TINH THẦN HIỆP HÀNH NƠI SỨ VỤ LINH MỤC
LM Antôn Hà Văn Minh
WHĐ (20.4.2022) - Vào thứ Hai ngày 07/6/2021, Đức Thánh cha
Phanxicô đã ngỏ lời với một nhóm linh mục người Pháp đang làm công tác nghiên cứu
về Giáo hội tại Roma: “Hãy đặt để Thiên Chúa và giáo dân vào trung tâm điểm của
những mối bận tâm hàng ngày của các con” và
linh mục phải là “những người có khả năng biết sống, biết cười và khóc với
anh chị em giáo dân của các con, nói một cách dễ hiểu, biết giao tiếp với họ”.
Đức Thánh cha nhấn mạnh đến tinh thần hiệp thông cộng đoàn như là khí thở của đời
linh mục: “Trong tinh thần huynh đệ sống trong chân lý, trong sự chân thành của
các mối tương quan, và trong đời sống cầu nguyện, chúng ta có thể hình thành
nên một cộng đoàn, trong đó chúng ta có thể hít thở bầu không khí của niềm vui
và sự tế nhị”[1].
Và vào ngày 17/02/2022, tại điện Vatican trong bài phát biểu
khai mạc hội nghị chuyên đề về chức linh mục Đức Phanxicô đã đưa ra đề nghị
mang tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ linh mục: Sự gần gũi với Dân Chúa, một sự gần gũi, được
phong phú bởi những hình thức gần gũi khác, mời gọi và thực sự đòi hỏi chúng ta
phải bắt chước “phong cách” riêng của Chúa. Phong cách đó thể hiện sự gần gũi,
từ bi và dịu dàng, trong đó chúng ta đóng vai trò không phải là thẩm phán, mà
là những người Samaritanô nhân hậu, những người thừa nhận những vết thương của
anh chị em của chúng ta, những đau khổ thầm lặng của họ, sự từ bỏ bản thân và
hy sinh của rất nhiều người cha và người mẹ để hỗ trợ những gia đình của họ. Cần
phải nhớ rằng dân Chúa đang hy vọng tìm thấy những người chủ chăn theo phong
cách của Chúa Giêsu. Không phải “những người làm chức năng giáo sĩ” hay “những
chuyên gia tâm linh”, mà là những người mục tử đầy lòng trắc ẩn và quan tâm.[2]
Cẩm nang cho Thượng Hội đồng Giám mục thế giới về tính hiệp
hành đã chỉ rõ: “Các linh mục và phó tế
có vai trò then chốt trong việc cùng nhau cất bước hành trình giữa dân Chúa,
khi họ hiệp nhất với giám mục và phục vụ các tín hữu. Họ có thể nhân danh giám
mục thông truyền ý ngài cho các tín hữu và ngược lại họ cũng có thể thông đạt ý
của các tín hữu cho giám mục. Họ là những tác nhân hiệp thông và hiệp nhất
trong việc xây dựng Thân thể Chúa Kitô, giúp các tín hữu đồng hành với nhau,
cùng nhau tiến bước giữa lòng Hội thánh. Tương tự như vậy, các giáo sĩ là những
người loan báo về sự đổi mới, chú ý đến nhu cầu triển nở của đàn chiên họ coi
sóc, và chỉ cho thấy cách thức Chúa Thánh Thần đang mở ra những nẻo đường mới.
Cuối cùng, họ là những con người cầu nguyện, vốn là những người thúc đẩy kinh
nghiệm hiệp hành thiêng liêng thực sự, nhờ đó dân Chúa có thể chú ý hơn đến
Chúa Thánh Thần và cùng nhau lắng nghe thánh ý Thiên Chúa”[3].
1. Nền tảng của sự hiệp
hành trong sứ vụ của người linh mục: Lắng nghe tiếng Chúa
“Linh mục trước hết là thừa tác viên của Lời Chúa, được
thánh hiến và sai đi để loan báo Tin mừng Nước Trời cho mọi người, kêu gọi mọi
người vâng theo đức tin và dẫn dắt tín hữu tới việc hiểu biết và tham dự mỗi
ngày một hơn vào sự thông hiệp mầu nhiệm Thiên Chúa”[4].
