“HIẾU” VÀ “TÂM”: ĐIỂM HỘI NGỘ GIỮA NGƯỜI CÔNG GIÁO VÀ TÍN ĐỒ CÁC TÔN GIÁO
Lm. PX. Bảo Lộc
WHĐ (26.10.2020)
– Giáo hội xét thấy những phương thức
hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, dù có nhiều điểm
khác với chủ trương và đề nghị của Giáo hội, nhưng vẫn thường mang lại một tia
sáng của Chân Lý, Chân Lý chiếu soi tất cả mọi người (NA 2).
“Tia sáng của
Chân Lý” mà Tuyên ngôn về Liên lạc của
Giáo hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo nói đến có thể được xem như những
tiền đề cho cuộc gặp gỡ giữa người Công giáo với tín đồ thuộc các tôn giáo khác
cũng như với tâm hồn tôn giáo của người Việt. Đó là quan niệm về nguyên lý siêu
việt “Ông Trời”, niềm tin vào cuộc sống sau cái chết, lòng thương người[1],
tình sư đệ, việc thờ kính Ông Bà tổ tiên, v.v… Trong khuôn khổ giới hạn và nhằm
khơi mở cho việc trao đổi cũng như nghiên cứu sâu xa hơn trong tương lai, chúng
tôi chỉ mong phác thảo đôi nét suy tư về chữ “Hiếu” và chữ “Tâm”, như những nhịp
cầu tương giao về đạo lý và điểm nhấn trong việc thực hành đạo.
I. Chữ Hiếu
(孝)
1. Đạo hiếu trong
văn hóa Việt
Nơi các dân tộc Á
châu nói chung và nơi người Việt nói riêng, lòng Hiếu thảo đối với tổ tiên, ông
bà và cha mẹ luôn được trân trọng và tuân giữ như đòi hỏi căn bản của luật tự
nhiên, bất kể họ theo truyền thống tôn giáo Phật, Đạo (Lão), Nho (Khổng) hay
Công giáo. Nhiều người còn tự nhận mình theo “đạo Ông Bà” hay Đạo Hiếu, khi họ
không thuộc về một đạo nào khác. Đạo làm
con có thể được xem như linh đạo của người Việt.
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu.
Chữ Hiếu đã thấm nhập vào văn hóa Việt và đọng lại
trong ca dao tục ngữ cũng như những văn phẩm nổi tiếng. Nguyễn Du (1765-1820),
qua hình tượng nàng đạo Kiều trong “Truyện Kiều”, đã làm nổi bật sự hy sinh hạnh
phúc cá nhân để làm tròn Hiếu và đặt chữ Hiếu trên cả chữ Tình lẫn chữ Trinh.
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn ?
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
Quyết tình nàng mới hạ tình:
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha !
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), đã đề cao tinh thần
hiếu hạnh vượt trên danh lợi, trong tác phẩm “Lục Vân Tiên”. Lục Vân Tiên trên
đường đi thi trạng nguyên, nghe tin mẹ mất, đã quay về chịu tang cho mẹ và ông
đã khóc lóc đến mù mắt. Con người đặt đạo Hiếu của người con trên sự nghiệp bản
thân.
Lòng hiếu kính được thể hiện trong thái độ sống
hàng ngày đối với ông bà cha mẹ, khi các ngài còn tại thế, cũng như vào dịp Tân
niên, những ngày giỗ kỵ, mùa Vu Lan báo hiếu, nơi nhà Tổ, bàn thờ gia tiên, khi
các ngài đã từ trần.
Người Việt tin vong hồn gia tiên luôn ở gần con
cháu, thường ngự nơi bài vị trên bàn thờ, nên người sống có thể tiếp xúc với
người khuất, với thế giới vô hình, qua việc cầu cúng lễ bái. Mỗi khi có các biến
cố quan trọng trong gia đình, gia chủ đều
khấn vái gia tiên để trình báo sự kiện, xin chứng giám và cầu mong sự phù hộ.
Ngoài tổ tiên theo huyết thống, người Việt còn
bày tỏ lòng biết ơn đối với các tổ tiên chung như tổ nghiệp, Thành hoàng, người
có công đối với đất nước. Điển hình như các tướng Lý Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão
được vị “Thượng đẳng phúc thần”, Trần Quốc Tuấn tôn gọi Hưng Đạo Đại Vương, Mạc
Đỉnh Chi lãnh tước Huệ Việt Linh Thánh Đại Vương phúc thần[2].
2. Đạo hiếu trong truyền thống
Nho giáo
Đối với truyền thống Nho gia, Hiếu đứng đầu sáu đức
tính của người quân tử: Hiếu, Đễ, cẩn, tín, thương mọi người, mến bậc nhân.
Trong Hiếu
kinh, Khổng Tử xem Hiếu là nguồn cội của nhân đức và giáo dục: “Hiếu là gốc
của đức, là nguồn của giáo… thân thể tóc da, nhận từ cha mẹ, không dám tổn
thương, đó là khởi đầu của hiếu. Lập thân hành đạo, dương danh với hậu thế, để
làm rạng rỡ cha mẹ, đó là kết cục của hiếu”. Một cách cụ thể, đức hiếu thảo đòi
hỏi:
“Người con hiếu phụng dưỡng cha mẹ, ăn ở phải hết sức cung kính, cung dưỡng
cha mẹ phải hết mực vui vẻ, khi cha mẹ đau ốm phải lo lắng hết lòng, khi lo việc
tang lễ phải cực kỳ thương xót, khi cúng tế cha mẹ phải vô cùng trang nghiêm”[3].
