THẤT ĐẠO HIỆP HÀNH
(Bảy “con đường hiệp hành” trong áp dụng mục vụ)
Linh mục Giuse Trương Đình Hiền
Ngày 06.12.2021
5.
Hiệp hành kiểu “Mùa Xuân Ả Rập” hay
“Phong trào Dù vàng”: Hiệp hành trong mục vụ truyền thông |
Dẫn nhập
Ngày 10.10.2021, tại Giáo đô Rôma, Giáo Hội hoàn vũ đã long
trọng khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục thường kỳ lần thứ XVI mà chủ đề được chọn
làm tâm điểm để nghị trình trong suốt tiến trình Thượng Hội Đồng (tháng 10/2021
– tháng 10/2023) đó là: HƯỚNG TỚI MỘT GIÁO HỘI HIỆP HÀNH: HIỆP THÔNG, THAM GIA
VÀ SỨ VỤ[1].
Trước hết, khái niệm “hiệp
hành” (synodality, synodalité) không phải là mới trong kho tàng tư tưởng
và ngôn ngữ của Hội Thánh. Riêng tại Việt Nam, để dịch nghĩa từ “Synodality”
(Anh ngữ), “Synodalité” (Pháp ngữ) sang tiếng Việt thì có một số người với một
số từ được chọn dịch như:
- Dịch giả Vũ Văn An:
dùng từ “Đồng Nghị”[2]
hoặc “Đồng Bộ”[3].
- Dịch giả Lê Công Đức:
dùng từ “Liên Hợp”[4].
- Một dịch giả ẩn
danh: dùng từ “Hội Đồng”[5].
Riêng từ “Hiệp Hành” được HĐGMVN sử dụng lần
đầu tiên trong bản dịch Việt ngữ tông huấn Christus Vivit (Chúa Kitô đang sống)
với bản dịch của Đức Giám Mục Luy Nguyễn Anh Tuấn và nhóm hiệu đính HĐGMVN: Một mục vụ mang tính hiệp hành (synodalité): Mục vụ giới trẻ phải mang tính “hiệp hành” (synodale), nghĩa là có khả
năng liên kết trong “một hành trình chung”, điều đó bao hàm “sự quý trọng các đặc
sủng mà Chúa Thánh Thần ban cho mỗi thành viên trong Giáo Hội theo ơn gọi và
vai trò của mình, đồng thời sẽ thúc đẩy mọi thành viên tham gia gánh vác trách
nhiệm. […] (CKTĐS 206). Và hôm nay, từ “Hiệp Hành” được sử dụng cách chính
thức và thường xuyên trong các văn bản liên quan đến Thượng Hội Đồng Giám Mục lần
thứ XVI: “Hướng tới một Hội Thánh hiệp hành”.
Thế nhưng, bài viết nầy không nhằm dừng lại ở “khái niệm”
hay “từ ngữ”; bởi vì cái thói “sính chữ
nghĩa, bắt bẻ ngôn từ, chẻ sợi tóc ra làm tư…” có thể khiến chúng ta, Giáo
Hội chúng ta… “chết lâm sàng trên cái mớ
mỹ từ” đó mà không có được một hành động cụ thể hay một kết quả mục vụ thực
tiễn nào ! Và đây chính là điều được Thượng Hội Đồng lưu ý ngay từ đầu: “Hãy nhớ rằng mục đích của Thượng Hội Đồng,
và do đó của cuộc thỉnh ý này, không nhằm tạo ra các tài liệu, mà là “để gieo mầm
ước mơ, rút ra các lời tiên tri và thị kiến, cho phép hy vọng nảy nở, khơi dậy
niềm tin, băng bó các vết thương, cùng nhau đan kết các mối tương quan, đánh thức
bình minh hy vọng, học hỏi lẫn nhau và mang lại một khả năng sáng tạo giúp khai
mở trí tuệ, sưởi ấm trái tim, tiếp thêm sức mạnh cho đôi tay” (TLCB 32).