Thế nhưng, trong bối cảnh xã hội hôm nay, người linh mục
luôn đứng trước một thách đố lớn lao: làm sao để có thể sống trọn căn tính linh
mục như là thừa tác viên của Lời Chúa? Thật vậy, có thể nói, chưa có thời đại
nào mà âm thanh trở nên hỗn loạn như ngày nay. Trong xã hội náo động hỗn loạn
hôm nay, người ta đang rơi vào căn bệnh “nghiền tiếng ồn”, và đôi khi họ dùng
tiếng ồn như là phương thế để khẳng định mình.[5]
Đứng trước hiện trạng đó, người linh mục phải loan báo Tin mừng
như thế nào? Phải chẳng lấy tiếng ồn để áp đảo tiếng ồn? Để có thể loan báo Lời
Chúa trong thế giới ồn ào hôm nay, trước tiên chúng ta hãy lắng nghe và suy
nghĩ về lời Đức Bênêđictô XVI nhắn nhủ qua trong Tông huấn Lời Chúa được công bố
vào ngày 11/11/2010: “Lời Chúa chỉ có thể nói và nghe trong im lặng, cả bề
ngoài lẫn bề trong. Thời đại ta không phải là thời đại người ta cổ vũ việc tĩnh
tâm; có lúc, ta có cảm tưởng người ta sợ phải tách mình, dù chỉ là giây lát, ra
khỏi các phương tiện truyền thông đại chúng. Ngày nay, vì lý do đó, điều cần
thiết là phải giáo dục dân Chúa biết giá trị của sự im lặng. Tái khám phá tính
trung tâm của Lời Thiên Chúa trong đời sống Giáo hội cũng có nghĩa là tái khám
phá cảm thức tĩnh tâm và thanh thản nội tâm. Truyền thống vĩ đại của các giáo
phụ dạy ta rằng các mầu nhiệm của Chúa Kitô đều bao gồm sự im lặng. Chỉ trong
im lặng, Lời Chúa mới tìm được nơi cư ngụ trong ta, như đã tìm được nơi Đức
Maria, người phụ nữ của Lời, nhưng một cách không thể tách biệt, cũng là người
phụ nữ của im lặng”[6]. Vâng, người linh mục
thực thi căn tính của mình như thừa tác viên Lời Chúa trước tiên phải tiếp cận
Lời Chúa trong sự thinh lặng “với một tâm hồn ngoan ngoãn và năng cầu nguyện, để
lời ấy vào sâu trong tư tưởng, trong xúc cảm của ngài và tạo ra một cái nhìn mới
ở trong ngài, tức ‘tâm trí Chúa Kitô’ (1Cor 2:16)”[7].
Lắng nghe tiếng Chúa là khởi điểm của sứ vụ linh mục mang
tính hiệp hành, Đức Phanxicô đã khẳng quyết, phải biết lắng nghe tiếng Chúa để
“hiểu thấu được sự hiện diện của Người, nhận ra đường đi và hơi thở ban sự sống
của Người”[8]. Cho nên điều cốt yếu
của đời sống linh mục chính là “ở với” và “ở lại” với Chúa Giêsu. Căn tính ấy hệ
ở “là” linh mục hơn là “làm” linh mục. Mỗi linh mục được Chúa Kitô chọn, gọi và
phong chức, do đó thuộc về Chúa Kitô và sống cho Chúa Kitô. Không có linh mục
nào ở ngoài Chúa Kitô (x. Ga 15,1-11).
