Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 25 Thường niên năm C (18/9/2022) - Khôn khéo theo Tin mừng
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Dụ ngôn của Tin Mừng Phụng vụ hôm nay (x. Lc 16, 1-13) cho chúng ta thấy hơi khó hiểu. Chúa Giê-su kể một câu chuyện về hối lộ: một quản gia không trung thực, người ăn cắp và sau đó bị chủ phát hiện, anh ta đã hành động gian xảo để thoát khỏi tình trạng đó. Chúng ta tự hỏi: sự gian xảo này, một sự tham nhũng, nằm ở đâu? Và Chúa Giê-su muốn nói với chúng ta điều gì?
Khôn khéo theo Tin Mừng: tỉnh thức để phân định
Từ câu chuyện, chúng ta thấy rằng người quản gia này vướn phải rắc rối vì anh ta đã lợi dụng tài sản của chủ mình; bây giờ anh ta sẽ phải chịu trách nhiệm và sẽ mất việc. Nhưng anh ta không bỏ cuộc, không cam chịu số phận và không ăn vạ; ngược lại, anh ta ngay lập tức hành động cách khôn khéo, tìm cách giải quyết cách tháo vát. Chúa Giê-su lấy một gợi ý từ câu chuyện này để khơi lên cho chúng ta một suy nghĩ đầu tiên, Người nói: “con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (câu 8). Nghĩa là, ai di chuyển trong bóng tối, theo những cách hiểu nhất định của thế gian, đều biết cách băng qua được, ngay cả giữa những rắc rối, biết khôn lanh hơn những người khác; ngược lại, các môn đệ của Chúa Giêsu, tức chúng ta, đôi khi chúng ta đang ngủ, hoặc ngây thơ, chúng ta không có sáng kiến để tìm cách thoát ra khỏi những khó khăn (x. Evangelii gaudium, 24). Tôi đang nghĩ đến những thời điểm khủng hoảng cá nhân, xã hội, và cả giáo hội: đôi khi chúng ta để cho mình bị khuất phục bởi sự chán nản, hoặc chúng ta rơi vào tình trạng phàn nàn và nhận mình là nạn nhân. Ngược lại - Chúa Giê-su nói – người ta cũng có thể khôn khéo theo Tin Mừng, tỉnh thức và chú ý để phân định thực tại, sáng tạo để tìm kiếm những giải pháp tốt, cho chúng ta và cho người khác.
Dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè
Nhưng Chúa Giêsu cho chúng ta một giáo huấn khác. Thực tế, sự gian xảo của người quản gia còn gồm điều gì nữa? Anh ta quyết định cắt giảm cho những người mắc nợ chủ mình, và nhờ đó anh ta kết bạn với họ, hy vọng họ có thể giúp anh khi ông chủ loại anh ra. Anh đã từng tích lũy của cải cho bản thân, bây giờ anh dùng chúng để kết bạn, những người có thể giúp đỡ anh trong tương lai. Anh làm cùng một cách: ăn trộm, đúng không? Như vậy, Chúa Giê-su đưa ra cho chúng ta một lời dạy về việc sử dụng của cải: “hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.” (câu 9). Để thừa hưởng sự sống vĩnh cửu, nghĩa là không cần phải tích lũy tài sản của thế gian này, nhưng điều cần là lòng bác ái mà chúng ta sống trong các mối quan hệ huynh đệ của chúng ta. Đây là lời mời gọi của Chúa Giê-su: đừng sử dụng của cải thế gian này chỉ cho bản thân và cho sự ích kỷ của mình, nhưng hãy sử dụng chúng để tạo ra tình bạn, tạo mối quan hệ tốt, hành động bác ái, thúc đẩy tình huynh đệ và chăm sóc những người yếu đuối nhất.
Anh chị em thân mến, ngay cả trong thế giới ngày nay cũng có những câu chuyện tham nhũng như trong bài Tin Mừng; hành xử thiếu trung thực, chính sách không công bằng, tính ích kỷ chi phối sự lựa chọn của các cá nhân và thể chế, và nhiều tình huống lờ mờ khác. Nhưng chúng ta, những Kitô hữu không được phép nản lòng, hoặc tệ hơn nữa là bỏ qua hoặc thờ ơ. Ngược lại, chúng ta được mời gọi sáng tạo trong việc làm điều thiện, với sự khôn ngoan và khôn khéo của Tin Mừng, sử dụng của cải của thế gian này - không chỉ là của cải vật chất, mà là tất cả những món quà mà chúng ta đã nhận được từ Chúa - không phải để làm giàu cho bản thân, nhưng để tạo ra tình yêu huynh đệ và tình bạn xã hội. Điều này rất quan trọng: với thái độ của chúng ta, tạo ra tình bạn xã hội.
Chúng ta hãy cầu xin Mẹ Maria Rất Thánh giúp chúng ta trở nên giống như Mẹ nghèo trong tinh thần và giàu lòng về bác ái.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 25 Thường niên năm C (22/9/2019) - Cách dùng tiền
Anh chị em thân mến, chào buổi sáng!
Dụ ngôn trong đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay (x. Lc 16,1-13) có nhân vật chính là một người quản lý khôn ranh và bất lương, bị cáo buộc đã phung phí tài sản của chủ và sắp bị sa thải. Trong hoàn cảnh khó khăn này, ông ta không than vãn, không tìm cách biện minh cũng không để cho mình bị chán nản, nhưng suy nghĩ một lối thoát để bảo đảm cho tương lai được an toàn. Trước tiên, ông phản ứng với sự sáng suốt, nhận ra những giới hạn của bản thân: “Tôi không đủ sức cuốc đất, còn đi ăn mày thì hổ thẹn” (c. 3). Sau đó, ông hành động một cách khôn khéo, ăn cắp của chủ mình một lần nữa. Thực vậy, ông gọi các con nợ đến và giảm bớt các khoản nợ mà họ mắc với chủ, để kết bạn với họ và sau này được họ đền đáp. Nghĩa là, ông tìm cách tạo bạn bè bằng sự tham nhũng, tìm kiếm lòng biết ơn qua sự gian lận - một điều, thật đáng buồn, vẫn còn là thực hành phổ biến trong xã hội ngày nay.