Và sau đây là một số đề nghị như những “con đường hiệp
hành”, những giải pháp mục vụ mang chiều kích “hiệp hành” để áp dụng cụ thể vào
nhịp sống dân Chúa hôm nay:
1. Hiệp hành kiểu “Giang Nam thất quái”[6] trong “Anh hùng xạ điêu” của Kim Dung: Hiệp
hành trong mục vụ giáo dục – đào tạo
Ai đã từng đọc truyện kiếm hiệp của tác giả Kim Dung, đặc biệt,
cuốn trường thiên tiểu thuyết “Anh hùng xạ điêu”, đều không quên nhóm hành hiệp
giang hồ xuất hiện ngay chương đầu của câu chuyện: Giang Nam thất quái hay Giang Nam thất hiệp. Đó là nhóm bảy vị hiệp
lữ giang hồ ở Giang Nam gồm: Đại hiệp Phi thiên biển đức Kha Trấn Ác bị mù, nhị
hiệp Diệu thủ thư sinh Chu Thông, tam hiệp Mã vương thần Hàn Bảo Câu, tứ hiệp
Nam sơn tiểu tử Nam Hi Nhân, ngũ hiệp Tiểu di đà Trương A Sinh, lục hiệp Náo thị
hiệp ẩn Toàn Kim Phát, thất (nữ) hiệp Việt
nữ kiếm Hàn Tiểu Oanh.
Bảy nhân vật nầy đã chơi thân với nhau từ thời niên thiếu;
và khi trưởng thành đã kết nghĩa thâm giao bạn hữu, sống chết có nhau cùng hành
hiệp trượng nghĩa. Do một cuộc “ân oán giang hồ”, nhóm Giang Nam thất quái cùng
với đạo sĩ Khưu Xứ Cơ thuộc phái Toàn Chân, giao kết với nhau: mỗi bên sẽ tìm
cho được hai bà mẹ đang mang thai thất lạc: Lý Bình vợ của Quách Thiếu Thiên và
Bao Tích Nhược vợ của Dương Thiết Tâm, cả hai mất tích sau vụ cả hai nhà bị kiếp
nạn, hai phu quân, một chết một bị thương nặng và cũng mất tích. Giang Nam thất
quái tìm Lý Bình để bảo bọc dạy dỗ cho Quách Tĩnh (con của Quách Thiếu Thiên)
và Khưu Xứ Cơ tìm Bao Tích Nhược và dạy dỗ cho Dương Khang (con của Dương Thiết
Tâm).
Cuối cùng, Giang Nam thất hiệp đã tìm được mẹ con Quách Tỉnh
tận miền Mông Cổ xa xôi và đã dày công suốt 18 năm trường để đào tạo cho Quách
Tĩnh, không những võ công mà còn dạy chữ “Lễ”, tức cách ứng xử “làm người”, người
quân tử, người trượng nghĩa. Chính nhờ “Bảy
Vị Sư phụ” đạo đức, tận tâm, hết tình hết nghĩa nầy, Quách Tĩnh sau 18 năm,
đã trở nên một thanh niên trưởng thành với đầy đủ nhân cách, phẩm hạnh cùng với
bản lãnh võ công cao cường…
Trong khi đó, đạo sĩ Khưu Xứ Cơ, cũng tìm gặp được mẹ con
Dương Khang, nhưng trớ trêu lại ở nơi cung đình xa hoa phú quý của người Kim,
đang là nước địch thù của dân Tống. Và vì chỉ có thể dạy võ công mà không có cơ
hội để “dạy làm người” dạy “Lễ”, nên sau nầy Dương Khang đã trở nên một con người
bại hoại và đã bị chết thảm do chính những hành vi thương luân bại lý của mình.