Chính khi tìm lắng nghe tiếng Chúa, người linh mục đặt mình
vào một cuộc đối thoại trưởng thành với Chúa và lo lắng cho dân được trao phó
cho chính các ngài và tránh khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa là khuynh hướng nói
rằng “đây là dân của tôi”. Vâng, đó là dân của anh em nhưng “chỉ là được ủy nhiệm
thôi”, Đức Thánh cha giải thích. “Dân không phải là dân của chúng ta, họ thuộc
về Chúa”.[9]
Sự hiệp hành trong sứ vụ linh mục được thực hiện từ những cuộc
gặp gỡ với Chúa. Nói như Đức Phanxicô: “Sự thân mật với Chúa sinh ra từ lời cầu
nguyện, đời sống thiêng liêng, sự gần gũi cụ thể với Thiên Chúa qua việc lắng
nghe Lời Người, cử hành thánh lễ, thinh lặng tôn thờ Chúa Giêsu trong bí tích
Thánh thể, phó thác cho Mẹ Maria, sự đồng hành dưới sự dẫn dắt khôn ngoan của một
cha linh hướng và việc thường xuyên lãnh nhận bí tích Hòa giải… Nếu không có những
điều này ‘các hình thức gần gũi’, một linh mục chỉ là một kẻ làm thuê mệt mỏi
không được lợi ích gì với tư cách là người bạn thân thiết của Chúa”[10].
2. Ở giữa đàn chiên
Trong tập Chỉ nam linh mục 1989, Bộ Rao giảng Tin mừng đã
triển khai về tính hiệp hành trong sứ vụ linh mục:
a/ Kiến tạo sự hiệp thông cộng đoàn
“Việc hiệp thông với các tín hữu đòi hỏi các linh mục phải
coi mình như những người cùng với các tín hữu xây dựng dân Chúa, những người được
thánh hiến tận căn để lo việc phát triển cộng đoàn, những người hoạt động bằng
một đức ái mục tử đích thực: được chọn giữa loài người, nên được đặt lo việc
Thiên Chúa vì ích lợi của loài người. Do đó, các linh mục phải kiên trì cầu
nguyện cho các tín hữu của mình, hết lòng khuyên bảo họ yêu mến Thiên Chúa là
Cha chung; phải biết rõ thực trạng của họ như Chúa Kitô Mục Tử biết các chiên của
mình; phải biết sống giữa họ như những người anh em ở giữa các anh em mình phải
đồng tiến với họ trên con đường đức tin, trổi vượt và nêu gương sáng cho họ về
đời sống Kitô hữu; phải lo tránh tất cả những gì có thể gây nên gương xấu; phải
hiệp cùng cộng đoàn làm chứng xác thực về sự trung tín của người Kitô hữu để những
người ‘ở xa’ và còn chưa tin Đức Kitô nhận ra được ý nghĩa của sự trung tín đó;
phải cảnh giác đừng làm cho mình xa lạ với dân chúng do một lối sống, dù mình
không muốn, nhưng lại đặt mình vào một giai cấp xã hội khác”[11].
Tính hiệp hành nói lên Giáo hội là một cộng đoàn hiệp thông,
mọi người hiệp thông với nhau trong cùng một đức tin và một tình yêu. Vì thế sự
hiệp thông Giáo hội được thắt chặt và triển nở qua các cuộc đối thoại trong
tinh thần đức tin. Đối thoại là cách thế để chia sẻ nhằm giúp Giáo hội thi hành
đúng đắn sứ vụ loan báo của mình. Vì thế, tính hiệp hành trong sự hiệp thông
chính là mời gọi các thành phần dân Chúa dành thời gian cho việc chia sẻ. Mỗi
người được mời gọi “can đảm nói thẳng nói thật (parrhesia) để có thể phối hợp giữa tự do, sự thật và bác ái.
Qua đối thoại mỗi người có thể hiểu biết hơn”[12].
Trong cuộc đối thoại với tinh thần hiệp thông Giáo hội thì “mọi người đều có
quyền được người khác lắng nghe, cũng như mọi người đều có quyền được nói. Cuộc
đối thoại hiệp hành phụ thuộc vào sự can đảm của cả người nói lẫn người nghe.
Không phải là sửa soạn lao vào cuộc tranh luận để tranh thắng. Đúng hơn, là đón
chào những gì người khác nói như cách thế qua đó Chúa Thánh Thần có thể nói vì
lợi ích của mọi người”[13].
