến một tầm mức tổng hợp thật phi thường: diễn tả một cách sâu sắc và súc tích quan niệm Kitô giáo chân chính về Thiên Chúa và về thế giới, về ơn cứu độ cá vị và phổ quát. Và tất cả được quy tụ nơi một điểm duy nhất: Đức Kitô, Chúa của tâm hồn, của lịch sử và của vũ trụ: “Vì Thiên Chúa đã muốn, làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người, mà làm cho muôn vật, được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an, cho mọi loài dưới đất, và muôn vật trên trời” (Cl 1,19-20).
Anh em thân mến, chúng ta luôn được mời gọi loan báo cho thế giới rằng Đức Kitô là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”, là “trưởng tử của mọi loài thọ tạo”, và là “trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại”, như Tông đồ Phaolô viết, để “mọi sự Người đứng hàng đầu” (Cl 1,15.18). Quyền tối thượng của Phêrô và các Đấng kế vị ngài hoàn toàn nhằm phục vụ quyền tối thượng của chính Đức Giêsu Kitô, Đấng là Chúa duy nhất; phục vụ Nước của Người, nghĩa là phục vụ vương quyền tình yêu của Người, để vương quyền ấy được lan rộng, đổi mới con người và mọi sự, biến đổi trần gian và làm trổ sinh hòa bình và công lý trong Nước Chúa.
Giáo hội được đặt vào trong chương trình này, một chương trình vượt trên dòng lịch sử, nhưng đồng thời được tỏ lộ và được hoàn tất trong chính lịch sử, như “Thân Thể” mà Đức Kitô là “Đầu” (x. Cl 1,18).
Trong thư gửi tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô nói cách minh nhiên về vương quyền của Đức Kitô và đặt vương quyền ấy trong tương quan với Giáo hội. Ngài dâng lời chúc tụng “quyền năng khôn sánh của Thiên Chúa”, Đấng đã làm cho Đức Kitô sống lại và đặt Người làm Chúa Tể vũ trụ, rồi kết thúc bằng khẳng định: “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh; mà Hội thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn...” (Ep 1,22–23).
Ở đây, thánh Phaolô dùng chính từ “viên mãn” để áp dụng cho Giáo hội, cùng một từ vốn thuộc về Đức Kitô theo nghĩa thông phần: vì thân thể thực sự thông chia vào sự viên mãn của Đầu. Và chính điều này, thưa quý Đức Hồng y đáng kính, và tôi cũng xin ngỏ lời với tất cả anh chị em đang cùng chúng tôi chia sẻ hồng ân được làm Kitô hữu — chính điều này là nguồn vui lớn nhất của chúng ta: được thông dự trong Giáo hội vào sự viên mãn của Đức Kitô qua đức vâng phục Thập giá, được xứng đáng “chia phần gia nghiệp của các thánh trong cõi ánh sáng”, được “giải thoát” và “đưa vào Vương Quốc của Con Thiên Chúa” (x. Cl 1,12–13).
Vì thế, chúng ta sống trong tâm tình tạ ơn không ngừng, và ngay cả giữa thử thách cũng không thiếu vắng niềm vui và bình an mà Đức Kitô đã để lại như bảo chứng của Nước Người — Nước đã hiện diện giữa chúng ta, những người chờ đợi trong đức tin và đức cậy, và mà chúng ta đã được nếm cảm trước nhờ tình yêu. Amen.
Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng lễ Chúa Kitô Vua năm C, Công nghị tấn phong hồng y (25/11/2007) - Nên một trong tình yêu với Vua Kitô
Kính thưa quý Đức Hồng y,
Quý Đức cha và quý Cha đáng kính,
Quý vị Quan khách khả kính,
Anh chị em thân mến,
Lễ trọng Đức Kitô, Vua Vũ Trụ, đỉnh cao của năm phụng vụ, hôm nay được thêm phần phong phú bởi việc đón nhận 23 thành viên mới vào Hồng y đoàn; và theo truyền thống, tôi đã mời các vị cùng đồng tế thánh lễ với tôi. Tôi xin gửi đến từng vị lời chào mừng chân thành, và cũng xin gửi lời chào trong tình huynh đệ ấy đến tất cả quý Hồng y hiện diện. Tôi cũng hân hoan chào đón các phái đoàn từ nhiều quốc gia và ngoại giao đoàn cạnh Tòa thánh; các Đức Giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ và toàn thể anh chị em tín hữu, đặc biệt là những người đến từ các giáo phận được trao phó cho sự hướng dẫn mục vụ của một số Tân Hồng y.