Ngẫm chuyện: với 7 vị sư phụ, đồng tâm hiệp lực, để suốt 18
năm dạy chỉ 1 người cả văn lẫn võ, cả “ngón nghề để phòng thân” và “nghệ thuật
để làm người”: đó không là một bài học đắt giá cho “mục vụ giáo dục-đào tạo” của
chúng ta hôm nay sao ! Liệu các ban Giám Đốc các chủng viện, các ban Đào tạo của
các Dòng tu có trở thành một khối “huynh đệ cốt tử”, đồng tâm hiệp lực, đồng
chí tận cùng như “Giang Nam thất hiệp” để kiên trì dài lâu đào tạo ra những con
người tốt đẹp, trượng nghĩa, như Quách Tĩnh ! Trong chương trình “mục vụ hiệp
hành” của Hội Thánh hôm nay, thiết tưởng phải tập chú ngày đến chiều kích hiệp
hành trong công tác giáo dục. Chúng ta không thể có những mục tử, những linh mục,
tu sĩ có phẩm chất “hiệp hành” nếu họ được đào tạo bởi những nhóm người chia rẽ,
cá nhân, thiếu hiệp nhất… Đó là chưa kể, khi họ phải chứng kiến chính những nhà
đào tạo gây gương mù gương xấu về sự hiệp nhất và đức bác ái yêu thương của Tin
Mừng ! Dĩ nhiên, khi nói đến “mục vụ giáo dục – đào tạo”, không chỉ dừng lại ở
môi trường chủng viện hay Dòng tu, mà liên quan đến mọi công cuộc giáo dục và
đào tạo nhân sự của toàn thể Dân Chúa, của Giáo phận, giáo xứ…
Đây phải chăng cũng chính là nội dung ý nghĩa của “câu hỏi
thứ 10” trong “Thập Vấn” mà tài liệu Vademecum đã gợi ý: “Cộng đồng Giáo Hội chúng ta đào
tạo những con người ngày càng có khả năng “cùng nhau cất bước hành trình”, lắng
nghe nhau, dấn thân vào sứ vụ và tham gia đối thoại như thế nào? Chúng ta đào tạo
thế nào để thúc đẩy sự phân định và thực thi quyền bính theo phương cách hiệp
hành?” (VADEMECUM 5.3/10).
2. Hiệp hành kiểu “Bóng đá tổng lực” hay “Cơn lốc
màu da cam” của Hà Lan[7]: Hiệp hành trong Mục vụ chỉ huy và điều phối
nhân sự
Một trong những ấn tượng sâu sắc nhất trong lịch sử các kỳ
“thế vận bóng đá” (world cup), đó là hình ảnh “Cơn lốc màu da cam” và cuộc trình diễn ngoạn mục và đầy thuyết phục
của chiến thuật “bóng đá tổng lực” được đội bóng của huấn luyện viên Rinus
Michels, đội Hà Lan, thể hiện trên sân vận động Munchen Tây Đức trong trận
chung kết mùa World cup 1974.
Gần như cho tới trước năm 1974, chiến thuật của hầu hết các
đội bóng trên thế giới đều áp dụng, đó là “phân chia đội hình với các trách nhiệm
cụ thể”: tiền đạo, tiền vệ, hậu vệ, thủ môn… ai lo phận nấy. Công việc ghi bàn
để đem về chiến thắng quyết định hầu hết là dành
cho các tiền đạo giỏi; và vì thế, những vận động viên nầy thường “tả xung hữu
đột” gần như đơn độc trước hàng phòng ngự của đối phương…
Nhưng trong trận chung kết World cup 1974 thì khán giả thế
giới đã mãn nhãn đến sững sờ, khi trên “thảm cỏ xanh của sân vận động thế vận
Munchen (Olympiastation, Munchen)” bị tràn ngập, bao phủ bởi một “khối vàng
cam” khi lên, khi xuống, khi tản ra, khi xúm lại, như một “cơn lốc” hoà quyện;
đến độ, không ai có thể đoán được cầu thủ nào là tiền đạo, tiền vệ, trung quân,
hậu vệ ! Bởi vì, trừ thủ môn, cả 10 cầu thủ trên sân đều liên tục hoán chuyển
cho nhau ở bất cứ vị trí nào, nhiệm vụ nào. Và đó chính là “bóng đá tổng lực” (Total Football), nghĩa là một chiến thuật đá
bóng dựa trên lý thuyết căn bản: mọi cầu
thủ đều tham gia như nhau, hết mình ở bất cứ vị trí nào, công cũng như thủ, được
liên tục hoán chuyển, để làm nên một “sức mạnh tổng hợp”, toàn đội, chứ không
chú trọng hoặc ỷ lại vào một ít “siêu sao”[8].