Nhưng làm sao để có thể lắng nghe và đón nhận những phát biểu
xem ra chói tai và khó chịu? Trước tiên, phải phân định rõ ràng đây là cuộc đối
thoại trong đức tin, bởi đức tin và vì đức tin cho nên “bước đầu tiên để lắng
nghe là giải phóng trí óc và con tim khỏi những thiên kiến và khuôn mẫu dẫn vào
đường lầm, đưa đến u mê và chia rẽ”[14],
vì thế phải can đảm đi ra khỏi “cái tôi” “bỏ đi thói ảo tưởng tự mãn”, để khiêm
cung nhận ra rằng, tất cả mọi người, giáo sĩ và giáo dân, giám mục, linh mục,
và mọi tín hữu cùng ngồi chung trong một con thuyền của Hội thánh, cùng bước đi
trên một con đường Giêsu, cho nên mỗi người trong chúng ta đều học hỏi lẫn
nhau, “đồng hành với nhau và phục vụ lẫn nhau. Chúng ta có thể xây những nhịp cầu
bắt qua những bức tường đôi khi đe dọa ngăn cách chúng ta, như tuổi tác, giới
tính, giàu nghèo, năng lực, giáo dục...”[15].
Và kế đến, mỗi người đều được mời gọi học cách lắng nghe trong sự kiên nhẫn. Đức
Phanxicô trong bài giảng thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng về tính đồng nghị đã
nói: “Chúng ta có giỏi lắng nghe không? ‘Thính giác’ của trái tim chúng ta tốt
đến mức nào? Chúng ta có cho phép mọi người bộc lộ bản thân, bước đi trong đức
tin dù họ gặp khó khăn trong cuộc sống, và trở thành một phần của đời sống cộng
đồng mà không bị cản trở, từ chối hoặc phán xét không? Học cách lắng nghe lẫn
nhau là một bài tập chậm và có lẽ mệt mỏi.... Chúng ta đừng làm cách âm trái
tim chúng ta; nhưng phải làm sao để chúng ta không bị bao vây trong những điều
chắc chắn của chúng ta. Quá thường là những điều chắc chắn của chúng ta có thể
khiến chúng ta đóng cửa. Chúng ta hãy lắng nghe lẫn nhau”[16].
Người linh mục được mời gọi xây dựng đặc tính duy nhất của
hiệp thông giữa các phần tử trong Giáo hội, đặc biệt trong cộng đồng Giáo hội địa
phương, đồng thời mở rộng hiệp thông với những ai còn ở ngoài cộng đồng Giáo hội
bằng tinh thần hăng say loan báo Tin mừng qua những phương thế và sáng kiến mục
vụ thích hợp, điều mà Đức Thánh cha Phanxicô đã chia sẻ: “Đôi khi chúng ta bị
cám dỗ để trở thành loại người Kitô hữu sống thờ ơ với các thương tích của
Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn chúng ta chạm vào sự khốn cùng của con người,
chạm vào da thịt đau khổ của người khác. Ngài hy vọng rằng chúng ta sẽ ngừng
tìm kiếm những ngóc ngách cá nhân hoặc cộng đồng, nơi che chở chúng ta khỏi ma
trận của sự bất hạnh của con người và thay vào đó, bước vào thực tế cuộc sống của
người khác và biết sức mạnh của sự dịu dàng. Bất cứ khi nào chúng ta làm như vậy,
cuộc sống của chúng ta trở nên diệu kỳ, và chúng ta trải nghiệm một cách mãnh
liệt thế nào là trở thành con người, là một phần của cộng đồng con người”[17].
b/ Mang lấy mùi chiên
Trong bài giảng thánh lễ Truyền Dầu ngày 28/3/2013, Đức
Phanxicô đã nói: các linh mục, những người chăn chiên, phải có mùi chiên. Mùi của
chiên hoà quyện vào sứ vụ của người linh mục qua sự hiện diện của người giữa
đoàn chiên để cảm nhận được nỗi thống khổ của đàn chiên, sự khát vọng, và nỗi
âu lo, niềm vui cũng như những hy vọng của đoàn chiên. Để được như thế, người
linh mục phải đi ra khỏi chính mình, nỗ lực canh tân chính mình để trở thành
“những người có khả năng biết sống, biết cười và khóc với anh chị em giáo dân,
nói một cách dễ hiểu, biết giao tiếp với họ”[18].