Phụng vụ kính Chúa Kitô Vua mang lại cho việc cử hành hôm nay một nền tảng đặc biệt ý nghĩa, được phác họa và soi sáng qua các Bài đọc Kinh thánh. Chúng ta như đang đứng trước một bức bích họa hùng vĩ gồm ba cảnh lớn: ở trung tâm là cảnh Đức Giêsu chịu đóng đinh theo trình thuật của thánh Luca; ở một bên là việc xức dầu phong vương Đavít bởi các kỳ mục Israel; và ở phía còn lại là thánh thi Kitô học mà thánh Phaolô dùng để mở đầu thư gửi tín hữu Côlôxê. Toàn bộ bức tranh được chi phối bởi hình ảnh Đức Kitô, Đấng là Chúa duy nhất, trước mặt Người tất cả chúng ta đều là anh chị em. Toàn bộ phẩm trật của Giáo hội, mọi đặc sủng và thừa tác vụ, mọi sự và mọi người, đều được đặt phục vụ cho vương quyền của Người.
Chúng ta phải bắt đầu từ biến cố trung tâm: Thập giá. Chính tại đây, Đức Kitô biểu lộ vương quyền độc nhất của Người. Trên đồi Canvê, hai thái độ hoàn toàn đối nghịch đối diện nhau. Một số người đứng dưới chân thập giá, cũng như một trong hai tên trộm, đã nhạo báng Đấng chịu đóng đinh: Nếu ông là Đấng Kitô, là Vua Mêsia, thì hãy tự cứu mình mà xuống khỏi thập giá. Nhưng Đức Giêsu lại mặc khải vinh quang của Người bằng cách ở lại trên thập giá, như Con Chiên bị sát tế. Người trộm lành kia thì bất ngờ đứng về phía Người; ông mặc nhiên tuyên xưng vương quyền của Đấng vô tội, công chính, và khẩn cầu: “Lạy Đức Giêsu, khi vào Nước của Ngài, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42). Thánh Cyrillô thành Alexandria chú giải: “Ông thấy Người bị đóng đinh mà lại gọi Người là Vua. Ông tin rằng Đấng đang chịu sỉ nhục và đau khổ ấy sẽ đạt tới vinh quang Thiên Chúa.” (Chú giải Tin Mừng Luca, Bài giảng 153). Theo Thánh Gioan, vinh quang Thiên Chúa đã hiện diện ngay lúc này, dù được che khuất bởi dung mạo thảm thương của thập giá. Nhưng ngay cả theo lối diễn tả của Thánh Luca, tương lai cũng được hé mở trong hiện tại, khi Đức Giêsu hứa với người trộm lành: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43). Thánh Ambrôsiô nhận xét: “Ông ta cầu xin Chúa nhớ đến mình khi vào Nước của Người; nhưng Chúa trả lời: Thật, hôm nay anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng. Sự sống chính là được ở với Đức Kitô, bởi nơi nào Đức Kitô hiện diện, ở đó là Vương quốc của Người.” (Giải nghĩa Tin Mừng Luca, 10,121). Bản cáo trạng “Người này là Vua dân Do Thái”, được ghi trên tấm bảng đóng trên thập giá Đức Giêsu, như thế trở thành lời công bố sự thật. Thánh Ambrôsiô còn ghi thêm: “Tấm bảng ấy được đặt đúng chỗ phía trên thập giá, vì tuy Chúa Giêsu đang nằm trên thập giá, nhưng vương quyền và uy lực của Người vẫn tỏa sáng từ trên cao thập giá.” (sđd., 10,113).
Cảnh Đức Giêsu chịu đóng đinh trong bốn sách Tin mừng là giây phút của sự thật, khi “bức màn trong Đền thờ” bị xé ra và Nơi Cực thánh được tỏ lộ. Sự mặc khải ở mức độ cao nhất về Thiên Chúa có thể xảy ra trong trần thế này được thực hiện nơi Đức Giêsu chịu đóng đinh, bởi vì Thiên Chúa là Tình yêu, và cái chết của Đức Giêsu trên Thập giá là hành vi yêu thương vĩ đại nhất trong toàn bộ lịch sử. Và đây, trên chiếc nhẫn Hồng y mà trong giây lát nữa tôi sẽ trao cho các thành viên mới của Hồng y đoàn, được khắc họa chính cảnh chịu đóng đinh. Điều này, thưa anh em Tân Hồng y thân mến, sẽ luôn là lời nhắc nhớ để anh em nhớ mình là tôi tớ của vị Vua nào, Đấng đã được tôn lên trên ngai nào, và Người đã trung thành đến cùng thế nào trong việc chiến thắng tội lỗi và sự chết bằng sức mạnh của lòng thương xót Thiên Chúa. Mẹ Giáo hội, Hiền thê của Đức Kitô, trao tặng anh em dấu chỉ này như kỷ niệm về chính Đấng Phu Quân của Mẹ, Đấng đã yêu thương Mẹ và hiến mình vì Mẹ (x. Ep 5,25). Như thế, khi mang trên tay nhẫn Hồng y, anh em được không ngừng mời gọi hiến dâng mạng sống mình vì Giáo hội.