Đó không là một cách diễn tả rõ ràng và cụ thể cho ý nghĩa
“Hiệp Hành” đó sao ! Trong Giáo Hội chúng ta hôm nay, việc phối trí trách nhiệm,
phân chia công tác… rất nhiều khi vẫn còn dựa trên “chiến thuật cũ”: mánh mung,
đơn lẻ; kẻ làm chết xác, người nghỉ tà tà; đôi khi, linh mục không tín nhiệm đủ
giáo dân, chuyện gì cũng “bao cân”, hoặc quanh quẩn chỉ tin cẩn một số người
thân tín, đến độ làm giáo dân nản lòng, hết muốn cộng tác… ; và thế là, cả cộng
đoàn đi xuống, mệt mỏi, bệ rạc, phân rẽ…
Nhưng cuối cùng, điều quan trọng mà chúng ta không được quên
về “Cơn lốc mà da cam”, đó là vai trò của huấn luyện viên Rinus Michels[9]. Vâng, người huấn luyện, người
điều phối, người thổi hơi, người quy tụ, gợi hứng… để tất cả các vận động viên
đều “hiệp hành” thi đấu và dành chiến thắng cuối cùng, người đó thật là quan trọng.
Chúng ta đang là những ai và áp dụng “chiến thuật” nào trên
các “vận động trường mục vụ” của Hội Thánh ? Và đây cũng chính là “câu hỏi thứ
8” trong “Thập Vấn” mà tài liệu VADEMECUM gợi ý: “Làm thế nào để cộng đoàn Giáo hội
chúng ta nhận ra các mục tiêu phải theo đuổi, con đường để đạt tới và những bước
đi phải thực hiện? Cách hành xử uy quyền hay cai quản trong Giáo hội địa phương
của chúng ta thế nào? Việc thực hiện cách làm việc theo nhóm và tinh thần đồng
trách nhiệm thì thế nào? Việc đánh giá được chỉ đạo thế nào và ai chỉ đạo? Các
thừa tác vụ và trách nhiệm của giáo dân được khích lệ/xúc tiến ra sao? Chúng ta đã có những kinh nghiệm hiệp hành
sinh hoa kết quả/hiệu quả ở cấp địa phương hay chưa? Các đội ngũ hiệp hành hoạt
động ra sao ở cấp Giáo hội địa phương (các hội đồng mục vụ giáo xứ, hội đồng
linh mục, v.v…)? Chúng ta có thể đẩy mạnh sự tiếp cận mang tính hiệp hành nhiều
hơn trong sự tham gia và lãnh đạo của chúng ta thế nào?” (VADEMECUM 5.3/8).
3. Hiệp hành kiểu “Tiếng trống Drum Tao” của người
Nhật, hay Ban nhạc SIERVAS của các nữ tu Dòng Servants tại Peru[10]: Hiệp hành trong mục vụ văn hóa – nghệ thuật
Tại các sân khấu và tụ điểm âm nhạc, người trẻ luôn chiếm đa
số về lượng khán giả cũng như thành phần nghệ sĩ biểu diễn. Nhiều ban nhạc, ca
sĩ trẻ rất thành công và thành danh. Trong số đó, có một “đội trống” mang tên
“Drum Tao” của Nhật Bản đã khiến cả thế giới ngả nón thán phục mỗi khi chiêm
ngưỡng họ trình diễn.