Khi thi hành sứ vụ của người mục tử, người linh mục “mạnh dạn
có sáng kiến, đến với người khác, tìm kiếm những người sa ngã, đứng ở các ngả
đường để đón mời những người bị gạt ra bên lề”[19],
can đảm “dấn mình vào đời sống hằng ngày của dân chúng bằng lời nói và hành động...;
đồng hành với dân chúng ở mỗi bước đi trên đường, bất kể con đường này có thể
dài hay khó đi bao nhiêu”[20].
3. Mục vụ bí tích
Như thừa tác viên bí tích, bổn phận trước tiên của các linh
mục là cung ứng một sự hiểu biết đức tin về các bí tích, đặc biệt qua việc dạy
giáo lý, cho biết các bí tích có một ý nghĩa Giáo hội và quy hướng về Thánh thể,
cho biết ý nghĩa của điều kiện căn bản cần có ở nơi người tín hữu để lãnh nhận
bí tích và để sống ơn riêng của mỗi bí tích nhờ vào chức tư tế chung của mọi
tín hữu. Như thế sẽ tránh cho họ ý tưởng sai lầm coi bí tích như một ảo thuật tự
nó phát sinh hiệu lực không liên hệ gì đến đời sống Kitô hữu.
Khi cử hành mục vụ bí tích, người linh mục thể hiện rõ nét
tính hiệp hành trong sứ vụ của mình. Vì là hiện thân của Chúa Giêsu, người linh
mục biểu tỏ tính cách của Tin mừng. “Tin mừng chứng thực cho cách thức Chúa
Giêsu thường xuyên tìm đến những người bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội
và bị lãng quên. Một đặc điểm chung trong suốt sứ vụ của Chúa Giêsu là đức tin
luôn nảy sinh khi con người được quý trọng: lời cầu xin của họ được lắng nghe,
khi gặp khó khăn họ được trợ giúp, sự quảng đại của họ được đánh giá cao, phẩm
giá của họ được Thiên Chúa nhìn nhận và được phục hồi trong cộng đồng”.
a/ Việc cử hành bí tích Thánh thể
“Tất cả các giáo sĩ với các thánh ân và đặc sủng được phú
ban và lãnh nhận qua việc truyền chức, đều có vai trò quan trọng để bảo đảm rằng
kinh nghiệm hiệp hành này là cuộc gặp gỡ đích thực với Chúa Kitô Phục Sinh nhờ
đắm mình trong cầu nguyện, được nuôi dưỡng bằng việc cử hành Thánh thể, và được
soi dẫn khi lắng nghe Lời Chúa”[21].
Chính nơi việc cử hành bí tích Thánh thể, người linh mục thực
thi tính hiệp hành Giáo hội cách cụ thể qua việc qui tụ dân Chúa, cùng nhau lắng
nghe Lời Chúa, và cùng nhau hiệp thông Thánh thể và qua đó mọi người được hiệp
nhất với nhau làm thành một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô. Vì kết hợp với
Chúa Kitô, cộng đoàn Thánh thể tiếp nối sứ vụ của Người. Qua việc cử hành Thánh
thể, người linh mục dẫn đưa các tín hữu kín múc sự sống nơi bí tích Thánh thể
như suối nguồn, và tiếp tục bước theo gót chân Chúa Giêsu trên con đường loan
báo Tin mừng, vì mục tiêu của bí tích Thánh thể là “sự hiệp thông mọi người với
Chúa Kitô và trong Người với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần” (x PO, Presbyterorum
ordinis, số 5). Khi thi hành sứ vụ mang tính hiệp hành, “các linh mục xác lập vị
trí mầu nhiệm Thánh thể ở trung tâm đời sống của mình và của cộng đoàn. Các
ngài sẽ không quên rằng chính từ cái nhìn sống động ấy là Thánh thể, các ngài mới
có thể rao giảng Lời Chúa có hiệu quả và tập hợp cộng đoàn đã được giao phó cho
các ngài. Các ngài cố gắng dẫn đưa các tín hữu đến một sự tham dự thánh lễ cách
tích cực bằng việc hiến dâng hy lễ thánh lên Chúa Cha và bằng việc kết hợp
chính đời sống của họ với hiến lễ”[22].
