BÀI CA MAGNIFICAT
(Lc 1, 46-55):
ĐỨC MARIA NGỢI CA
NHỮNG ĐIỀU KỲ DIỆU CỦA THIÊN CHÚA
Yves Guillemette
WGPQN (01.02.2023) - Nếu Đức Maria tỏ ra ít nói trong toàn bộ
các Tin Mừng thì mọi sự khác hẳn trong bài Magnificat (Lc 1,
46-55) nơi mẹ nói nhiều và đầy cảm hứng. Không phải là sự tùy tiện vụng về, bài
ca này của Đức trinh nữ đóng vai trò then chốt trong Tin Mừng Luca khi gợi lên
ba thời kỳ của lịch sử cứu rỗi: sự loan báo lời hứa trong quá khứ của dân tộc
Israël, sự hoàn tất trong biến cố hiện tại khi Đấng cứu thế đến và sự thực hiện
sắp đến trong đời sống, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu.
Nhiều người trong chúng ta biết bài Magnificat của
Đức Maria vì thường xuyên đọc thần vụ Kinh chiều trong Phụng vụ các giờ kinh.
Dù là mùa phụng vụ nào, mỗi ngày chúng ta lấy làm của riêng mình bài ca ngợi
khen của Đức trinh nữ Maria, người tạ ơn Chúa vì đã thực hiện điều kỳ diệu khi
chọn mình làm mẹ Đấng cứu thế. Chủ đề của Đức Maria là gì nếu không phải là vui
mừng vì Thiên Chúa đã chúc phúc cho người đã tin tưởng nơi lời Ngài – theo như
lời của bà Élisabeth (Lc 1, 45) –, Đấng đã chiếu sáng khuôn mặt mình trên mẹ, Đấng
đã đoái hoài để mang lại cho mẹ sự bình an? Ta đã từng biết đến công thức chúc
phúc cho dân tộc mà Thiên Chúa đòi ông Môisê chuyển giao cho Aharon và hậu duệ
ông (Ds 6, 22-27[1]).
Ta hãy nêu lên những điểm mạnh của bài ca Magnificat và
hiểu những điểm kết nối, với mục đích kết hợp chúng ta với lời ngợi ca và tạ ơn
của Đức Maria cũng như làm lời kinh riêng của chúng ta, nhất là trong những thời
điểm hạnh phúc trong cuộc sống.
Thoạt tiên, ta có thể cho rằng bài Magnificat đã
làm gián đoạn trình thuật của chương đầu Tin Mừng Luca, nhưng không phải thế.
Bài ca vang lại những lời của thiên sứ Gabriel xác định con trẻ đến từ Thiên
Chúa: Ngài sẽ là Con của Đấng tối cao, Đấng bảo đảm một dòng dõi vua Đavít mà
Thiên Chúa hứa với ông một triều đại trường tồn (Lc 1, 32-33; xem 2 Sm 7,
1-16). Bài ca của Đức Maria kín đáo loan báo sự sinh hạ của Đức Giêsu sắp được
kể ra (Lc 2, 1-21). Tác giả Tin Mừng Luca, khác với các sử gia thời đại mình –
những người mà ông vay mượn vài phương pháp nào đó – đã nhìn toàn bộ hành trình
nhân loại như là lịch sử cứu độ. Ông chia cắt lịch sử này thành ba giai đoạn lớn:
thời của lời hứa (Giao ước thứ nhất tức Cựu Ước), thời hoàn tất trong Đức Giêsu
và thời thực hiện trong sứ vụ của Đức Giêsu và của Giáo Hội. Ông tìm thấy ba
giai đoạn này ở mức độ khác nhau trong bài ca Magnificat. Thêm vào
đó, tất cả lịch sử này được Chúa Thánh Thần làm cho sinh động, từ khi Ngài bay
là là trên mặt nước trước khi tạo dựng (Stk 1, 2) cho đến biến cố Hiện Xuống (Cv
2, 1-41) thúc đẩy loan báo Tin Mừng cho các dân tộc, băng qua thời khắc Ngài ngự
trên Đức Giêsu lúc chịu phép rửa (Lc 3, 22). Ta lưu ý rằng Ngài hoạt động đặc
biệt nơi ông Zacharia, bà Êlisabeth, Đức Maria, ông Symêon, bà Anna, các mục đồng
và con trẻ Giêsu, trong các chương 1 và 2 của Tin Mừng Luca. Như xưa Chúa Thánh
Thần xâm nhập vào một ngôn sứ để làm cho ông nhận biết dự định của Thiên Chúa
dành cho dân tộc của Ngài thì nay Chúa Thánh Thần cũng làm cho Đức Maria thành
một nữ ngôn sứ, nhận biết công trình cao cả của Thiên Chúa trong sự nhập thể của
người con.