Chúa Giêsu đưa ra ví dụ này chắc chắn không phải để khuyến khích sự xảo quyệt hay bất lương nhưng là sự khôn khéo và tinh anh. Thực thế, Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng "Ông chủ ca ngợi người quản lý bất lương ấy, vì ông ta đã hành động khôn khéo" (c.8). Đó là sự kết hợp giữa trí thông minh và mánh khoé, điều thường giúp người ta vượt qua những trạng huống khó khăn. Chìa khóa để đọc dụ ngôn này hệ tại ở lời mời gọi của Chúa Giêsu ở cuối dụ ngôn: “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (c.9).
Nhưng dường như ở đây có một điều khiến chúng ta bối rối: Tiền Của bất chính ở đây chính là tiền bạc – mà nhiều khi người ta gọi là “phân của quỷ” - khi muốn nói tới của cải vật chất.
Sự giàu có dễ làm chúng ta tạo ra những bức tường, gây ra chia rẽ, hoặc phân biệt đối xử. Trái lại, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta kết bạn bằng tiền của. Những gì Chúa Giêsu đòi hỏi nơi các môn đệ là một bước ngoặt thực sự: "Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè". Đó chính là lời kêu gọi chúng ta biết biến tiền của và sự giàu có thành các tương quan, bởi con người có giá trị hơn mọi sự và được đong đếm nhiều hơn của cải mà chúng ta đang có. Trong thực tế, người sinh nhiều hoa trái không phải là những người có quá nhiều của cải, mà là những người biết tạo ra và gìn giữ nhiều tương quan, nhiều bạn bè. Chính điều ấy giúp hướng tới những "sự giàu có" phong phú khác nữa, là những món quà và ân sủng mà Thiên Chúa ban tặng cho người ấy.
Thế nhưng, Chúa Giêsu cũng chỉ ra mục đích tối hậu của lời khuyên này: “Hãy dùng của cải gian dối mà tạo lấy bạn bè, để khi hết tiền bạc, họ sẽ đón anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Nếu chúng ta biết biến của cải thành phương tiện xây dựng tình huynh đệ và tình liên đới, thì không chỉ chính Thiên Chúa sẽ đón tiếp chúng ta trên trời, mà cả những người mà chúng ta đã chia sẻ - nghĩa là đã quản lý cách khôn ngoan những gì Chúa đã đặt vào tay chúng ta - cũng sẽ chào đón chúng ta.
Anh chị em thân mến, đoạn Tin mừng này vang lên trong chúng ta một câu tự vấn của người quản lý bất lương, người đang có nguy cơ bị ông chủ của mình sa thải: Mình phải làm gì đây? (c.3). Đối diện với những thiết sót, sai lầm và thất bại của chúng ta, Thiên Chúa bảo đảm với chúng ta rằng chúng ta luôn có thời gian và cơ hội để sửa điều ác bằng cách làm điều thiện. Ai đã từng làm cho người khác phải đau khổ, hãy làm cho ai đó hạnh phúc. Ai đã từng chiếm đoạt hoặc tham ô, hãy giúp đỡ người thiếu thốn. Làm như vậy, chúng ta sẽ được Chúa ca ngợi "bởi vì chúng ta đã hành động khôn khéo", nghĩa là với sự khôn ngoan của người nhận biết mình là con cái Thiên Chúa và dám đánh liều đời mình vì Nước Trời.
Vì thế, chúng ta hãy xin Đức Trinh nữ rất thánh cho chúng ta biết "trở nên khôn ngoan lựa chọn những bảo đảm của sự sống đời đời, chứ không phải thành công thế trần; để đến ngày phán xét chung cục, những người đã từng cần đến sự giúp đỡ của chúng ta chứng thực rằng chúng ta đã chiêm ngưỡng và phục vụ Thiên Chúa.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 25 Thường niên năm C (18/9/2016) - Kẻ bóc lột, kẻ gian trá và người trung tín
(Bài giảng thánh lễ kỷ niệm 200 năm thành lập Hiến binh Vatican)
Các Bài đọc Kinh thánh Chúa nhật hôm nay trình bày cho chúng ta ba kiểu người: kẻ bóc lột, kẻ gian trá và người trung tín.
Kẻ bóc lột là nhân vật mà ngôn sứ Amốt đề cập trong bài đọc I (x. Am 8,4-7): đó là một người bị ám ảnh bởi lợi nhuận đến mức khó chịu và bực bội đối với những ngày phụng tự nghỉ ngơi, vì chúng phá vỡ nhịp điên cuồng của việc buôn bán. Vị thần duy nhất của họ chính là tiền bạc, và hành động của họ bị chi phối bởi sự gian lận và bóc lột. Nạn nhân chính là người nghèo và kẻ khốn cùng, những người bị hạ nhục đến mức giá trị chỉ bằng một đôi dép (x. c. 6). Thật đáng tiếc, đây là một kiểu người tồn tại trong mọi thời đại; và ngay cả ngày nay cũng có rất nhiều.