Chữ Hiếu này được biểu lộ lúc thân phụ còn sống lẫn
khi người đã qua đời:
“Trong khi cha mình còn sanh tiền,
mình nên xem xét chí hướng, ý tứ của cha mình: như tốt lành, chính đáng thì
mình bắt chước theo. Khi cha mình khoản đi rồi, mình nên quan sát những việc
làm cùng người ; như phải thì mình làm theo. Cha mình mất trong ba năm mà mình chẳng đổi đạo nghệ của cha, đó
mới gọi là con có hiếu”[4].
Tăng Tử hay Tăng Sâm (505-435 TCN), đệ tử của đức
Khổng, đã khai triển thêm nội dung của Hiếu: “Hiếu có ba điều: đại hiếu phải
tôn thân, sau nữa không làm điếm nhục, sau nữa mới nuôi dưỡng”[5].
Theo Mạnh tử (372–289), Bất hiếu hữu tam, nghĩa là bất hiếu có ba điều: không con trai
nối dòng; không can ngăn cha mẹ khi cần; không làm quan lấy lộc phụng dưỡng.
3. Đạo hiếu trong truyền thống
Phật giáo
Trong đạo Phật, Hiếu hạnh là con đường giải thoát
của chánh pháp, thực hành hiếu thảo là con đường mà người Phật tử phải theo mới
được gọi là tử chân chính. Đó là thiện pháp mà kinh "Nhẫn nhục" đã
xác định: "Điều thiện tối cao là chí hiếu, điều ác cực ác là bất hiếu".
Đức Phật từng đề cao đức hiếu thảo, đồng thời kể
ra năm bổn phận, trong đó có việc gìn giữ truyền thống của gia đình:
“Người con có năm bổn phận đối với cha mẹ: nuôi dưỡng cha mẹ khi cha mẹ già
yếu, làm đủ bổn phận người con đối với cha mẹ, giữ gìn truyền thống gia đình, bảo
vệ tài sản thừa tự và làm tang lễ khi cha mẹ qua đời” (Giáo thọ Thi ca la việt,
Trường bộ kinh IV)[6].
Ý nghĩa của mùa Hiếu hạnh và đại lễ Vu Lan của đạo
Phật, được tìm thấy trong Kinh Vu-Lan-Bổn, đề cập đến một cách báo hiếu cho
thân sinh đã qua đời. Nội dung kinh gồm 3 phần[7]:
Nói về một đệ tử của
Đức Phật, Mục Kiền Liên, sau khi đắc đạo, thấy mẹ của mình sống trong cảnh giới
quỷ đói, thân hình tiều tuỵ khổ sở. Ngài sử dụng năng lực thần thông của mình,
đưa bát cơm đến dâng cho mẹ. Mẹ Ngài được cơm, lòng tham khởi lên, tay trái che
bát, tay phải bốc ăn, nhưng cơm chưa tới miệng đã hóa ra lửa, nên không ăn được.
Mục Kiền Liên xin Phật
chỉ dạy phương pháp cứu mẹ ra khỏi cảnh khổ Ngạ quỷ. Đức Phật dạy rằng, phải nhờ
đến uy lực của tập thể chúng tăng mới cứu được mẹ ông. Vào ngày rằm tháng bảy
là ngày chư tăng tập trung tự tứ sau 3 tháng an cư kiết hạ thanh tịnh, hãy sắm
sửa vật dụng cúng dường chư tăng, nhờ chư tăng chú nguyện, mẹ ông mới thoát được
khổ. Mục Kiền liền vâng lời Phật dạy, thực hành phương pháp báo hiếu ấy, nên đã
cứu được mẹ.
Mục Kiền Liên xin Phật
cho phép các phật tử sau này được thực hành phương pháp báo hiếu cha mẹ bằng
cách cúng dường Vu-Lan-Bồn để báo đáp ân cha mẹ. Đức Phật khen ngợi và chấp thuận.
Từ đó, ngày rằm tháng bảy là ngày báo hiếu truyền thống của Phật Giáo.
Trong Kinh Báo
ân Cha Mẹ, Đức Phật nêu lý do của việc báo hiếu khi liệt kê 10 ân đức của
cha mẹ :
ân giữ gìn mang
thai trong 9 tháng.
ân sinh sản khổ
sở
ân sinh rồi quên
lo
ân nuốt đắng nhổ
ngọt
ân nhường khô nằm
ướt
ân bú mớm nuôi nấng
ân tắm rửa chăm
sóc
ân xa cách
thương nhớ
ân vì con làm ác
ân thương mến trọn
đời.
Qua việc tìm hiểu
Lục độ tập kinh của Khương Tăng Hội,
Quảng Kiến nhận định điểm khác so với Nho giáo về quan niệm người con chí hiếu
theo lý tưởng đạo Phật, là ở chỗ « quy y Tam bảo, giữ gìn cấm giới, biết
hướng cha mẹ quay về nẻo chánh, bố thí làm lành, nương theo pháp Phật tu hành để
có được trí tuệ chơn chánh ».
Do đó, đạo Phật
không cho “vô hậu vi đại” (không con nối dõi) là bất hiếu. Trái lại, « những
người xuất gia lại là những người chí hiếu, vì họ biết đem niềm tin chơn chánh
đến cho cha mẹ ».
Chính Đức Phật đã
dạy: “Dựa trên thiện nam tử có lòng tin, các người trong gia đình được lớn lên
về năm phương diện. Thế nào là năm ? Lớn lên về lòng tin, lớn lên về giới, lớn
lên về học hỏi, lớn lên về bố thí, lớn lên về trí tuệ. Dựa trên thiện nam tử có
lòng tin, các người trong gia đình được lớn lên vì năm sự lớn lên này” (Tăng Chi II)[8].
4. Đạo hiếu trong
truyền thống Công giáo
Trong quá khứ, do
trân trọng truyền thống đạo Hiếu nơi người Việt Nam và cố gắng hội nhập văn hóa
trong việc trình bày sứ điệp Kitô giáo,
linh mục Đắc Lộ đã cố gắng trình bày Kitô giáo qua học thuyết Tam Phụ, nghĩa là
Hiếu kính đối với Thượng Phụ (Cha trên trời), với Trung Phụ (vua) và với Hạ Phụ
(cha mẹ dưới đất).