Ngợi khen và chiêm niệm
Trong “nghệ thuật kể chuyện về Đức Giêsu”,[2]
Luca chèn bài ca Magnificat vào trong
trình thuật liền lạc về sự loan báo của thiên sứ Gabriel cho Đức Maria, cuộc
thăm viếng đến bà Élisabeth và cuối cùng là sự hạ sinh của Đức Giêsu tại Bêlem.
Lời ngợi khen mang tính thánh vịnh của người mẹ tương lai cho phép chúng ta đi
đến bước ngoặt chuyển giao lịch sử cứu độ trong điều kỳ diệu ngày hôm nay
được thực hiện nơi Đức Maria. Bài ca Magnificat đưa ta lên cao nguyên, lên đỉnh
một ngọn núi, nơi ta có thể chiêm ngắm sự bao la của công trình Thiên Chúa cũng
như tính liên tục và sự mới mẻ của Ngài. Thời gian như lơ lửng trong sự
chờ đợi nhìn thấy tỏ hiện hoa trái của lòng trông cậy và đức tin mà tớ nữ của
Thiên Chúa đã đặt vào Lời Ngài, Đấng chính là Thiên Chúa, Đấng cứu thế, Đấng
toàn năng, Đấng Thánh của Israël. Đức Maria xếp mình về phía những tôi tớ khác
của Thiên Chúa, như ông Abraham, Môisê, Êlia, Êlisê và các ngôn sứ. Mẹ sẽ được
gia nhập vào hàng ngũ những người bạn lớn của Thiên Chúa qua chính Đức Giêsu, Đấng
giới thiệu mình là Tôi tớ của Thiên Chúa, đến không phải để được phục vụ mà là
để phục vụ và hiến mình làm Đấng cứu chuộc số đông người (Mc 10, 45).
Một cảm giác quen thuộc
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa (c. 46)
Tâm hồn con hoan hỷ vì Đức Chúa, nhờ Đức Chúa, con ngẩng đầu
hiên ngang (1 Sm 2, 1).
Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ
tôi (c. 47)
Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ,
tôi hớn hở biết bao! (Is 61, 10).
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết
mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc (c. 48)
Bà (Anna) khấn hứa rằng: “Lạy Đức Chúa các đạo binh, nếu
Ngài đoái nhìn đến nỗi khổ cực của nữ tỳ Ngài đây, nếu Ngài nhớ đến con và
không quên nữ tỳ Ngài, nếu Ngài cho nữ tỳ Ngài một mụn con trai…” (1 Sm 1, 11).
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh
Người thật chí thánh chí tôn! (c. 49)
Chẳng có Đấng thánh nào như Đức Chúa (1 Sm 2, 2)
Người đem lại cho dân ơn giải thoát, thiết lập giao ước đến
muôn đời. Tôn danh Người thánh thiêng khả uý (Tv 110/111, 9).
Nhưng ân tình Chúa thiên thu vạn đại, dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn (Tv 102/103, 17a).
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha
ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho
con cháu đến muôn đời (c. 54-55).
Khi ông Ápram được chín mươi chín tuổi, Đức Chúa hiện ra với
ông và phán: "Ta là Thiên Chúa Toàn
Năng. Ngươi hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống hoàn hảo. Ta sẽ đặt giao ước của
Ta giữa Ta với ngươi, và Ta sẽ cho ngươi trở nên đông, thật đông." Ông
Ápram cúi rạp xuống. Thiên Chúa phán với ông rằng: "Phần Ta, đây là giao ước
của Ta với ngươi: ngươi sẽ làm cha của vô số dân tộc. Người ta sẽ không còn gọi
tên ngươi là Ápram nữa, nhưng là Ápraham, vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân
tộc. Ta sẽ cho ngươi sinh ra nhiều, thật nhiều: Ta sẽ làm cho ngươi thành những
dân tộc, và vua chúa sẽ phát xuất từ ngươi. Ta sẽ lập giao ước của Ta giữa Ta với
ngươi và với dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đây sẽ là
giao ước vĩnh cửu, do đó Ta sẽ là Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi
sau này (Stk 17, 1-7).
Đức Chúa đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải
vì anh em đông hơn mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân. Nhưng
chính là vì yêu thương anh em, và để giữ lời thề hứa với cha ông anh em, mà Đức
Chúa đã ra tay uy quyền đưa anh em ra và giải thoát anh em khỏi cảnh nô lệ, khỏi
tay Pharaô, vua Ai Cập. Anh (em) phải biết rằng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), thật là Thiên Chúa, là Thiên Chúa trung thành: cho đến muôn ngàn thế hệ,
Người vẫn giữ giao ước và tình thương đối với những ai yêu mến Người và giữ các
mệnh lệnh của Người (Đnl 7, 7-9).