Kẻ gian trá là con người không có sự trung tín. Phương thế của hắn là gian lận. Tin mừng kể về hắn qua dụ ngôn người quản lý bất lương (x. Lc 16,1-8). Làm sao người quản lý ấy lại đi đến tình trạng gian lận, ăn cắp của chủ? Có phải chỉ trong chốc lát người đó trở nên như vậy? Không. Đó là một tiến trình dần dần: có khi bằng một khoản tiền “bôi trơn” nhỏ ở đây, một món “hoa hồng” nhỏ ở kia, và cứ thế, dần dần, người ta rơi vào tham nhũng. Trong dụ ngôn, ông chủ khen ngợi người quản lý bất lương vì sự khôn khéo. Nhưng đó là sự khôn khéo hoàn toàn thuộc về thế gian và thấm đẫm tội lỗi, gây biết bao điều xấu! Tuy nhiên, cũng có sự khôn khéo Kitô giáo: biết hành xử cách khéo léo, nhưng không theo tinh thần thế gian; biết làm mọi sự cách trung thực. Và điều này là tốt. Đó chính là điều Chúa Giêsu dạy khi mời gọi hãy “khôn ngoan như rắn và đơn sơ như bồ câu”: kết hợp được hai chiều kích khôn ngoan và đơn sơ này là một ân sủng của Chúa Thánh Thần, một ân sủng mà chúng ta cần cầu xin. Nhưng thậm chí ngày nay, biết bao kẻ gian trá, tham nhũng vẫn đầy rẫy. Tôi rất đau lòng khi thấy tham nhũng lan tràn khắp nơi.
Người trung tín. Hình ảnh người trung tín được tìm thấy trong bài đọc II (x. 1 Tm 2,1-8). Người này là người theo Chúa Giêsu, Đấng đã hiến thân làm giá chuộc cho mọi người, đã làm chứng theo thánh ý của Chúa Cha (x. c. 5-6). Người trung tín là con người cầu nguyện, theo nghĩa kép: cầu nguyện cho tha nhân, và tin tưởng vào lời cầu nguyện của tha nhân cho mình, để có thể “được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh,… đẹp lòng Thiên Chúa” (c. 2). Người trung tín có thể ngẩng cao đầu mà bước đi.
Tin Mừng cũng nói với chúng ta về người trung tín: đó là người biết trung thành trong những việc nhỏ cũng như trong những việc lớn (x. Lc 16,10).
Lời Chúa đưa chúng ta đến một chọn lựa dứt khoát: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ” (Lc 16,13). Kẻ gian trá yêu thích sự gian trá và ghét sự lương thiện. Hắn ưa thích hối lộ, những thỏa thuận mờ ám, những thương lượng trong bóng tối. Điều tệ hại hơn nữa là hắn nghĩ mình vẫn là người lương thiện. Kẻ gian trá yêu tiền bạc, yêu của cải: của cải trở thành ngẫu tượng. Hắn chẳng mảy may bận tâm – như ngôn sứ đã nói – khi chà đạp người nghèo. Chính họ là những kẻ dựng nên “nền công nghiệp nô lệ”. Và ngày nay, ở trên thế giới, lao động nô lệ đã trở thành một kiểu quản lý.
Anh chị em thân mến, hôm nay anh chị em vui mừng kỷ niệm về nhiệm vụ của anh chị em. Vậy, nhiệm vụ của anh chị em là gì? Anh chị em kỷ niệm 200 năm phục vụ, kể cả trong việc chống lại gian trá, chống lại những kẻ gian trá, chống lại những kẻ bóc lột. Với lời của Thánh Phaolô, chúng ta có thể nói: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4). Nhiệm vụ của anh chị em là ngăn chặn những hành vi xấu xa như của kẻ bóc lột và kẻ gian trá. Nhiệm vụ của anh chị em là bảo vệ và cổ vũ sự lương thiện, cho dù nhiều khi không được đền đáp xứng đáng. Tôi cảm ơn anh chị em vì ơn gọi này; tôi cảm ơn vì công việc mà anh chị em đang thi hành. Tôi biết nhiều lần anh chị em phải đối diện với những cám dỗ từ những kẻ muốn “mua chuộc” anh chị em, và tôi cảm thấy hãnh diện khi biết rằng phong cách của anh chị em là dứt khoát nói: “Không, tôi không nhúng tay vào việc này”. Tôi cảm ơn anh chị em vì 200 năm phục vụ ấy, và tôi ước mong cho tất cả anh chị em, rằng xã hội của Quốc gia Thành Vatican, rằng Tòa Thánh, từ người nhỏ bé nhất cho đến người đứng đầu, đều nhận biết sự phục vụ của anh chị em: một sự phục vụ gìn giữ, một sự phục vụ tìm cách không chỉ làm cho mọi sự vận hành đúng đắn, mà còn làm với lòng bác ái, với sự dịu dàng, và ngay cả với nguy cơ mất mạng sống. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em trong tất cả những điều ấy. Xin cám ơn.
Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 25 Thường niên năm C (18/9/2016) - Lối sống trần tục và lối sống Tin mừng
Anh chị em thân mến,
Hôm nay Chúa Giêsu dẫn chúng ta suy tư về hai lối sống đối nghịch nhau: lối sống trần tục và lối sống của Tin mừng. Và Ngài làm điều ấy qua trình thuật dụ ngôn người quản lý bất trung và tham ô, Chúa Giêsu khen ngợi ông ta mặc dù sự bất lương của ông (Xc Lc 16,1-13). Nhưng cần phải minh định ngay rằng người quản lý ấy không được trình bày như một mẫu gương cần noi theo, nhưng như một thí dụ về sự gian xảo. Người này bị cáo là quản lý bê bối những công việc của ông chủ, và trước khi bị sa thải, ông ta mánh khóe tìm cách thu hút cho mình thiện cảm của các con nợ, bằng cách tha một phần nợ cho họ để đảm bảo cho mình một tương lai. Bình luận về thái độ đó, Chúa Giêsu nhận xét rằng: “Thực vậy, con cái đời này khôn ngoan hơn con cái sự sáng” (v.8).