b/ Cử hành bí tích Hoà giải
Đức Giáo hoàng Phanxicô, trong bài dạy giáo lý về bí tích
Hoà giải, đã nói: “Trong việc cử hành bí tích thống hối, vị linh mục không chỉ
đại diện Thiên Chúa mà thôi, nhưng còn đại diện toàn thể cộng đoàn nhìn nhận
mình ở trong sự mỏng manh yếu đuối của mỗi phần tử, Giáo hội cảm động lắng nghe
sự thống hối của phần tử ấy, hòa giải với hối nhân, khích lệ và tháp tùng họ
trong hành trình hoán cải và trưởng thành về mặt con người và Kitô”[23]. Chính đây là cách
thế hiệp hành của linh mục khi cử bí tích Hoà giải: lắng nghe với tâm tình của
người mục tử, khích lệ, ủi an và nâng đỡ hối nhân và phục vụ sự tha thứ của
Thiên Chúa.
c/ Cử hành bí tích Xức dầu
Mỗi khi chúng ta cử hành bí tích này, Chúa Giêsu, trong con
người của vị linh mục, đến gần những người đau khổ và bị bệnh nặng hoặc người
già cả. “Linh mục và những người có mặt trong lúc cử hành bí tích Xức dầu đại
diện cho toàn thể cộng đồng Kitô hữu, như một thân thể kết hợp chặt chẽ chung
quanh những người đau ốm và các phần tử của gia đình họ, nuôi dưỡng đức tin và
hy vọng của họ, cùng nâng đỡ họ bằng lời cầu nguyện và tình huynh đệ nồng nàn.
Nhưng niềm an ủi lớn nhất phát sinh từ thực tại là chính Chúa Giêsu đang hiện
diện trong bí tích, là Đấng cầm tay chúng ta, vuốt ve chúng ta như Người đã làm
với những người bệnh và nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta giờ đây đang thuộc về
Người và rằng không bao giờ có gì - ngay cả sự dữ và cái chết - có thể tách
chúng ta ra khỏi Người được”[24].
4. Mục vụ tông đồ
giáo dân
Tính hiệp hành trong sứ vụ linh mục được thể hiện rõ nét khi
người linh mục đặc biệt quan tâm và cổ võ vai trò của người giáo dân trong sứ vụ
tông đồ. ‘Mục vụ đối với giáo dân trước tiên phải để ý đến tính chất giữa đời của họ. Do ơn gọi, người
giáo dân tìm kiếm Nước Thiên Chúa qua cách gánh vác những việc trần thế, họ sống
giữa đời, trong hoàn cảnh thông thường của đời sống gia đình và xã hội, nhưng họ
được Thiên Chúa gọi trở thành men trong lòng thế gian, thánh hoá thế gian nhờ
được hướng dẫn bởi tinh thần Tin mừng’[25].
“Trong phạm vi tông đồ giáo dân, các linh mục phải là người xác tín cổ võ giáo
dân, huấn luyện giáo dân bằng phương cách thích hợp, động viên họ nhiệt thành dấn
thân theo sự thúc đẩy của tinh thần Kitô giáo chân thật. Các linh mục hãy đưa
giáo dân vào cơ chế tổ chức và trao cho họ những chức vụ trong cộng đoàn phù hợp
với ơn gọi riêng và đặc sủng của họ. Các linh mục không thay thế giáo dân, mà
khích lệ họ trong các hoạt động của họ, xác tín rằng sự lớn mạnh của Giáo hội,
đặc biệt ở các xứ truyền giáo, phải xuyên qua sự hiện diện năng động của giáo
dân có tinh thần trách nhiệm thật và luôn được chuẩn bị chu đáo hơn”[26].