Nếu giờ đây chúng ta hướng cái nhìn sang cảnh xức dầu phong vương cho Đavít được trình bày trong Bài đọc I, ta sẽ thấy nổi bật lên một khía cạnh quan trọng của vương quyền, đó là chiều kích “hiệp thông – liên đới” (corporative). Các kỳ mục Israel đến Khéprôn, ký kết giao ước với Đavít, tuyên bố họ thuộc về ông và muốn nên một với ông.
Nếu chúng ta quy chiếu Đức Kitô vào hình ảnh này, tôi nghĩ rằng chính lời tuyên tín giao ước ấy lại rất thích hợp để áp dụng cho chính anh em, thưa quý Đức Hồng y thân mến. Anh em, những người tạo thành “thượng viện của Giáo Hội”, cũng có thể nói với Đức Giêsu: “Này chúng tôi là xương thịt của Ngài” (2 Sm 5,1).Chúng con thuộc về Ngài, và chúng con muốn nên một với Ngài. Ngài là Mục Tử của Dân Thiên Chúa, Ngài là Đầu của Hội thánh (x. 2 Sm 5,2).Trong thánh lễ long trọng này, chúng ta muốn làm mới lại giao ước với Ngài, làm mới lại tình bằng hữu của chúng ta với Ngài; bởi vì chỉ trong mối tương quan thân mật và sâu xa này với Đức Giêsu, Vua và Chúa của chúng ta, thì phẩm giá được trao ban cho chúng ta, cũng như trách nhiệm đi kèm theo đó, mới thật sự có ý nghĩa và giá trị.
Giờ đây, chúng ta chiêm ngắm phần thứ ba của “bộ ba bích họa” mà Lời Chúa hôm nay đặt trước mắt chúng ta: Thánh thi Kitô học trong thư gửi tín hữu Côlôxê. Trước hết, chúng ta đón nhận vào lòng mình tâm tình hân hoan và tri ân tuôn trào từ bài thánh thi này, vì Nước của Đức Kitô, “gia nghiệp của các thánh trong cõi ánh sáng”, không chỉ là một thực tại được nhìn từ đàng xa, nhưng là thực tại mà chính chúng ta được mời gọi tham dự, là nơi chúng ta đã được “đưa vào”, nhờ hành vi cứu chuộc của Con Thiên Chúa (x. Cl 1,12–14).Chính hành động ân sủng này mở rộng tâm hồn thánh Phaolô đến chiêm niệm về Đức Kitô và sứ vụ của Người trong hai chiều kích chính: công trình sáng tạo và công trình hòa giải. Chiều kích thứ nhất của vương quyền Đức Kitô được đặt nền tảng nơi sự thật rằng: “Muôn vật được tạo thành nhờ Người và cho Người… mọi sự tồn tại trong Người” (Cl 1,16–17). Chiều kích thứ hai quy tâm vào mầu nhiệm Vượt qua: nhờ cái chết của Con Một trên thập giá,Thiên Chúa đã hòa giải mọi loài với chính mình, đã kiến tạo bình an giữa trời và đất; và khi làm cho Người từ cõi chết sống lại, Thiên Chúa đặt Người làm trưởng tử của cuộc tạo dựng mới, là “sự viên mãn” của muôn loài và là “Đầu của Thân thể (mầu nhiệm), là Hội thánh (x. Cl 1,18–20). Một lần nữa, chúng ta được dẫn về thập giá, biến cố trung tâm của toàn bộ mầu nhiệm Đức Kitô. Trong tầm nhìn của thánh Phaolô, thập giá được đặt bên trong toàn bộ nhiệm cục cứu độ, nơi đó vương quyền Đức Giêsu được biểu lộ trong trọn vẹn chiều kích vũ trụ của nó.
Bản văn của Tông đồ trình bày một tổng hợp mạnh mẽ giữa chân lý và đức tin, khiến chúng ta không thể không đứng lặng trong tâm tình khâm phục sâu xa. Giáo hội là người được trao phó mầu nhiệm của Đức Kitô: Giáo hội giữ gìn mầu nhiệm ấy trong khiêm tốn, không có chút tự mãn hay kiêu hãnh nào, bởi đây là hồng ân cao cả nhất mà Giáo hội đã lãnh nhận hoàn toàn nhưng không, không do bất kỳ công trạng nào; và Giáo hội được mời gọi trao ban cách nhưng không cho nhân loại mọi thời, như chân trời của ý nghĩa và của ơn cứu độ.