Ngoài tính nghệ thuật biểu diễn trống độc đáo, đầy sáng tạo,
nghệ thuật, linh động, mang “dáng đứng” mạnh mẽ, oai hùng, xuất thần… theo
phong cách “Samurai” của xứ sở “Mặt trời”, điều đáng nói chính là “môi trường sống và huấn luyện” của ban
trống nầy.
Thật vậy, ban trống này, từ khi được thành lập năm 1993, đã
chọn một ngôi làng gần vườn quốc gia Aso-Kuju trên đảo Kyushu và đặt tên cho
nơi đây là “Grandioso” (Một từ ngữ âm nhạc có nghĩa hùng tráng), để toàn bộ
hàng trăm thành viên cùng sống chung, tập luyện, sáng tác, dựng bài… theo một kỷ
luật khe khắt, chẳng khác nào một “tu viện”[11].
Sống chung, đam mê chung, tập luyện chung và với một kỷ luật
chung… phải chăng nhờ cái tính “chung” đặc biệt đó mà đội trống Drum Tao đã tồn
tại gần 2 thập kỷ và vẫn còn là một đội trống có sức hấp dẫn nhất trên thế giới
hôm nay.
Nhân tiện nói đến đội trống “Drum Tao” của Nhật Bản, chúng
ta đừng quên một Ban nhạc đặc biệt đã gây ấn tượng lớn trong cuộc Đại Hội Quốc
Tế Giới Trẻ lần thứ 34 tại Panama: Đó là ban nhạc Rock and Roll mang tên
SIERVAS (Tiếng Tây ban Nha có nghĩa là các tôi tớ) của các nữ tu Dòng Servants
of the Plan of God, được thành lập năm 2014 tại Lima, bao gồm 11 nữ tu tại Peru và các nữ tu khác đến
từ 5 quốc gia: Nhật Bản, Ecuador, Trung Quốc, Costa Rica và Chí Lợi. Ban nhạc
“nữ tu quốc tế” nầy đã đi trình diễn tại 11 quốc gia và luôn trung thành với
tôn chỉ: dùng âm nhạc để rao giảng Tin mừng[12].
Trong lãnh vực văn hóa nghệ thuật, có lẽ mảng “âm nhạc” luôn
là môi trường hấp dẫn và quy tụ nhiều người. Giới nghệ sĩ Công Giáo đang dấn
thân trong môi trường nầy cũng không hề nhỏ. Tuy nhiên, tại Việt Nam chúng ta,
hầu hết những đối tượng nầy đều hoạt động riêng lẻ, cá nhân, tự phát tự diệt…;
và nhất là thiếu một năng lực “làm chứng”, có khi lại là “phản chứng”. Cần phải
có kế hoạch “hiệp hành” để quy tụ, hướng dẫn, đầu tư… hầu tạo điều kiện để họ
được nâng đỡ, hiểu biết sứ mệnh và có được môi trường thuận lợi để trở thành những
khí cụ hữu hiệu trong công cuộc loan báo Tin Mừng.
Đó là chưa kể các loại hình văn hóa khác: văn học, văn chương, kịch nghệ, điện ảnh, hội
họa, kiến trúc, điêu khắc…, trong đó có những bộ môn mà đã có thời Hội
Thánh từng là kẻ “cầm chịch”, đi đầu; nhưng hôm nay, gần như Giáo Hội đang chào
thua, tụt hậu… Việc thực thi sứ mệnh loan báo Tin Mừng chỉ có thể thành công
khi chúng ta vận dụng thành công các loại hình văn hóa nghệ thuật đi vào đời sống
đức tin. Trong “nghệ thuật đồng hành của Giáo Hội” không một “bộ môn nào”, một
“đối tượng nào”, một ‘lãnh vực nào” bị bỏ lại bên lề. Đó là điều được Thượng Hội
Đồng nêu lên nơi “câu hỏi thứ nhất” trong “Thập Vấn” của VADEMECUM: “Trong
Giáo Hội địa phương của chúng ta, ai là những người “cùng nhau cất bước hành
trình”? Ai là những người dường như xa hơn? Là những người đồng hành, chúng ta
được kêu gọi để thăng tiến như thế nào? Các nhóm và cá nhân nào vẫn còn ở bên lề?” (VADEMECUM 5.3/1).