Chúng ta được kêu gọi đáp lại mánh khóe trần tục ấy bằng sự khôn ngoan theo tinh thần Kitô, vốn là một hồng ân của Chúa Thánh Linh. Vấn đề ở đây là xa tránh tinh thần và giá trị của thế gian này, chúng vốn là điều rất làm cho ma quỉ hài lòng, để sống theo Tin mừng. Sự trần tục được biểu lộ qua những thái độ tham ô, lường gạt, áp bức, và là con đường lầm lạc, con đường tội lỗi, cho dù đó là con đường dễ đi. Trái lại tinh thần Tin mừng đòi phải có một lối sống nghiêm túc và dấn thân, lương thiện, đúng đắn, tôn trọng người khác và phẩm giá của họ, có tinh thần trách nhiệm. Đó chính là sự khôn ngoan theo tinh thần Kitô!
Cuộc đời bao hàm một sự chọn lựa giữa hai con đường ấy: giữa lương thiện và bất chính, giữa lòng trung thành và bất trung, giữa ích kỷ và vị tha, giữa sự thiện và sự ác. Ta không thể đong đưa giữa hai con đường đó, vì chúng đi theo những tiêu chuẩn khác nhau và đối nghịch nhau. Điều quan trọng là quyết định đi theo hướng nào, rồi, sau khi đã chọn lựa đúng đắn, phải quyết liệt tiến bước mau lẹ, tín thác nơi ơn Chúa và sự nâng đỡ của Thánh Thần Chúa. Kết luận của đoạn Tin mừng thật là mạnh mẽ và quyết liệt: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc họ yêu mến chủ này và ghét chủ kia, hoặc cảm mến chủ này và khinh rẻ chủ kia” (v.13).
Hôm nay, Chúa Giêsu khuyên nhủ chúng ta hãy chọn lựa rõ ràng giữa Ngài và tinh thần thế tục này, giữa tiêu chuẩn tham ô và ham ố, với tiêu chuẩn ngay chính và chia sẻ. Có người hành xử trong sự tham ô như với ma túy: Họ nghĩ là có thể sử dụng nó và ngưng sử dụng khi nào họ muốn. Nhưng cả sự tham ô cũng tạo nên sự chán ngán, tạo ra nghèo đói, bóc lột và đau khổ. Trái lại, khi chúng ta tìm cách theo tiêu chuẩn thanh liêm của Tin mừng, trong sáng trong các ý hướng và trong cách cư xử, và tình huynh đệ, thì chúng ta trở thành những người xây dựng công lý và chúng ta mở ra những chân trời hy vọng cho nhân loại. Trong sự nhưng không và hiến thân cho anh chị em, chúng ta phục vụ người chủ tốt lành là Thiên Chúa.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta chọn lựa con đường đúng đắn trong mọi hoàn cảnh và với bất kỳ giá nào, và tìm ra được lòng can đảm để đi ngược dòng, miễn là theo Chúa Giêsu và Tin Mừng của Chúa.
Nguồn: archivioradiovaticana.va
Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng Chúa nhật 25 Thường niên năm C (19/9/2010) - Trái tim nói với trái tim
(Thánh lễ phong Chân phước cho Đức Hồng y John Henry Newman)
Anh chị em thân mến trong Đức Kitô,
Ngày hôm nay, chúng ta quy tụ nơi đây tại Birmingham, quả thật là một ngày rất trọng đại. Trước hết, đây là Ngày của Chúa – Chúa nhật, ngày mà Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết và vĩnh viễn thay đổi dòng chảy của lịch sử nhân loại, trao ban sự sống mới và niềm hy vọng cho tất cả những ai còn đang sống trong bóng tối sự chết. Chính vì thế, các Kitô hữu khắp nơi trên thế giới cùng nhau cử hành ngày này, để ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa vì những công trình kỳ diệu Ngài đã thực hiện cho chúng ta. Chúa nhật này còn đánh dấu một thời khắc quan trọng trong đời sống của người dân Anh, vì hôm nay là ngày được chọn để kỷ niệm 70 năm Trận chiến của Anh. Đối với tôi, một người đã từng sống và chịu đựng trong những ngày đen tối dưới chế độ Đức Quốc Xã ở Đức, thật là xúc động khi được hiện diện với anh chị em trong dịp này, và để tưởng nhớ biết bao đồng bào của anh chị em đã hy sinh mạng sống, can đảm chống lại sức mạnh của ý thức hệ gian ác đó. Tôi đặc biệt nghĩ đến Coventry gần đây, vốn đã hứng chịu những cuộc ném bom dữ dội và thiệt hại nhân mạng rất lớn vào tháng 11 năm 1940. Bảy mươi năm sau, chúng ta nhớ lại với sự xấu hổ và kinh hoàng về số người chết, và sự tàn phá khủng khiếp mà chiến tranh gây ra; đồng thời chúng ta cùng nhau làm mới lại quyết tâm dấn thân cho hòa bình và hòa giải ở bất cứ nơi nào có nguy cơ xung đột. Tuy nhiên, lý do chính yếu và vui mừng hơn cả khiến hôm nay trở nên một ngày trọng đại cho Vương quốc Anh, cho vùng Midlands, cho Birmingham. Đó là ngày Đức Hồng y John Henry Newman được chính thức tôn vinh trên các bàn thờ và được tuyên phong Chân phước.
Tôi chân thành cảm ơn Đức Tổng Giám mục Bernard Longley vì đã long trọng chào đón tôi vào đầu Thánh lễ sáng nay. Tôi xin bày tỏ lòng tri ân với tất cả những ai đã làm việc chăm chỉ trong nhiều năm để thúc đẩy án phong thánh cho Đức Hồng Y Newman, bao gồm các linh mục của Dòng Birmingham Oratory và các thành viên của Gia đình Thiêng Liêng Das Werk. Tôi chào tất cả anh chị em đến từ Vương quốc Anh, Ireland và nhiều nơi khác; tôi cảm ơn sự hiện diện của anh chị em trong buổi cử hành này, nơi chúng ta cùng nhau tôn vinh Thiên Chúa vì nhân đức anh hùng của một con người thánh thiện của nước Anh.