Maria tán dương Đức Chúa
Đọc trọn bài Magnificat, ta thấy sự tăng
triển trong lời ngợi khen của Maria. Mẹ bắt đầu bằng việc tạ ơn vì sự kỳ diệu
mà Thiên Chúa đã làm trong đời sống mình (c. 46-49), rồi ca tụng lòng thương
xót[5] vì
những người kính sợ Chúa, nghĩa là người tôn kính Ngài với đức tin và tình con
thảo (c. 50-53). Mẹ kết thúc khi ôm trọn toàn bộ lịch sử cứu độ từ khi lời chúc
phúc cho ông Abraham làm cho ông trở thành cha trong đức tin của toàn dân tộc,
đông như sao trên trời hay cát dưới biển (c. 54-55; Stk 12, 1-4). Trong ơn gọi
và sứ mệnh được trao phó cho Maria, lời ngợi khen của mẹ mang tầm mức rộng lớn
chạm đến số đông người sẽ nghe lời loan báo Tin Mừng, cả sứ điệp lẫn con người
Đức Kitô phục sinh.
Như thế bài Magnificat mở ra một cửa sổ
trên lịch sử cứu độ để ta nhìn vào quá khứ hầu khám phá ở đấy những điều kỳ diệu
của Thiên Chúa: công cuộc tạo dựng (Stk 1-2; Tv 104/103), sự chúc phúc cho
Abraham (Stk 12, 1-4), giải phóng khỏi sự nô lệ bên Ai Cập và giao ước với dân
Ngài (Đnl 7, 7-9) trở về từ nơi lưu đày (2 Sbn 36, 22-23). Qua cửa sổ này,
chúng ta nhìn về tương lai trong sứ vụ của Đức Giêsu.
Một vài ví dụ
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí
kiêu căng (c. 51).
Khi loan báo về cuộc khổ nạn, các môn đệ tự hỏi xem ai là
người lớn nhất (Lc 9, 46-48). Họ lại hỏi một lần nữa trong bữa Tiệc ly và Đức
Giêsu trả lời: “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất,
và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22, 24-27).
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ
khiêm nhường (c. 52).
Mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa cho người bé mọn (Lc 10,
21-24). Tiền dâng cúng của bà góa trong Đền thờ (Lc 21, 1-4).
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi
về tay trắng (v. 53).
Ta tìm thấy sự minh họa trong các dụ ngôn: Lazarô và người
giàu có (Lc 16, 19-31), lựa chọn chỗ rốt hết trong bữa tiệc (Lc 14, 7-14),
khách mời được những người nghèo thay thế (Lc 14, 15- 24) và người giàu có ngu
dốt mất đi tất cả (Lc 12,16-21).
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa
cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham
và cho con cháu đến muôn đời (c. 54-55).
Đức Giêsu “nâng dậy” người đàn bà còng lưng vào ngày Sabát
(Lc 13, 10-17) và ông Giakêu (Lc 19, 1-10), những người là con cái Abraham.
Kết luận
Trong bài ca Magnificat, Đức Maria ngợi ca
những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện trong quá khứ, thời của lời hứa và
niềm hy vọng cứu thế. Mẹ cử hành điều kỳ diệu của ngày hôm nay, thời hoàn thành
lời hứa qua ân ban Con Đấng Tối Cao. Cuối cùng, Đức Maria ngợi ca những điều kỳ
diệu sắp đến mà Đức Giêsu sẽ cho thấy qua sứ vụ của mình, thời thực hiện lời hứa
được tóm tắt trong bài ca của các thiên thần: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời
và bình an dưới thế cho người Chúa thương” (Lc 2, 14).
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
Chuyển ngữ từ: Parabole, Décembre
2022, Vol XXXVIII, No 4, tr. 8-10
Nguồn: gpquinhon.org
[1] “Hãy
nói với Aharon và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ítraen, anh em hãy
nói thế này: "Nguyện ĐỨC CHÚA chúc lành và gìn giữ anh (em)! Nguyện ĐỨC
CHÚA tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh (em)! Nguyện ĐỨC CHÚA
ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh (em)! Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en
dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng”. Công thức
chúc lành này là bài đọc thứ nhất trong lễ trong Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, ngày
1 tháng 1.
[2] Tôi
mượn tựa đề tác phẩm của Jean-Noël Aletti, L’art de raconter Jésus
Christ, Éditions du Seuil, 1989.
[3] L’Évangile
de Luc et les Écritures d’Israël. L’importance de la typologie en Luc,
Cahiers Évangile 185, (septembre 2018), tr. 17.
[4] Các
trích dẫn được trích trong bản dịch của nhóm PVCGK. Số Thánh vịnh đầu là số
trong bản Kinh Thánh Hípri, số sau là bản Hy Lạp dùng trong phụng vụ.
[5] Trong
bản Hy Lạp là eleos, dịch từ hesed trong tiếng Hípri.
Ta thường dịch những từ này là tình yêu, lòng thương xót. Ở đây phải hiểu là
lòng thương xót, diễn tả cam kết trọng thể của Thiên Chúa luôn đến cứu giúp dân
Chúa, vì giao ước đã ký kết với họ.