“Có ba đấng bề trên, gọi là ba cha, ta phải
thờ, ở đấng nào, cho nên đấng ấy. Đấng dưới là cha mẹ sinh thân xác cho ta : đấng
giữa là vua Chúa trị nước : đấng trên là đức Chúa trời đất, làm Chúa thật trên
hết mọi sự : có ba đấng này ta mới được sống, được ở. Vì chưng ta có cha mẹ thì
mới được thân xác thịt này sinh ra mà chớ : song le linh hồn ta chẳng phải bởi
cha mẹ mà ra đâu. Ta chịu ơn mẹ vì có chịu thai, mà ta ở trong lòng mẹ chín
tháng mười ngày, chịu khốn khó mà đẻ ta, đoạn ba năm bú mớm : có khi thì mẹ cắt
của mình ăn mà cho con ăn : cũng có khi mẹ ăn miếng đắng, mà miếng ngon để dành
cho con ăn : lại có khi mẹ nằm chốn ướt, mà chốn ráo để cho con nằm. Cha đẻ con
đoạn thì lo việc nuôi nấng, vì vậy có khi thì cha thức sớm chẳng ngủ, mà làm
nghề nọ nghề kia, chạy xuôi chạy ngược, kiếm của mà nuôi con. Thật con thảo
kính cha mẹ thì thậm phải, ví bằng có ai chẳng thảo kính, chẳng khứng vâng phép
cha mẹ, thật thì có tội trọng.
Vua Chúa cùng gọi là cha cả và nước, cùng
các dân : chẳng có vua Chúa, thì nước ở an lành chẳng được : vì chưng vua Chúa
trị nước cho dân ở được an lành. Vì vậy vua Chúa thì giữ nước, và cho kẻo giặc
bề ngoài phá nước làm khốn dân sau thì sửa trong nước, làm cho đại thần hòa thuận
cùng nhau và tiểu dân yêu đang (đương) thông việc cùng nhau nữa (inferiores
vero amicitiam invicem et communicationem sectentur). Ví bằng chẳng có vua Chúa
sửa nước một ngày, thật là có ra những sư long đong, hỗn hào trong dân mà chớ.
Đại thần trong nước quân tử thì giúp vua Chúa trị nhậm sứa nước. Tiểu nhân thì
ra tiền năm tiền quí giúp việc vua Chúa nữa. Vì vậy hễ là kẻ ở trong nước thì
phải kính dái vua Chúa ? Ví bằng có ai trong nước mà theo ngụy thì chịu phạt đã
đáng.
Hãy còn cha cả là Chúa trên hết mọi sự :
đã hóa nên và giữ gìn trời đất muôn vật cùng hết mọi sự. Nào có ai hồ nghi mà
chẳng chịu thờ phượng đấy trên hết mọi sự, mà chẳng dại ru ? Thủa xưa khi chưa
có trời, chưa có đất, chưa có đí gì, mà đã có một đức Chúa trời thanh nhàn vui
vẻ vậy chẳng có thiếu gì sốt, mới sinh ra trời, sinh ra đất, lại hóa ra mọi sự ở
trong trời này nữa. Trên trời thì hóa ra mặt trời mặt trăng, cùng ngôi sao cho
ta được sáng. Ví bằng chẳng có sáng, ta ở làm sao được ? Dưới hạ giới này thì
sinh ra muông chim cầm thú, hoa quả, cây cối, rau cỏ cho ta ăn. Cùng có làm nên
gỗ, nước, lửa, gió cùng các kỳ sự cho ta dùng. Ví bằng thiên hạ chẳng có mưa chẳng
có nắng ta sống làm chi được ? Thật trời đất cùng mọi sự ở trong thế giới này bởi
một đức Chúa trời rộng rãi vô cùng mà có. Vì vậy ta cám ơn đức Chúa trời là cha
cả chúng tôi, và thờ phượng đấy trên hết mọi sự thì thậm phải”[9].
Các Giám mục Việt
Nam cũng đã nhận định về chữ Hiếu như điểm hội ngộ giữa Tin Mừng và nền tảng đạo
đức xã hội: “Yêu thương và hiệp nhất là đặc điểm của Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
và cũng là điểm gặp gỡ sâu xa nhất giữa Tin Mừng và văn hóa Việt Nam, một nền
văn hóa vốn lấy nghĩa đồng bào và đạo hiếu trung làm nền tảng cho đạo đức xã hội”
(Thư chung năm 1998, số 5).
Thế nhưng, trong
thực tế, người Kitô hữu Việt Nam thường đối diện với một sự ngộ nhận đã ăn sâu vào tâm thức nhiều người:
« Theo Đạo (Công giáo), bỏ Ông Bà ». Khi người muốn theo đạo Công
giáo là trưởng nam trong gia đình, thì họ hay gặp phải sự ngần ngại của cha mẹ
bởi mối lo không có người lo thờ cúng ông bà tổ tiên, vốn là bổn phận của người
con trai trưởng.
Để giải tỏa những
ngộ nhận về đạo Công giáo liên quan đến lòng hiếu kính đối với tổ tiên, đồng thời
làm sáng tỏ tinh thần hiếu thảo của con cái Thiên Chúa, thiết nghĩ cần làm nổi
bật chữ Hiếu trong huấn giáo, lối diễn tả đức tin cũng như cách sống của người
Công giáo. Thực vậy, Hiếu đạo vốn là thái độ và đòi hỏi nền tảng của tinh thần
Kitô giáo.
Xét về phương diện
thực hành luân lý, hiếu thảo đứng đầu 7 yêu cầu liên quan đến tương quan giữa
người với người, trong 10 điều răn: “Thứ Bốn, thảo kính cha mẹ” (Kinh Mười điều
răn).