Anh quốc có một truyền thống lâu đời về các thánh tử đạo, những chứng nhân can đảm đã nâng đỡ và truyền cảm hứng cho cộng đoàn Công giáo tại đây qua nhiều thế kỷ. Nhưng hôm nay, thật là chính đáng và thích hợp khi chúng ta tôn vinh sự thánh thiện của một cha giải tội, một người con của dân tộc này không phải đổ máu vì Chúa, nhưng đã làm chứng hùng hồn về Ngài trong suốt cuộc đời dài cống hiến cho chức vụ linh mục, và cách đặc biệt cho việc rao giảng, giảng dạy và viết lách. Ngài xứng đáng được xếp vào hàng ngũ của các vị thánh và các học giả từ những hòn đảo này, như thánh Bede, thánh Hilda, thánh Aelred hay chân phước Duns Scotus,… . Nơi Chân phước John Henry, truyền thống học thuật nhẹ nhàng, sự khôn ngoan sâu sắc và tình yêu sâu thẳm dành cho Thiên Chúa đã sinh ra nhiều hoa trái, như một dấu chỉ của sự hiện diện lâu dài của Chúa Thánh Thần trong sâu thẳm bên trong trái tim của Dân Chúa, làm trổ sinh muôn vàn ân huệ thánh thiện
Châm ngôn của Đức Hồng y Newman: Cor ad cor loquitur hoặc “Trái tim nói với trái tim” – hé mở cho chúng ta cái nhìn sâu sắc bên trong của ngài về đời sống Kitô hữu đó là lời mời gọi nên thánh, được cảm nghiệm như khát vọng sâu xa của trái tim con người muốn bước vào sự kết hiệp mật thiết với Thánh Tâm Chúa.
Ngài nhắc chúng ta rằng lòng trung tín với đời sống cầu nguyện sẽ dần dần biến đổi chúng ta nên giống Thiên Chúa. Như ngài đã viết trong một trong nhiều bài giảng nổi tiếng của mình rằng: “Một thói quen cầu nguyện, tức là thói quen hướng về Thiên Chúa và thế giới vô hình trong mọi thời điểm, ở mọi nơi, trong mọi tình huống, cầu nguyện có thể nói là có tác động tự nhiên, nâng cao và thánh hóa tâm hồn. Con người không còn là chính họ trước kia nữa; dần dần… họ tiếp nhận những tư tưởng mới và thấm nhuần những nguyên tắc mới”. (Parochial and Plain Sermons, IV, 230–231).
Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng không ai có thể làm tôi hai chủ (x. Lc 16,13), và giáo huấn của Chân phước Newman về cầu nguyện cho thấy rằng người Kitô hữu trung tín được dẫn đưa hoàn toàn vào việc phục vụ vị Chủ nhân đích thực duy nhất, Đấng duy nhất có quyền đòi hỏi sự tận hiến vô điều kiện của chúng ta (x. Mt 23,10).
Đức Hồng y Newman giúp chúng ta hiểu điều này có ý nghĩa gì trong đời sống hằng ngày của chúng ta: ngài nói với chúng ta rằng vị Thầy chí thánh trao cho mỗi người chúng ta một nhiệm vụ riêng cụ thể, một “sứ vụ cụ thể”: “Tôi có sứ mạng của mình”, ngài viết, “Tôi là một mắt xích trong một sợi dây, một mối liên kết giữa những con người. Thiên Chúa không dựng nên tôi vô ích. Tôi sẽ làm điều thiện, tôi sẽ làm công việc của Ngài. Tôi sẽ là thiên thần bình an, là người rao giảng chân lý ngay trong hoàn cảnh của mình… miễn là tôi giữ các điều răn của Ngài và phục vụ Ngài trong ơn gọi của tôi”. (Meditations and Devotions, 301–302).
Sứ mạng cụ thể của Chân phước John Henry được thể hiện qua việc vận dụng trí tuệ sắc bén và ngòi bút phong phú của ngài để suy tư về những vấn đề nóng bỏng nhất của thời đại. Những suy tư sâu sắc của ngài về mối tương quan giữa đức tin và lý trí, về vai trò thiết yếu của tôn giáo mặc khải trong xã hội văn minh, và về sự cần thiết về một phương pháp tiếp cận giáo dục toàn diện, không chỉ có tầm quan trọng đối với nước Anh thời Victoria, nhưng đến nay vẫn còn soi sáng và truyền cảm hứng cho nhiều người trên khắp thế giới. Tôi đặc biệt muốn nhấn mạnh đến tầm nhìn giáo dục của ngài, vốn đã góp phần hình thành nên tinh thần cốt lõi của các trường học và đại học Công giáo ngày nay. John Henry Newman chống lại mọi quan niệm giản lược hay thuần túy thực dụng, ngài đã nỗ lực xây dựng một môi trường giáo dục nơi mà việc đào tạo trí thức, kỷ luật đạo đức và cam kết tôn giáo gắn kết với nhau. Dự án thành lập Đại học Công giáo ở Ireland là dịp để ngài triển khai những ý tưởng ấy của mình về chủ đề này, và bộ sưu tập các bài diễn văn mà ngài đã xuất bản với tên gọi The Idea of a University (“Ý tưởng về một trường Đại học”) nêu lên một lý tưởng mà tất cả những người tham gia đào tạo học thuật có thể tiếp tục học hỏi. Quả thật, không có mục tiêu nào tốt đẹp hơn cho các giáo viên tôn giáo có thể đặt ra cho mình hơn lời kêu gọi nổi tiếng của Chân phước John Henry về một hàng giáo dân có tri thức vững vàng: “Tôi mong muốn có một giáo dân không kiêu căng, không nông nổi, không ưa tranh cãi, nhưng là những người hiểu rõ đức tin của họ, thấm nhập vào đức tin ấy, biết rõ họ đang đứng ở đâu, những gì họ tin và những gì họ không tin; biết rõ tín điều của họ đến mức có thể giải thích, và những người hiểu biết lịch sử đến mức họ có thể bảo vệ nó” (The Present Position of Catholics in England, IX, 390). Hôm nay đây, khi tác giả của những lời ấy được tôn vinh trên các bàn thờ, tôi cầu xin để nhờ lời chuyển cầu và gương sáng của ngài, tất cả những ai đang dấn thân trong sứ vụ giảng dạy và dạy giáo lý sẽ được truyền cảm hứng để nỗ lực hơn nữa theo đúng lý tưởng mà ngài đã nêu ra cách rõ ràng cho chúng ta.