Mầu nhiệm này không phải là một triết thuyết, cũng không phải là một thứ tri thức huyền bí (gnosis), mặc dù nó bao hàm cả sự khôn ngoan và hiểu biết. Đây là mầu nhiệm của Đức Kitô; đúng hơn, chính là Đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể, chịu chết và sống lại, được tôn làm Vua của vũ trụ. Làm sao chúng ta có thể không cảm thấy một niềm phấn khởi tràn đầy tri ân, vì được phép chiêm ngắm vẻ rạng ngời của mặc khải này? Và làm sao chúng ta lại không đồng thời cảm thấy niềm vui và trách nhiệm phải phục vụ vị Vua ấy, phải làm chứng cho vương quyền của Người bằng chính đời sống và lời nói của mình? Một cách đặc biệt, đây chính là bổn phận của chúng ta, thưa quý Đức Hồng y đáng kính: rao giảng chân lý của Đức Kitô, Đấng là niềm hy vọng của mọi con người và của toàn thể gia đình nhân loại. Theo bước chân của Công đồng Vaticanô II, các vị tiền nhiệm đáng kính của tôi — các Tôi tớ Chúa Phaolô VI, Gioan Phaolô I và Gioan Phaolô II, đã là những nhà rao giảng đích thực về vương quyền của Đức Kitô trong thế giới hôm nay. Và đối với tôi, thật là một niềm an ủi lớn lao khi luôn có thể trông cậy vào anh em, cả trong tư cách tập thể lẫn trong sự cộng tác cá nhân, để cùng tôi chu toàn bổn phận nền tảng của thừa tác vụ Phêrô.
Kết luận, tôi muốn nhắc đến một khía cạnh gắn chặt với sứ vụ này, và tôi xin phó thác điều đó cho lời cầu nguyện của anh em: sự hiệp nhất và bình an giữa tất cả các môn đệ Đức Kitô, như là dấu chỉ của bình an mà chính Đức Giêsu đã đến để thiết lập trong thế gian. Chúng ta vừa nghe trong thánh thi Kitô học lời loan báo vĩ đại này: Thiên Chúa đã muốn “hòa giải” toàn thể vũ trụ nhờ thập giá Đức Kitô (x. Cl 1,20)! Vậy thì, Giáo hội chính là phần nhân loại nơi mà vương quyền của Đức Kitô đã được biểu lộ, một cộng đoàn có bình an như là dấu chỉ ưu tuyển và sống động. Giáo hội là Giêrusalem mới, tuy còn bất toàn vì vẫn đang lữ hành trong lịch sử, nhưng đã có thể phần nào hưởng nếm Giêrusalem thiên quốc. Sau cùng, ở đây chúng ta có thể liên hệ đến Thánh vịnh Đáp ca 121, thuộc nhóm các “Bài ca lên đền”. Đây là thánh thi của niềm vui người hành hương: khi tiến lên thành thánh và đã đến trước các cổng thành, họ cất lời chào bình an: shalom! Theo lối giải thích bình dân, tên Giêrusalem được hiểu là “thành của bình an”, và chính bình an ấy sẽ được Đấng Mêsia, Con vua Đavít, thiết lập trong thời viên mãn. Chúng ta nhận ra nơi hình ảnh Giêrusalem dung mạo của Giáo hội, bí tích của Đức Kitô và của Nước Người.
Quý Đức Hồng y thân mến, Thánh vịnh này diễn tả rất chính xác bài ca tình yêu nồng cháy dành cho Giáo hội, bài ca mà chắc chắn anh em đang mang trong lòng mình. Anh em đã hiến dâng trọn đời để phục vụ Giáo hội, và giờ đây anh em được mời gọi đảm nhận trong Giáo hội một nhiệm vụ có mức độ trách nhiệm cao nhất. Ước gì những lời của Thánh vịnh được hoàn toàn đón nhận nơi anh em: “Hãy cầu bình an cho Giêrusalem!” (c. 6). Cầu nguyện cho bình an và hiệp nhất chính là sứ mạng đầu tiên và quan trọng nhất của anh em, để Giáo hội được kiên vững và bền chặt (c. 3), trở nên dấu chỉ và khí cụ hiệp nhất cho toàn thể nhân loại (x. Lumen Gentium, số 1).Tôi phó thác, đúng hơn, chúng ta cùng nhau phó thác sứ vụ của anh em dưới sự che chở tỉnh thức của Mẹ Giáo hội, Đức Trinh Nữ Maria rất thánh. Chính Mẹ, Đấng đã hiệp nhất với Con mình trên đồi Canvê và được đưa lên trời làm Nữ Vương bên hữu Người trong vinh quang, chúng ta xin trao phó: các Tân Hồng y, toàn thể Hồng y đoàn,và toàn thể cộng đồng Công giáo, những người đang dấn thân gieo vãi trong những luống cày của lịch sử chính Vương quốc Đức Kitô, Chúa của sự sống và Hoàng tử Bình an.