Còn hướng về nguồn
cội đức tin của mình, người Công giáo tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là
Anh Cả của nhân loại, “Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8, 29).
Người yêu thương và liên đới trách nhiệm với cả loài người, nhất là với những
người bé mọn, nghèo khổ. Gương sống của Đức Giêsu là nền tảng của chữ Hiếu theo
niềm tin của người Công giáo.
Con chí hiếu của
Thiên Chúa
Đạo hiếu được đề
cao nơi truyền thống thờ kính tổ tiên của Việt Nam có thể tìm gặp nơi Đức Giêsu
Kitô một chứng từ sinh động, cụ thể của một người con đầy lòng hiếu thảo. Hơn
ai hết Đức Giêsu không những hằng tuân phục cha mẹ trần thế khi nhập thể làm
người (xem Lc 2, 51), mà còn là Hiếu tử của Cha trên trời, người con chí hiếu,
chí ái của Thiên Chúa Cha. Lương thực của Người là thánh ý Chúa Cha (Ga 4, 34).
Đức Giêsu đã sống
trọn đạo làm con, để "Danh Cha cả sáng" và "Ý Cha thể hiện dưới
đất cũng như trên trời". Chúa Giêsu có một tương quan cá vị với Chúa Cha,
mà Người gọi là "Abba". Quan hệ này mật thiết đến độ Chúa Giêsu khẳng
định : "Ai thấy Tôi là thấy Cha" (Ga 14, 9), "Tôi với Cha là một"
(Ga 10, 30), "Tôi ở trong Cha và Cha ở trong Tôi" (Ga 14, 11).
Cha của Đức Giêsu
cũng là Cha của các môn đệ : "Cha các con" (Mt 5,16.45.48). Vì thế, nhờ,
với và trong Chúa Giêsu, Kitô hữu
thưa : "Lạy Cha chúng con…". Lòng hiếu thảo của Đức Giêsu đã được
chính Chúa Cha xác nhận một cách long trọng qua hai biến cố chịu Thanh tẩy bởi
Gioan Tiền hô và khi Biến hình: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng
về con" (Mc 1, 11; Mt 3, 17; Lc 3, 22).
Huynh trưởng của
nhân loại
Theo ý muốn của
Chúa Cha, Đức Giêsu là Trưởng tử giữa mọi loài thọ sinh : Thiên Chúa "đã tiền
định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng
tử giữa một đàn em đông đúc" (Rm 8, 29).
“Thật vậy, Đấng
thánh hóa là Đức Giêsu, và những ai được thánh hóa đều do chung một nguồn gốc.
Vì thế, Ngài đã không hổ thẹn gọi họ là anh em…” (Dt 2, 11).
Tại Việt Nam, người
trưởng nam đóng một vai trò quan trọng trong tương quan gia đình và xã hội (từ
nghi lễ tang, cưới, kính nhớ tổ tiên, mừng tuổi, phụng dưỡng cha mẹ, v.v…). Người
Anh Cả đại diện các em trước mặt cha mẹ và thay quyền mẹ cha chăm sóc đoàn em,
theo nguyên tắc "quyền huynh thế phụ". Chúa Giêsu là Anh của mọi người
và thay mặt đoàn em phụng sự Cha, đồng thời nhân Danh Cha dưỡng dục nhân loại
theo ý Cha.
Chúa Giêsu đã
"nên giống anh em mình về mọi phương diện" (Dt 2, 17), ngoại trừ tội
lỗi (Dt 4, 15). Trong cuộc đời trần thế, ngay từ tấm bé, Người đã kinh nghiệm
di dân (Mt 2, 13-15), lớn lên Người đã lao động tay chân như một người thợ cùng
cha nuôi Giuse. Trên hành trình thực thi sứ mạng, Đức Giêsu đã trải nghiệm cơn
đói (Mc 2,23-36; Mt 21, 18), nổi khát (Ga 4,6-7; 19, 28), không nơi định cư nhất
định (Lc 9, 58), chịu cám dỗ (Mt 4, 1-11; Mc 1, 12-13), v.v…
Như thế, nhờ quyền
năng của Chúa Thánh Thần, Con Thiên Chúa sinh làm người bởi Trinh nữ Maria (mầu
nhiệm nhập thể). Và Ngôi Hai Thiên Chúa đã thật sự trở nên một người giữa chúng
ta, Người chia sẻ cuộc sống, niềm vui, hy vọng, đau khổ và cả cái chết của nhân
loại chúng ta. Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật, vừa là con người thật. Nhờ đó, Người đã biểu hiện dung nhan con người của
Thiên Chúa và đồng thời mạc khải chân dung thần linh của con người .
Cửa vào Đại gia
đình Thiên Chúa
Bằng ngôn ngữ biểu
tượng, Chúa Giêsu đã tự giới thiệu mình như cửa ngõ của ơn cứu độ, để bất cứ ai
qua ngài, sẽ được cứu thoát (x. Ga 10, 9). Người xác quyết vai trò trung gian
và sứ mạng cứu độ của Người đối với nhân loại.
Nhờ Chúa Giêsu, mọi
người có thể trở thành con Thiên Chúa, trở nên thành viên của đại gia đình con
cái Thiên Chúa. Thực thế, "những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ
quyền trở nên con Thiên Chúa Cha" (Ga 1, 12).
Theo Đạo là đi
vào tương quan cá nhân với Thiên Chúa như với người Cha, trở nên con cái của
Ngài và có thể thân thưa : "Lạy Cha chúng con", đó là tính chất mới mẻ
và độc đáo mà Đức Giêsu Kitô đã mang đến cho toàn thể nhân loại. Xác tín về
tính chất đặc thù này của Kitô giáo, các Giáo phụ thường xuyên nhắc lại :
"Con Thiên Chúa do bản chất đã
làm người để con người có thể trở nên con Thiên Chúa nhờ ân sủng "[10].