Trong khi di sản trí thức của John Henry Newman, một cách dễ hiểu là đã nhận được sự chú ý nhiều nhất trong khối lượng tác phẩm văn học đồ sộ dành riêng cho cuộc đời và sự nghiệp của ngài, thì nhân dịp này, tôi muốn kết thúc với một suy tư ngắn gọn về đời sống linh mục của ngài, với tư cách là một mục tử chăm sóc các linh hồn. Sự ấm áp và tính nhân văn trong cái nhìn mục vụ của ngài được diễn tả thật đẹp trong bài giảng nổi tiếng khác: “Thưa anh em, nếu các Thiên thần là linh mục của anh em, họ sẽ không thể chia sẻ nỗi buồn với anh em, cảm thông với anh em, xót thương anh em, và cảm nhận sự yếu đuối của anh em và bao dung với anh em, như chúng tôi có thể; họ cũng không thể trở nên những mẫu gương và những người dẫn dắt anh em, và đưa dẫn anh em từ con người cũ bước vào một đời sống mới, chỉ khi họ chính là những người đến từ giữa anh em thì họ có thể làm” (Men, not Angels: the Priests of the Gospel, Discourses to Mixed Congregations, 3). John Henry Newman đã sống trọn vẹn viễn tượng nhân văn ấy nơi sứ vụ linh mục của mình, qua việc tận tâm chăm sóc người dân Birmingham trong những năm tháng ngài sống tại dòng Oratory do chính ngài sáng lập, thăm viếng bệnh nhân và người nghèo, an ủi những người đau buồn, chăm sóc cho tù nhân. Không lạ gì khi ngài qua đời, hàng ngàn người đã đứng xếp hàng dọc hai trên các con đường ở khu vực địa phương để tiễn đưa thi hài ngài đến nơi an nghỉ chỉ cách đây chưa đầy một nửa dặm. Một trăm hai mươi năm sau, một lần nữa, những đám đông lớn lại tụ họp nơi đây để vui mừng trong sự công nhận long trọng của Hội thánh về sự thánh thiện phi thường của “người cha của các linh hồn” được nhiều người yêu mến. Và giờ đây, để diễn tả niềm vui sâu xa của giây phút này, chúng ta cùng hướng về Chúa Cha trên trời trong tâm tình tạ ơn chân thành, cầu nguyện bằng chính những lời kinh mà Chân phước John Henry Newman đã đặt trên môi các ca đoàn thiên thần trên thiên đàng:
Ngợi khen Thiên Chúa chí cao,
Và ngợi khen Ngài tận sâu thẳm.
Trong mọi lời của Ngài thật kỳ diệu,
Mọi đường lối của Ngài thật chắc chắn!
(The Dream of Gerontius).
Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng Chúa nhật 25 Thường niên năm C (23/9/2007) - Đời sống luôn là một chọn lựa
(Chuyến viếng thăm mục vụ tại Giáo phận Velletri-Segni ngoại ô Rôma)
Anh chị em thân mến,
Tôi rất mong trở về với anh chị em để chủ sự Thánh lễ trọng thể này, đáp lại một trong những lời mời được lặp lại nhiều lần từ anh chị em. Tôi trở về với niềm vui để gặp gỡ cộng đoàn giáo phận của anh chị em, vốn trong nhiều năm cũng đã là của tôi theo một cách đặc biệt, và vẫn luôn thân thương với tôi. Tôi thân ái chào thăm tất cả anh chị em.
Trước hết, tôi xin chào Đức Hồng y Francis Arinze, vị kế nhiệm tôi trong tước hiệu Hồng y của giáo phận này; tôi chào Đức cha Vincenzo Apicella, vị Mục tử khả kính của anh chị em, và tôi chân thành cảm ơn ngài về những lời chào đón tốt đẹp mà ngài đã thay mặt anh chị em dành cho tôi. Tôi cũng xin gửi lời chào đến các Đức Giám mục khác, quý cha, quý tu sĩ nam nữ, các nhân viên mục vụ, các bạn trẻ, và tất cả những ai đang tích cực dấn thân trong các giáo xứ, các phong trào, hiệp hội và những hoạt động khác nhau của giáo phận.
Tôi xin gửi lời chào đến Ủy viên Chính quyền của Giáo phận Velletri-Segni và các vị hữu trách dân sự cũng như quân sự khác, những người đã làm cho chúng ta được vinh dự với sự hiện diện của họ. Tôi cũng chào thăm tất cả những ai đã đến từ nhiều nơi khác, đặc biệt từ Bayern, từ nước Đức, để tham gia với chúng ta trong ngày lễ hội này. Tình bằng hữu gắn bó quê hương tôi với quê hương anh chị em, được minh chứng qua cột trụ bằng đồng được trao tặng tôi tại Marktl am Inn vào tháng Chín năm ngoái, nhân chuyến Tông du của tôi đến Đức.