Công đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh về vai trò quan trọng của
người linh mục trong đời sống của Giáo hội (x. PO số 1). Quả thật người linh mục vừa là hiện thân của
Chúa Kitô, vừa là người mục tử giữa đoàn chiên. Bởi đó, khi thi hành nhiệm vụ
linh mục của mình, người linh mục luôn được mời gọi kiến tạo sự gặp gỡ, đối thoại
trong đức tin, sẵn sàng lắng nghe với tinh thần khiêm cung, và “dùng cảm
thức đức tin mà phát hiện, vui mừng tiếp nhận, và nhiệt tình phát
huy những đặc sủng đa dạng của giáo dân, từ ơn nhỏ bé nhất đến ơn
cao cả nhất” (PO số 6).
Tuy nhiên, sống trong một thời có quá nhiều thách đố, nhiều
khó khăn, nói như Đức Phanxicô: “Thời đại mà chúng ta đang sống không chỉ đòi
ta kinh nghiệm sự thay đổi, mà còn phải chấp nhận thay đổi, trong nhận thức rằng
thời đại này là một thời đại của những thay đổi mang tầm lịch sử”[27] thì việc thực thi sứ vụ mang tính hiệp hành trước tiên đòi hỏi người
linh mục phải kết hợp mật thiết với Chúa. Đây là nền tảng cho việc thi hành sứ
vụ của người linh mục, và đây cũng là phương thế duy nhất để người linh mục đạt
tới mục đích của ơn gọi mình. Quả thật, đời sống cầu nguyện là phương thế nuôi
dưỡng và là sự đỡ nâng phải kể đến việc thực hành cầu nguyện của linh mục, trước
hết là chính sự tham dự vào niềm tin và vào sự cầu nguyện của cộng đoàn, và
trong các cộng đoàn, sự cầu nguyện phải được dành một chỗ ưu tiên[28].
[2] Đức Phanxicô, Bài phát biểu khai
mạc Hội nghị chuyên đề về chức linh mục tại Vatican ngày 17/02/2022, LM
Phêrô Trần Mạnh Hùng phỏng dịch, nguồn https://www.tonggiaophanhanoi.org
[5] X. Nguyễn Vĩnh Nguyên, Lấy tiếng
ồn áp đảo tiếng ồn, trong: Theo Thời
báo Kinh tế Sài Gòn, nguồn: http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-17.
[9]https://www.vatican.va/content/francesco/en/speeches/2019/march/documents/papa-francesco_20190307_liturgiapenitenziale-presbiteriroma.html
[10] Đức Phanxicô, Bài phát biểu khai mạc Hội nghị chuyên đề về chức linh mục
tại Vatican ngày 17/02/2022
[16] Đức Thánh cha Phanxicô, Bài giảng
trong thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng về tính hiệp hành ngày 10/10/2021 tại
Roma
[17] Đức Phanxicô, Bài phát biểu khai mạc Hội nghị chuyên đề về chức linh mục
tại Vatican ngày 17/02/2022
[18] Đức Phanxicô, Bài nói chuyện với các linh mục người Pháp đang nghiên cứu
tại học viện “San Luigi Dei Francesi, ngày 07/6/2021, nguồn: www.vatican.va/content/francesco/de/speeches/2021/june/documents/papa-francesco_20210607_sacerdoti-sanluigi-deifrancesi.html
[27] Đức Phanxicô, Bài phát biểu khai mạc hội nghị chuyên đề về chức linh mục
tại Vatican ngày 17/02/2022
[28] X. Thánh Bộ Rao giảng Tin mừng cho các Dân tộc, Chỉ nam linh mục 1989, số 24