Bước theo Chúa
Giêsu, người Anh Cả mẫu mực, trong suy nghĩ, thái độ và hành động, người Kitô hữu
biểu lộ lòng hiếu thảo đối với Thiên Chúa là Cha (Thượng Phụ). Truyền thống Nho
giáo vốn quen thuộc với cách nhìn mọi người là anh em: "Tứ hải giai huynh
đệ", nhưng điều mới mẻ mà Kitô giáo mang lại cho tương quan giữa người với
người, chính là sự qui chiếu về Chúa Kitô, Con Người-Thiên Chúa. Người đổi mới
mọi quan hệ con người bằng một Tình Yêu toàn hiến, bất vụ lợi và đưa đoàn em
nhân loại đi vào hiệp thông với Hạnh Phúc vĩnh hằng của Đại Gia Đình Thiên Chúa
Ba Ngôi.
II. Chữ Tâm (心)
Hoạt động của con
người tuy đa dạng và đa diện, nhưng giá trị đích thực của chúng đều qui về chữ
Tâm. Thực vậy, cả truyền thống văn hóa tôn giáo Á Đông lẫn Kinh thánh đều trọng
cái Tâm.
Vua Trần Nhân
Tông (1258-1308) sau khi nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, lên núi Yên Tử
phát triển dòng thiền Trúc Lâm, đã từng trước tác bài kệ “Cư trần lạc đạo”,
trong đó xác định đường tu chủ tâm chứ không tuy thuộc cảnh giới bên ngoài:
Ở đời vui đạo cứ tùy duyên
Hễ đói thí ăn mệt ngủ liền,
Báu sẵn trong nhà đâu kiếm nữa,
Vô tâm đối cảnh hỏi chi Thiền[11].
Tu tâm là phương
thế hữu hiệu đạt thân và là một phương cách biến đổi con người và thế giới. Thấm
nhuần ít nhiều âm hưởng của quan niệm "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ" (Đại Học, chương I), của thuyết thiện tâm theo Mạnh Tử, Nguyễn
Du đã diễn tả cốt lõi của sự thiện ở nơi tâm, trong đoạn kết thúc Truyện Kiều :
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
1. Tâm trong Nho
giáo
Chữ tâm trong Nho
giáo được hiểu theo nghĩa rộng là cái thần minh làm chủ cả tư tưởng lẫn hành vi
của người ta. Hễ ta giữ được cái tâm tĩnh, không để cho vật dục che khuất cái
sáng suốt tự nhiên, thì khi có vật gì cảm đến là ứng ngay được, và biết rõ ngay
cái lẽ. Tâm ta càng tĩnh, thì trực giác càng nhạy bén. Do đó, Vô tư giã, vô vi giã, tịch niên bất động, cảm
nhi loại thông thiên hạ chi cố, nghĩa là không nghĩ, không làm, im lặng
không động, đến lúc cảm thì suốt được mọi cớ trong thiên hạ[12].
Chuẩn mực đạo đức
cơ bản nhất của con người là nhân nghĩa lễ trí. Mà “Nhân nghĩa lễ trí bắt nguồn
từ tâm” (Tân tâm thượng). Con người sở
dĩ là người, là do nội tâm của con người đang tồn tại cái tâm trắc ẩn, tu ố (xấu
hổ và căm ghét), từ nhượng (khiêm tốn từ chối) và thị phi (phải trái).
“Tâm trắc ẩn là đầu
mối của nhân; Tâm tu ố là đầu mối của nghĩa; Tâm từ nhượng là đầu mối của lễ,
Tâm thị phi là đầu nối của trí vậy” (Công
Tôn sửu thượng) Bốn loại tâm đạo đức này là sự mở đầu của quan niệm nhân
nghĩa lễ trí. Đạo đức nhân nghĩa lễ trí của con người đều do sự phát triển của
bốn loại đạo đức này[13].
Nếu Kinh dịch giải thích Tâm bằng tâm lý, Thượng thư dùng thiện ác giải thích Tâm,
thì Kinh thi[14], một
trong Ngũ Kinh, nền tảng của truyền thống Nho học, giải thích Tâm bằng nhân đức.
Chữ tâm được sử dụng
162 lần trong Kinh thi, diễn đạt các
loại tình cảm tư tưởng nội tâm của con người. Khổng tử chỉ ra rằng : “Thi”, tam
bách, nhất ngôn dĩ tế chi viết : “Tư vô tà”, nghĩa là trong Kinh thi có 300 bài thơ thì chỉ có một
câu có thể bao trùm được là: “không nghĩ bậy”. (Luận ngữ, Vi chính). Như thế, Kinh
thi nhấn mạnh đặc biệt đến khái niệm về “Tâm đức”.
Vua chúa cần lấy
tâm đức để trị quốc, chứ không thể dùng biện pháp hà khắc bạo ngược. Tâm đức là
nguyên tắc quan trọng để trị quốc, dù phải dùng mệnh lệnh hành chính và luật
pháp cũng phải thể hiện được tinh thần nhân đức.
Kinh thi nêu gương Lỗ Hi Công xuất quân đi dẹp loạn, mà
không làm cho trăm họ bị tai họa. Dẹp được loạn mà không làm tổn thương dân
chúng, đó là người có “tâm đức”.
Vì thế, bậc quân
vương phải luôn tu thân mới đủ tư cách dẫn đạo dân chúng. Nhờ tu thân mà tâm hồn
trong sạch, tác phong hợp lễ, đạo đức tràn đầy. Cả người cai trị lẫn dân chúng
đều phải lấy việc tu thân làm gốc. Kinh
thi đã liên kết chặt chẽ tâm với đức, đề cao tinh thần đạo đức, nhấn mạnh
nhân đức, sự tự giác của ý thức đạo đức trong tương quan vua-tôi[15].