Như đã được nhắc tới, 100 thị trấn của Bayern mới đây cũng đã trao tặng tôi, như thể một “phiên bản song sinh” của cột trụ ấy, và sẽ được dựng lên tại Velletri này như một dấu chỉ thêm nữa của tình cảm và thiện chí tôi dành cho anh chị em. Đó cũng sẽ là dấu chỉ của sự hiện diện tinh thần của tôi giữa anh chị em. Nhân dịp này, tôi muốn bày tỏ lòng tri ân đến các vị ân nhân, nhà điêu khắc và các vị thị trưởng mà tôi thấy đang hiện diện tại đây cùng với đông đảo bạn hữu. Tôi chân thành cám ơn tất cả anh chị em!
Anh chị em thân mến,
Tôi biết rằng anh chị em đã chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của tôi hôm nay bằng một sáng kiến thiêng liêng sâu sắc, qua việc chọn lấy một câu rất quan trọng trong Thư thứ nhất của Thánh Gioan làm khẩu hiệu: “Chúng ta đã biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta” (1 Ga 4,16).
Deus caritas est, Thiên Chúa là Tình Yêu: Thông điệp đầu tiên của tôi khởi đầu với những lời này, vốn chạm tới cốt lõi của đức tin chúng ta: hình ảnh Thiên Chúa của Kitô giáo, và hệ quả là hình ảnh của con người cùng hành trình của họ. Tôi thật vui mừng vì anh chị em đã chọn chính những lời này để định hướng cho hành trình thiêng liêng và mục vụ của Giáo phận: “Chúng ta đã biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta.”
“Chúng ta đã tin vào tình yêu”: Đây là điều trọng yếu của Kitô giáo. Do đó, phụng vụ hôm nay của chúng ta phải tập trung vào chân lý cốt yếu này: tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu có khả năng in dấu một hướng đi và một giá trị hoàn toàn mới cho đời sống con người.
Tình yêu chính là bản chất của Kitô giáo, làm cho người tín hữu và cộng đoàn Kitô hữu trở nên men của niềm hy vọng và bình an trong mọi môi trường, và đặc biệt quan tâm đến nhu cầu của người nghèo khổ và túng thiếu.
Đây là sứ mạng chung của chúng ta: Trở nên men của niềm hy vọng và bình an, bởi vì chúng ta tin vào tình yêu. Chính tình yêu làm cho Giáo hội được sống, và bởi vì tình yêu là vĩnh cửu, nên tình yêu làm cho Giáo hội sống muôn đời, cho đến tận cùng thời gian.
Chúa nhật vừa qua, Thánh Luca, tác giả Sách Tin mừng, người quan tâm nhiều hơn những người khác trong việc trình bày tình yêu của Chúa Giêsu dành cho người nghèo, đã gợi lên cho chúng ta nhiều suy tư về sự nguy hiểm của việc gắn bó quá mức với tiền bạc, của cải vật chất, và tất cả những gì ngăn cản chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi yêu mến Thiên Chúa và tha nhân. Hôm nay cũng vậy, qua một dụ ngôn khiến chúng ta ít nhiều ngạc nhiên vì nói đến một người quản lý bất lương lại được khen ngợi (x. Lc 16,1-13), khi nhìn kỹ, chúng ta sẽ thấy Chúa đã dành cho chúng ta một bài học nghiêm túc và đặc biệt mang lại ơn ích thiêng liêng.
Như thường lệ, Chúa Giêsu lấy cảm hứng từ những sự kiện đời thường: Người kể về một người quản lý sắp bị sa thải vì đã quản lý bất chính tài sản của chủ, và để bảo đảm tương lai cho mình, anh ta khôn khéo tìm cách thỏa thuận với những con nợ của chủ.
Quả thật, anh ta bất lương, nhưng lại khôn khéo: Tin mừng không trình bày anh ta cho chúng ta như một mẫu gương để noi theo trong sự gian dối, nhưng như một ví dụ đáng được bắt chước về sự khôn khéo biết nhìn xa trông rộng. Thật vậy, dụ ngôn ngắn này kết thúc bằng những lời: “Và chủ khen tên quản lý bất lương đó đã hành động khôn khéo” (Lc 16,8).
Nhưng Đức Giêsu muốn nói gì với chúng ta qua dụ ngôn này? Và qua kết luận đầy bất ngờ của dụ ngôn ấy? Tác giả Tin mừng tiếp nối dụ ngôn người quản lý bất lương bằng một loạt những lời dạy ngắn và khuyến cáo về mối tương quan mà chúng ta phải có với tiền bạc và của cải trần thế. Những câu ngắn gọn này là một lời mời gọi chọn lựa, vốn giả định một quyết định triệt để và một sự căng thẳng nội tâm liên lỉ. Thực vậy, đời sống luôn là một sự chọn lựa: giữa lương thiện và gian dối, trung tín và bất trung, ích kỷ và vị tha, thiện và ác. Kết luận của đoạn Tin mừng này thật dứt khoát và kiên quyết: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ” (Lc 16,13).
Sau cùng, Đức Giêsu nói: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của” (Lc 16,13). “Mammon” là một từ gốc Phênixi, gợi lên sự an toàn kinh tế và thành công trong kinh doanh; chúng ta có thể nói rằng của cải ở đây được trình bày như một ngẫu tượng, mà người ta sẵn sàng hy sinh mọi sự để đạt được sự thành công về vật chất cho riêng mình; và như thế, thành công về kinh tế trở thành vị thần đích thực của con người. Do đó, cần phải có một quyết định căn bản giữa Thiên Chúa và Mammon, cần phải chọn lựa giữa lô-gích của lợi nhuận như tiêu chuẩn tối hậu cho hành động của chúng ta, và lô-gích của sự chia sẻ và liên đới. Nếu lô-gích của lợi nhuận thắng thế, nó sẽ làm gia tăng khoảng cách giữa người nghèo và người giàu, đồng thời khoét sâu tình trạng khai thác tàn phá trái đất.
