TỪ HANG ĐÁ MÁNG CỎ, SUY NGHĨ VỀ ƠN GỌI HÔN NHÂN KI-TÔ HỮU
Aug. Trần Cao Khải
WHĐ (16.12.2020) – Mỗi dịp lễ Giáng Sinh về, người ta nghĩ ngay đến hang đá, máng cỏ,
đèn ông sao, đèn nhấp nháy, nhạc Noel và nhiều thứ khác… Những sinh hoạt, bầu
khí và khung cảnh đặc biệt này, nên chăng, sẽ là dịp nhắc nhở tín hữu chúng ta
dừng chân, trở vào nội tâm mình để chiêm ngưỡng Mầu nhiệm Nhập Thể và Nhập Thế
của Con-Thiên-Chúa-Làm-Người. Mầu nhiệm ấy, trong âm vang Bê-lem, vọng lại cho
ta những suy tư về ý định của Thiên Chúa nơi con người, về hạnh phúc, về tình
yêu trong đời sống hôn nhân gia đình hôm nay.
I.- KỲ DIỆU THAY Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA!
Đức Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa làm người,
nhận lấy thân phận con người và nên giống người ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi.
Biến cố cực kỳ quan trọng ấy nằm trong kế hoạch cứu chuộc của Chúa Cha. Đức
Giê-su đã khởi đầu tất cả trong bình thường: Mẹ Ngài là bà Ma-ri-a, một thiếu nữ
Do Thái bé mọn, khiêm tốn, đơn sơ, chân thành. Bà đã đính hôn với ông Giu-se,
người thợ mộc bình dị, cần cù lao động (x. Lc 1, 26-27). Hai ông bà sinh sống tại
Na-gia-rét thuộc miền Ga-li-lê, trong lặng lẽ, âm thầm và ẩn dật.
Sau này, trong hành trình rao giảng Tin Mừng Nước
Thiên Chúa, Đức Giê-su cũng bị chính dân làng của Ngài coi rẻ rúng và không nhận
biết Ngài là Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa vì sự bình thường của một con người thuộc
một gia đình lao động nghèo nàn bình thường (x. Mc 6, 1-6).
Tuy nhiên, đằng sau tất cả những điều bình thường
ấy, Thiên Chúa đã thực hiện nơi những con người mà Người chọn một chương trình và kế hoạch lạ lùng, kỳ diệu.
Thiên Chúa luôn ưa thích sự “bình thường” để thực hiện những điều “vượt trên
bình thường”.
Ma-ri-a khiêm nhu, bé mọn lại được
ơn gọi làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Bà đã trở nên cao cả và là một người nữ diễm phúc
(x. Lc 1-39). Bà đã đính hôn với ông Giu-se nhưng lại vâng phục Thiên Chúa để
thụ thai mà không biết đến người nam, rồi sinh con và đặt tên con là Giê-su…(x.
Lc 1, 30-35). Ma-ri-a không thể hiểu được những gì xảy đến cho mình nhưng bà đã
vâng phục và sẵn lòng dấn thân cộng tác trong việc phục vụ kế hoạch của Thiên
Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,
xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1, 38)
Giu-se, người bạn đời của Ma-ri-a,
cũng trải nghiệm những điều tương tự. Ông im lặng trong sâu thẳm của lòng mình
để chiêm niệm thánh ý Thiên Chúa: chấp nhận Ma-ri-a mang thai do quyền năng
Chúa Thánh Thần và hạ sinh Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Ông chấp nhận chăm sóc
dưỡng dục trẻ Giê-su và lo toan việc cai quản gia đình Na-gia-rét trong vâng phục
và với tinh thần trách nhiệm cao nhất. Tình nghĩa chung thủy vợ-chồng, tình cảm
thiết thân cha-con, tấm lòng trung thành với bổn phận của Giu-se, một người
công chính đã gắn chặt ông vào chương trình của Thiên Chúa hơn là vào những dự
tính riêng tư của mình.
Hôm nay, nhìn vào hang đá máng cỏ, chúng ta cũng
sẽ có cơ hội chiêm ngắm ngay sự kỳ diệu ẩn sau những nhân vật trong gia đình
thánh ấy. Đây là tấm gương tuyệt vời nhất của mỗi gia đình Ki-tô hữu và là một
dấu chỉ rất sống động về chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa đối với tình
yêu hôn nhân và hạnh phúc gia đình Ki-tô giáo.
Mỗi cuộc hôn nhân của Ki-tô hữu, bề ngoài là
bình thường như bao cuộc hôn nhân khác trong nhân loại, nhưng bên trong, đó là một mầu nhiệm, một ơn gọi và một bí tích.
Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II trong Tông huấn
“Những bổn phận của gia đình Ki-tô hữu” đã nhấn mạnh: “Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Người, giống như họa ảnh
của Người (x.St 1-26-27). Khi vì yêu mà kêu gọi con người bước vào cuộc sống,
Người cũng mời gọi họ sống cho tình yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu (x.1Ga 4,8) và
nơi chính mình Người, Người cũng đang sống mầu nhiệm hiệp thông yêu thương giữa
các ngôi vị . Khi tạo dựng nhân tính của người nam và người nữ theo hình ảnh
Người và liên lỉ bảo toàn cho nhân tính ấy được hiện hữu, Thiên Chúa ghi khắc
vào đó ơn gọi cũng như khả năng và trách nhiệm tương ứng, mời gọi con người sống
yêu thương và hiệp thông (x. HC MV 12). Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh
của mọi người.”[1]
II.- ĐẸP THAY ƠN GỌI HÔN NHÂN KI-TÔ HỮU!
Tình yêu lứa đôi, sự kết hợp nam-nữ, nhu cầu kết
duyên trai-gái và xây dựng tổ ấm gia đình…đều mang ý nghĩa nhân bản cao quý. Đó
là chuyện bình thường của con người trong xã hội, như một quy luật cuộc sống.
Tuy nhiên, với tín hữu chúng ta thì vấn đề khác
hơn nhiều. Không ai trong chúng ta đã nghĩ rằng hôn nhân Ki-tô giáo là một mầu
nhiệm, một ơn gọi, một bí tích nếu Lời Chúa trong Thánh Kinh không mạc khải và
nếu không được tái khẳng định bởi các giáo huấn của Hội thánh.
Thánh Kinh Cựu Ước đã vén mở kế hoạch của Thiên
Chúa: “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán: Con
người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó.”
(St 2, 18) và “Bởi thế, người đàn ông lìa
cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.” (St 2,
24).
Thư Mục Vụ của HĐGMVN năm 2002 cũng đã nêu rõ: “Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ.
Cả nam và nữ đều là hình ảnh của Thiên Chúa (St 1,27) do đó tự bản chất con người
có xã hội tính, và là hình ảnh của Tình Yêu Hiệp Thông Ba Ngôi Thiên Chúa. Từ nền
tảng trên, mọi tình yêu chân thật giữa con người với con người đều hướng tới sự
hiệp thông khuôn mẫu này. Do đó, tình yêu trong hôn nhân và gia đình là tình
yêu mang lại hạnh phúc vì làm cho con người được thông phần Tình Yêu Ba Ngôi
Thiên Chúa một cách cụ thể tại trần gian…”[2]
Nhờ mạc khải của Lời Chúa và qua hướng dẫn của Hội
thánh, ta có thể khám phá ra ý nghĩa của mầu nhiệm và bí tích hôn nhân Ki-tô
giáo.
- Thiên Chúa yêu con người. Người biết những nhu cầu thầm kín, chính đáng
và sâu xa của họ và sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu ấy. Thiên Chúa đã tạo dựng
cho Adam một người bạn đời, người ấy là một người nữ tên Eva, vì người đàn ông
không thể sống một mình nhưng cần có bạn tình để trợ giúp…
- Tình yêu hôn nhân đã tạo nên một sự hiệp thông sâu xa và hoàn hảo nhất,
vì người nữ xuất sinh từ cạnh sườn của người nam và trở lại kết hợp với người ấy
để nên một với người ấy. Thiên Chúa đã muốn họ thuộc về nhau, là một nửa của
nhau, sống khắng khít với nhau trong tình thân mật của đôi bạn đời không thể
cách ly được.
ĐTC Phan-xi-cô trong Tông huấn Niềm Vui Tình Yêu
(Amoris Laetitia) đã viết: Cuộc gặp gỡ
khiến làm nguôi ngoai nỗi cô đơn của con người này làm nảy sinh sự sống mới và
tạo lập ra một gia đình. Điều có ý nghĩa là Ađam, người cũng là người đàn ông của
mọi thời và mọi nơi, cùng với vợ mình, đã khởi sự một gia đình mới. Chúa Giêsu
nói tới điều ấy khi trích dẫn câu của Sách Sáng Thế: “người đàn ông sẽ kết hợp
với vợ mình, và cả hai sẽ trở nên một thân xác” (Mt 19:5; xem St 2:24). Các hạn
từ “kết hợp” hay “bám xiết lấy” như trong nguyên bản Hípri, nói tới sự hòa hợp
sâu sắc, một sự gần gũi cả thể lý lẫn nội tâm, đến nỗi nó cũng đã được dùng để
mô tả sự kết hợp của ta với Thiên Chúa: “Linh hồn tôi bám xiết lấy Ngài”(Tv
63:9). (số 13)
- Trong hôn nhân, hai người nam-nữ sống với nhau để đem lại hạnh phúc và
thăng tiến cho nhau, đồng thời cũng để tiếp nối công trình tạo dựng của Thiên
Chúa qua việc sinh sôi nảy nở những con người mới sống động cho loài người nói
chung và cho Dân Chúa nói riêng. Mỗi gia đình là một Hội thánh tại gia, mỗi
thành viên trong gia đình là chứng tá của ơn cứu độ và tình yêu Thiên Chúa.