Theo Nho giáo, bốn cái tâm rộng lớn không thể đo lường được
là Tứ vô lượng tâm (四無量心), gồm có: Hảo tâm, Hiếu tâm, Thiện tâm, Đạo tâm.
Hoàng Thiên bất phụ Hảo tâm nhơn,
Hoàng Thiên bất phụ Hiếu tâm nhơn,
Hoàng Thiên bất phụ Thiện tâm nhơn,
Hoàng Thiên bất phụ Đạo tâm nhơn[16].
Việc tế lễ hệ tại
chủ yếu ở cái Tâm: “Phù tế giả, phi vật tự ngoại chí giả giả, tự trung xuất,
sinh ư tâm giã”, nghĩa là Tế không phải vật ở ngoài đến, mà tự trong ra, tự tâm
hồn phát ra” (Lễ Ký, XXV : Tế Thống)[17].
Về tương quan giữa Tâm và tri thiên mệnh,
Mạnh Tử chủ trương rằng khi rèn luyện hoàn hảo cái tâm của mình, thì sẽ biết bản
tính của mình và khi biết bản tính của mình, thì cũng biết Trời:
Tận kỳ tâm giả, tri kỳ tánh giã; tri kỳ
tánh tắc tri Thiên hỹ [18].
Cũng thế, khi ta
bảo tồn lòng dạ, lương tâm, nuôi dưỡng bản tính là để thờ Trời. Dù chết yểu hay
trường thọ, vẫn xem như nhau, cứ bền chí tu tập, bình tĩnh đối với giờ sau hết,
đó là cách xác lập vững chắc Mạng do Trời ban cho:
Tồn kỳ tâm, dưỡng kỳ tánh, sở dĩ sự Thiên
giã.
Yểu thọ bất nhị, tu hân dĩ sĩ chi, sở dĩ
lập Mạng giã [19].
Làm thế nào để dưỡng tâm ? Để dưỡng tâm cần thực hiện ba điều: giảm trừ ham
muốn, dùng nhân lễ nghĩa để giữ cái Tâm
và bồi đắp tinh thần ngay thẳng.
Thứ nhất, Dưỡng tâm mạc thiện vu quả dục, kỉ vi nhân
diệc quả dục ; tuy hữu bất tồn yên giả, qua hĩ ; kĩ vi nhân diệc đa dục, tuy hữu
tồn yên giả, quả hĩ. (“Tận tâm hạ”). Nó vì mọi người mà cũng ít ham muốn,
tuy rằng có những người có hay không có chí tâm như vậy, nhưng cũng là ít ham
muốn rồi. Ít ham muốn mới có thể bảo tồn được cái tâm thiện, nhiều ham muốn thì
tất nhiên sẽ mất cái tâm thiện. Do đó, cần tận tâm tri tính một cách tự giác,
là xem xét lại mình.
Thứ hai, lấy cái
nhân ái để giữ lấy cái tâm, lấy cái lễ để giữ lấy cái tâm: “Dĩ nhân tồn tâm, dĩ
lễ tồn tâm” (Li lầu hạ). Lấy đạo đức
nhân nghĩa lễ trí để hạn chế dục vọng cầu lợi của nội tâm, đó là điểm khác biệt
giữa người quân tử với kẻ tiểu nhân.
Thứ ba là bồi dưỡng
tinh thần ngay thẳng cương trực: “Hạo nhiên chi khí”, hình thành cái ý chí kiên
định từ nhân đến nghĩa. Tinh thần thẳng thắn cương trực của lòng người do tập
trung nghĩa mà thành, do sự phối hợp ý chí tinh thần với nghĩa và đạo[20].
2. Tâm trong đạo
Phật
Có nhiều giáo
pháp và kinh tạng trong lịch sử phát triển của đạo Phật, nhưng có thể nói chữ
Tâm là điểm quy kết con đường mà Đức Phật đề nghị với chúng sinh.
Tâm là đầu mối sinh tử
Tâm là căn bản giải thoát
Tâm dẫn đầu các pháp
Tâm là họa sỹ khéo
Tâm tạo ra ba cõi
Tâm chấp ngã là chúng sinh
Tâm vô ngã là Bồ tát
Tâm ích kỷ là phàm phu
Tâm vô lượng là pháp thân
Tâm ô nhiễm là khổ đau
Tâm thanh tịnh là Niết bàn
Tâm mê là chúng sinh
Tâm giác là Phật[21].
Có bốn cái Tâm vô lượng là Tứ vô lượng tâm, còn gọi
là Tứ đẳng, Tứ Phạm hạnh hay Tứ Thiền trong
Thập nhị Thiền, đó là:
Từ vô lượng tâm : Tâm có thể đem lại niềm vui cho chúng sinh.
Bi vô lượng tâm: Tâm có thể trừ khổ cho chúng sinh
Hỉ vô lượng tâm: Tâm vui mừng khi thấy người khác khỏi khổ được sướng.
Xả vô lượng tâm: như ba Tâm trước, xả bỏ mà Tâm chẳng còn chấp trước. Hơn nữa oán thân bình đẳng, xả oán xả thân.
Bốn tâm này phổ duyên vô lượng chúng sinh, dẫn đến vô lượng phúc, nên được
gọi là vô lượng tâm[22].
Từ Bi Hỷ Xả là bốn đức tính cao thượng theo nhãn
giới Phật giáo, càng có nhiều người thực hành các nhân đức này, thì xã hội sẽ
được biến đổi, khởi đi từ thân tâm con người. Tứ vô lương tâm giúp cho con người
trở nên chí thiện, có khả năng biến đổi con người tầm thường thành hiền nhân.