Trái lại, khi lô-gích của sự chia sẻ và liên đới thắng thế, thì chúng ta có thể chỉnh lại hướng đi và định hướng nó tới một sự phát triển công bằng cho ích chung của mọi người. Tận căn, đó là vấn đề chọn lựa giữa ích kỷ và tình yêu, giữa công lý và gian dối, và sau hết, giữa Thiên Chúa và Xatan.
Nếu việc yêu mến Đức Kitô và anh em đồng loại không được coi như một điều phụ thuộc và hời hợt, nhưng là mục tiêu chân thật và tối hậu của toàn thể cuộc sống chúng ta, thì chúng ta cần phải biết đưa ra những chọn lựa căn bản, được chuẩn bị để thực hiện những từ bỏ triệt để, nếu cần, thậm chí đến mức tử đạo. Hôm nay cũng như ngày xưa, đời sống Kitô hữu đòi hỏi lòng can đảm đi ngược dòng, để yêu thương như Chúa Giêsu, Đấng đã sẵn sàng hiến thân trên thập giá.
Chúng ta có thể nói, diễn giải lại một tư tưởng của Thánh Âu Tinh, rằng nhờ của cải trần thế, chúng ta phải lo cho mình những của cải đích thực và vĩnh cửu: thực vậy, nếu có những người sẵn sàng dùng đến mọi hình thức gian dối để bảo đảm cho mình một sự an sinh vật chất vốn luôn bấp bênh, thì chúng ta, những Kitô hữu, lại càng phải lo lắng hơn để chuẩn bị hạnh phúc đời đời cho mình bằng cách sử dụng những của cải ở đời này (x. Bài giảng, 359, 10). Giờ đây, con đường duy nhất để làm cho các khả năng và tài năng riêng của chúng ta cũng như những của cải chúng ta sở hữu sinh hoa trái cho sự vĩnh cửu chính là chia sẻ chúng với anh chị em mình, qua đó chứng tỏ rằng chúng ta là những người quản lý tốt các ân huệ mà Thiên Chúa đã trao phó. Đức Giêsu đã nói: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ thì cũng bất lương trong việc lớn” (Lc 16,10).
Hôm nay, trong Bài đọc I, ngôn sứ Amos nói đến cùng một quyết định nền tảng mà chúng ta phải thực hiện từng ngày. Với những lời lẽ mạnh mẽ, ngài lên án lối sống tiêu biểu của những ai để cho mình bị cuốn hút vào việc tìm kiếm ích lợi vị kỷ dưới mọi hình thức có thể, được biểu lộ qua cơn khát lợi nhuận, sự khinh miệt người nghèo và việc khai thác bóc lột của họ để mưu lợi cho bản thân (x. Am 8,5). Người Kitô hữu phải kiên quyết loại bỏ tất cả những điều ấy, và trái lại, mở lòng mình ra với những tâm tình quảng đại đích thực. Đó phải là một sự quảng đại, như Thánh Tông đồ Phaolô khuyên nhủ trong Bài đọc II, được diễn tả qua tình yêu chân thành dành cho mọi người và được biểu lộ trong lời cầu nguyện.
Thật vậy, cầu nguyện cho người khác là một hành vi bác ái cao cả. Trước hết, Thánh Tông đồ mời gọi chúng ta cầu nguyện cho những ai mang trách nhiệm trong cộng đồng dân sự, bởi vì như ngài giải thích, nếu họ khao khát thực thi điều thiện, thì từ những quyết định của họ sẽ phát sinh những hệ quả tích cực, bảo đảm cho hòa bình và “một cuộc sống thanh bình, đạo đức và tôn trọng trong mọi sự” (1 Tm 2,2). Vì thế, ước gì lời cầu nguyện của chúng ta không bao giờ thiếu vắng, như một sự đóng góp thiêng liêng cho việc xây dựng một cộng đoàn Giáo hội trung thành với Đức Kitô, và cho việc kiến tạo một xã hội công bằng và liên đới hơn.
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy cầu nguyện cách đặc biệt cho cộng đoàn giáo phận của anh chị em, đang trải qua nhiều sự thay đổi do sự di chuyển của nhiều gia đình trẻ từ Rôma đến, nhờ sự phát triển của “khu vực dịch vụ”, cũng như do sự định cư của nhiều người nhập cư tại các trung tâm lịch sử; ước gì tất cả những điều ấy đưa tới một hoạt động mục vụ ngày càng có tính hiệp nhất và chia sẻ, theo sự hướng dẫn mà Đức Giám mục của anh chị em vẫn không ngừng trao ban với một sự nhạy bén về mục vụ tuyệt vời. Thư Mục vụ của ngài ban hành tháng Mười Hai năm ngoái đã cho thấy tính hợp thời hơn bao giờ hết trong lãnh vực này, với lời mời gọi hãy lắng nghe Lời Chúa một cách chú tâm và kiên trì, cũng như giáo huấn của Công đồng Vaticanô II và Huấn quyền của Giáo hội. Chúng ta hãy ký thác mọi ý nguyện và dự phóng mục vụ của anh chị em trong tay Đức Mẹ của Ân Sủng, Đấng có thánh tượng được lưu giữ và tôn kính tại Nhà thờ Chánh tòa tuyệt đẹp của anh chị em.
Xin cho sự che chở từ mẫu của Đức Maria đồng hành với hành trình của anh chị em đang hiện diện nơi đây, cũng như của tất cả những ai không thể tham dự Thánh lễ hôm nay. Xin cho Đức Trinh Nữ Rất Thánh đoái thương gìn giữ những người đau yếu, người cao tuổi, trẻ em, mọi người cảm thấy cô đơn hay bị bỏ rơi, hoặc đang có nhu cầu đặc biệt. Xin cho Mẹ Maria giải thoát chúng ta khỏi lòng tham lam của cải, và bảo đảm rằng khi giơ lên trời đôi tay tinh sạch và tự do, chúng ta có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cả cuộc đời mình (x. Lời nguyện Nhập lễ). Amen!