- Thiên Chúa cũng muốn con người, qua giao ước hôn nhân, diễn tả một cách
cụ thể mầu nhiệm tình yêu như Người đã thể hiện qua các giao ước đối với Dân
riêng của Người. Đặc biệt là giao ước hôn nhân mô phỏng tình yêu giữa Chúa
Ki-tô và Hội thánh Ngài. Thánh Phao-lô đã nói rõ thế này: “Vì lòng kính sợ Đức Ki-tô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. Người làm vợ
hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức
Ki-tô là đầu của Hội thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội thánh, thân thể của
Người. Và như Hội thánh tùng phục Đức Ki-tô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục
chồng trong mọi sự như vậy.” (Ep 5, 21-24).
Chúng ta cũng biết rằng: “Những đôi bạn cử hành hôn nhân Công giáo là những người đã đi vào trong
chính kế hoạch của lịch sử cứu độ, mà cao điểm tìm thấy trong Giao Ước Tình Yêu
của Đức Ki-tô với Hội thánh. Họ được mời gọi trở nên hình ảnh sống động của
Tình Yêu Thiên Chúa...”[3]
Như vậy, ta thấy rằng, Thiên Chúa Cha, Chúa
Giê-su Ki-tô và Hội thánh của Ngài muốn cho chúng ta xác tín rằng hôn nhân
không còn là chuyện bình thường để người ta chấp nhận nó một cách tùy tiện và
ngẫu hứng nữa. Trái lại hôn nhân trong ý định của Thiên Chúa, đã mô phỏng và hiện
đại hóa cuộc “kết hôn” giữa Thiên Chúa và con người, giữa Chúa Ki-tô và Hội
thánh. Do đó sợi dây liên kết giữa người nam và nữ đã thành hôn sẽ trở nên bền
vững, linh thiêng và hiệu lực đến cùng…
Giáo huấn của thánh Phao-lô về vấn này rõ ràng như
sau:
“Người làm
chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình
vì Hội Thánh; như vậy,
Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một
Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết
điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền.
Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là
yêu chính mình. Quả vậy,
có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân
xác mình, cũng như Đức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận
trong thân thể của Người. Sách
Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế,
người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương
một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội
Thánh. Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì
hãy kính sợ chồng.” (Ep 5, 25-33)
Ơn gọi hôn nhân Ki-tô giáo thật cao cả, nhưng
cũng rất khó khăn, nặng nề. Nếu mầu nhiệm Giáng Sinh đã vén mở những bí nhiệm của
kế hoạch lạ lùng, vĩ đại mà Thiên Chúa thực hiện nơi những con người bình thường
thì mầu nhiệm ấy cũng soi sáng cho chúng ta nhận biết rằng, nhờ bí tích hôn
nhân và qua bí tích hôn nhân, mỗi đôi vợ chồng, mỗi gia đình Ki-tô hữu cũng
đang được tham dự vào chương trình và kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa.
Công việc nào cũng có niềm vui, niềm an ủi lẫn mồ
hôi, nước mắt. Bên cạnh niềm vui của đời sống hôn nhân gia đình, chúng ta có
khá nhiều kinh nghiệm nếm trải những hy sinh vất vả, kể cả những đắng cay cơ cực.
Đó là những thử thách không thể tránh được một khi ta chấp nhận bước vào lộ
trình thực hiện thánh ý Thiên Chúa. Sứ mệnh cao cả không che lấp thực tế khó
khăn. Chúng ta hãy vững tâm sống ơn gọi đã lãnh nhận, và tin rằng: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự
đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu
gọi theo như ý Người định.” (Rm 8, 28)
Thay lời kết
Thư Mục Vụ của HĐGMVN năm 2002 đã viết: “…Dẫu cho có những bóng tối và khó khăn che lấp
đi phần nào sự cao đẹp của những giá trị hôn nhân và gia đình, nhưng các Ki-tô
hữu vẫn luôn được mời gọi vững tin vào quyền năng của Thiên Chúa để trở thành sứ
giả loan báo Tin Mừng về gia đình cho thế giới hôm nay, và để các gia đình
Ki-tô hữu trở nên tin mừng cho thiên niên kỷ thứ ba.”[4]