Thiện ác là tại tâm, tác động của tâm trong việc hướng tà hay hướng thiện còn mạnh hơn ảnh hưởng
của kẻ thù hay của thân nhân. Hai bài kệ 42 và 43 trong thuộc kinh Pháp Cú, thuộc
Phật giáo Nam tông diễn tả tầm quan trọng của Tâm:
42. Kẻ thù
hại kẻ thù
Oan gia hại oan gia
Không bằng tâm hướng tà
Gây ác cho tự thân.
43.
Ðiều mẹ cha bà con
Không có thể làm được
Tâm hướng thiện làm được
Làm được tốt đẹp hơn[23].
Người theo Thiền tông không xa lạ với thiền ngữ của
Tổ Bồ Đề Đạt Ma: “Trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật”[24], nghĩa là
chỉ thẳng thân tâm người thấy tánh thành Phật.
Đạo Phật có rất nhiều pháp môn, nhưng dù tu tập theo pháp môn nào, thì cũng nhằm mục đích duy nhất là thanh tịnh tâm: “Tự thanh tịnh tâm ý/ Là lời chư Phật dạy”. Tu thiền là để thanh tịnh tâm, mà niệm Phật cũng để thanh tịnh tâm. Muốn cho tâm thanh tịnh thì phải diệt trừ tam độc tham, sân, si. Nếu ngồi thiền mà tâm không chuyển hóa, các phiền não không diệt trừ, tam độc không hóa giải, thì “mài đá chẳng thành gương, ngồi thiền đâu thành Phật”. Cũng vậy, miệng xưng niệm danh hiệu Phật mà tâm thì chẳng tương ứng với tâm niệm của Phật chút nào, vẫn dẫy đầy thị phi nhân ngã, thì cũng như “máy niệm Phật” mà thôi. Do đó, tu là phải tu tự cái tâm, chuyển đổi cái tâm niệm chúng sanh thành tâm niệm Phật, Thiền cũng vậy mà Tịnh cũng vậy[25].
3. Kitô giáo: Đạo Tâm
Tâm giới[26]: nơi
cư ngụ của Thiên Chúa
Nếu chỉ nhìn Kitô
giáo từ bên ngoài hoặc qua thủ tục hành chánh, một số người thường có cảm tưởng
rằng tôn giáo này là đạo của lề luật, vì ngoài 10 điều răn của Thiên Chúa và 6
điều răn Hội thánh, bộ giáo luật của Công giáo năm 1983 còn chứa đựng 1.752 khoản
luật. Mỗi một dòng tu lại có hiến pháp riêng của dòng mình bao gồm nhiều khoản
luật dành cho các tu sĩ nam nữ. Ví dụ như Hiến pháp của dòng Ngôi Lời có 735 điều
qui định ; Hiến chương chung của 7 Hội dòng Mến Thánh giá ở Sàigòn cũng gồm
174 điều khoản v.v… Nhưng thật ra, Kitô giáo không phải là đạo của lề luật, mà
là đạo của con tim, tâm đạo. Vì giới luật căn bản nhất của Kitô giáo là luật của
trái tim : Luật yêu thương. « Mười điều răn ấy tóm về hai này mà nhớ :
Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta
vậy » (Kinh mười điều răn). Thật vậy, trong Tân Ước, nếu từ ‘lề luật’ được
dùng 165 lần thì từ ngữ ‘tâm lòng’
hay ‘con tim’ được sử dụng đến 128 lần. Và cụ thể nhất, chính cách sống của
Chúa Giêsu trong 3 năm công bố Tin Mừng yêu thương đã biểu hiện trái tim của
Thiên Chúa cho nhân loại đang khao khát thương yêu.
Thật vậy, nhìn
vào cuộc đời Thầy Giêsu, chúng ta nhận ra thái độ ứng xử của Người chứng tỏ Người
không dừng lại ở diện mạo bên ngoài, mà luôn muốn đi sâu vào cõi lòng con người.
Đối diện với một Giakêu thấp bé, một người thường bị dư luận xếp vào loại gian
tham và thuộc hàng tội lỗi, Thầy Giêsu không chỉ dừng lại ở một cuộc gặp gỡ xã
giao hay một cuộc tiếp xúc qua đường, mà muốn đến nhà anh ta, nghĩa là đi vào tâm
lòng của người thu thuế này.
Nhìn thấy một góa
phụ dâng vài đồng xu vào hòm tiền của đền thờ, Đức Giêsu không dựa vào số lượng
của cải đóng góp để đánh giá người phụ nữ nghèo này, nhưng Người thấu suốt hoàn
cảnh sống của thiếu phụ kia, nên đã nhìn ra lòng quảng đại của chị.
Lòng từ tâm của Đức
Giêsu con biểu lộ cách đặc biệt đối với các tâm hồn yếu đuối lỡ lầm. Khi bao bậc
vị vọng trong xã hội Do Thái thời bấy giờ đòi ném đá người phụ nữ bị bắt quả
tang phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu đã phản ứng như thế nào ? Người giữ lặng
thinh một lúc, rồi đưa ra lời chất vấn đầy thách thức, biến những nguyên cáo
thành bị cáo: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước
đi" (Ga 8, 7). Người đọc được tà tâm của những người tố cáo và ban niềm hy
vọng đổi đời cho nữ tội nhân.
Thánh Tâm: lẽ sống
của người môn đệ
Không giống với
các tín đồ của mọi tôn giáo khác, người Kitô hữu chúng ta không chỉ là người
mang danh của đấng sáng lập đạo mà còn “mặc lấy” chính Đức Kitô và mang
con tim của Người. « Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc
về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô (Gl 3, 27). Lời thánh Phaolô khuyên các tín hữu
thành Rôma vẫn có giá trị đối với chúng ta ngày nay : « anh em hãy mặc
lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng »
(Rm 13, 14).
Lòng tôn sùng
Thánh Tâm và tôn kính Lòng thương xót Chúa là một thực hành đang phổ biến khắp
nơi trong thế giới Công giáo, thực ra đã đâm rẽ sâu trong tâm lòng nhiều thế hệ
Kitô hữu và qui chiếu về Tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu cho đến cùng, biểu
lộ qua trái tim bị đâm thâu của chính Chúa Giêsu trên thập giá. Thật ý nghĩa
khi thánh giá, biểu tượng của Kitô giáo, giống hình chữ “t”, mẫu tự khởi đầu của
các chữ “tâm”, “tim”, “tình thương” trong tiếng Việt.
Môn đệ của Đức
Giêsu là người mang con tim của Thầy, nghĩa là để cho Đức Kitô sống trong mình,
để cho Thầy yêu thương anh chị em bằng trái tim của mình. Kitô hữu đích thực là
người thực hành “tuyên ngôn” của vị tông đồ cho dân ngoại : “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà
là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào
Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20).
Đi đạo, sống đạo
là bước đi trên những nẻo đường của trái tim, sống theo tiếng gọi của con tim
Thiên Chúa, hành xử theo cái Tâm của Đức Giêsu, chứ không chiều theo trái tim
ngục tù, hạn hẹp của chúng ta. Vì tình yêu của chúng ta còn khiêm tốn, nghèo
nàn và mang nặng cảm tính, nên sống theo tiếng gọi của trái tim Chúa Giêsu
chúng ta sẽ mang lấy tâm huyết của người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến.
* * *
Giữa nhiều điểm gặp
gỡ, thiết nghĩ người Công giáo và tín đồ các tôn giáo khác tại Việt Nam có thể
dễ dàng hội ngộ với nhau nơi lòng Hiếu kính và cái Tâm. Khi đồng tâm hiệp lực
giáo dục chữ Hiếu và Tâm cho nhân sinh, đồng thời nỗ lực thực hành Hiếu và Tâm,
cộng đồng những người tin có thể góp phần đặc thù của mình trong việc biến đổi,
xây dựng và canh tân nhân tâm của con người cũng như của cộng đồng dân tộc.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 67 (Tháng 9 & 10 năm 2011)
Tài liệu tham khảo
1. Thái Lam HỒNG,
"Đối thoại trong viễn tượng đa nguyên tôn giáo", Thời sự thần học, số 21 (tháng 9/2000), tr. 7-16.
2. Trần Trọng
KIM, Nho Giáo, Quyển thượng, Bộ Giáo
dục-TT. Học Liệu Xuất bản, Sàigòn, 1971.
3. Hoành Sơn
Hoàng Sỹ QUÝ, Vấn đề đối thoại liên tôn,
Ra Khơi, Sàigòn, 1972.
4. Xem Trương Lập
VĂN (Chủ biên), TÂM, Triết học Đông
phương, Nxb KHXH, Hà Nội, 1999.
5. Nguyễn Đăng
DUY, Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở
Việt Nam, Hà Nội, 2001.
6. GHPGVN-Phân viện
Nghiên cứu Phật học, Từ điển Phật học Hán
Việt, NXB KHXH, Hà Nội, 2004.
7. HĐGMVN-Ủy Ban
Giáo Dân, Sống đạo theo cung cách Việt Nam - Tài liệu hội thảo mùa Phục Sinh 2004, NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 2004.
8. Mai Đức VINH
(Chủ biên), Văn hóa và Đức Tin, Giáo
xứ Việt Nam, Paris, 2004.
9. Đoàn Trung CÒN
(Dịch giả), Tứ Thư, NXB Thuận Hóa, Huế,
2006
10. Lm. Phêrô
Đinh Ngọc LÂM, Đối thoại liên tôn, LHNB, Tp. HCM, 2009.
[2] Tạ Thanh Minh-Khánh, “Niềm tin trong văn hóa Việt
Nam”, trong Mai Đức Vinh (Chủ biên), Văn
hóa và Đức Tin, Paris, Giáo xứ Việt Nam, 2004, tr. 24-26.
[7] Thích Viên Giác, Chữ Hiếu trong Đạo Phật qua Kinh Vu Lan và
Kinh Báo Ân Cha Mẹ, in http://www.buddhismtoday.com/viet/vulan/047-chuhieu.htm, Truy cập ngày 26.10.2020.
[8] Xem Quảng KIẾN, “Quan niệm về hiếu theo Lục độ tập kinh”, trong Nguyệt san Giác Ngộ, số 161 (8.2009), tr. 48.
[9] Alexandre de Rhodes, CATHECHISMUS pro ijs, qui volunt suscipere BAPTISMUM in octo dies
divisus (Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội, mà vào đạo
thánh đức Chúa trời), Roma, 1651, tr. 17-21 (bản dịch của Gs. Trần Văn Toàn).
[10] Placide DESEILLE, “Déification, péché et salut.
Perspective orthodoxe”, in Communio ,
n° XXI, 2 (1996), tr. 77.
[14] “Kinh thi” là một bộ sách
do Khổng Tử thu tập tổng hợp các bài thơ ca sớm nhất của Trung Quốc, được chia
thành hai quyển : thượng và hạ.
[22] GHPGVN-Phân viện Nghiên cứu
Phật học, Từ điển Phật học Hán Việt, NXB
KHXH, Hà Nội, 2004, tr. 1465.
[25] Thích Nguyên Hùng, Bồ Đề Đạt Ma Khai Thi Pháp Môn Niệm Phật, trong https://nguoiphattu.com/tu-hoc/tinh-do/3182-to-bo-de-dat-ma-khai-thi-phap-mon-niem-phat.html , Truy cập ngày 26.10.2020.
[26] Ở đây chúng
tôi dùng theo nghiã thế giới tâm linh, chứ không theo nghiã của thuật ngữ “tâm
giới” nơi Phật giáo:” giới được ngăn chặn
các tâm niệm sai trái, lệch lạc.