4. Hiệp hành kiểu “lắng nghe tiếng khóc” hay “em ngã
chị nâng” của Thế vận hội khuyết tật Seattle 2018: Hiệp hành khi biết lắng nghe
và dìu nhau tiến bước[13]
Trong lịch sử thi đấu của các đại hội Olympic thế giới cũng
như khu vực, đặc biệt, thế vận hội dành cho những người khuyết tật (Paralympic
Games)[14], có một kỳ “thế vận hội đặc
biệt” được tổ chức tại Seattle, tiểu bang Washington, Hoa Kỳ năm 2018, đã để lại
trong lòng khán giả thế giới một ấn tượng sâu sắc, cảm động và đầy tính nhân
văn. Và đây là câu chuyện cảm động đó:
“Tại Thế Vận Hội đặc
biệt Seattle (dành cho những người tàn tật) có 9 vận động viên đều bị tổn thương
về thể chất hoặc tinh thần, cùng tập trung trước vạch xuất phát để tham dự cuộc
thi chạy đua 100m. Khi cờ hiệu phất lên, tất cả đều lao đi với quyết tâm chiến
thắng. Trừ một cậu bé. Cậu cứ bị vấp té liên tục ngay sát vạch xuất phát. Đầu gối
của cậu đập mạnh xuống đường, da của cậu bị trầy xước, rớm máu. Và cậu bật
khóc. Khi tám người kia nghe tiếng khóc,
giảm tốc độ và ngoái lại nhìn. Rồi, họ quay trở lại. Tất cả, không trừ một ai!
Một cô gái bị hội chứng Down dịu dàng cúi xuống hôn cậu bé: “Như thế này, em sẽ
thấy tốt hơn”. Cả 7 người còn lại cùng ngồi xuống quanh cậu bé, ánh mắt lộ rõ sự
lo lắng. Một lúc, cô gái cất tiếng hỏi tiếp: “Em đã thấy đỡ hơn chưa?”. Cậu bé
đưa tay lau nước mắt, mỉm cười gật đầu. Cả
chín người cùng đứng dậy, họ khoác tay nhau cùng sánh bước về vạch đích.”[15].
Vâng, biết “lắng nghe” và không để ai bị bỏ lại đằng sau, tất
cả cùng dìu nhau để cùng về đích, đó lại không phải là thể hiện sự “hiệp hành”
đúng nghĩa sao ! Có lẽ đây là điều mà Thượng Hội Đồng đang ưu tiên lưu ý qua những
diễn ngữ: “Chúng ta là dấu chỉ cho một Hội Thánh lắng nghe và lữ hành”, “Vượt khỏi
tai họa giáo sĩ trị”, “Chữa trị virus tự mãn”, (VADEMECUM 2.3), “Cám
dỗ chỉ lắng nghe những thành phần hoạt động trong Giáo Hội” (VADEMECUM 2.4/9)….
Chắc chắn, khi đề cập đến những “tiêu cực” đó, Giáo Hội đã cảm
nhận từ những kinh nghiệm đau thương của chính mình, của những cộng đoàn Kitô hữu
trong Hội Thánh. Thật vậy, chúng ta không chối cãi, ở giữa lòng Giáo Hội vẫn
còn nhiều cộng đoàn, Hội Dòng… mà ở đó thói “cha chú, cửa quyền, độc tài, thiên
vị, kiêu căng…” nơi những người lãnh đạo (cha xứ, Bề trên Dòng, Tu sĩ phụ trách
cộng đoàn…) vẫn đang hiện hữu và trở thành những cái “ách” nặng nề đè nặng trên
đôi vai của nhiều anh chị em tín hữu, các tu sĩ…
Chính vì thế, “Lắng nghe” chính là một trong những “từ khóa”
của Thượng Hội Đồng; và có thể nói được, nội dung ý nghĩa đó được tập họp nơi “câu hỏi thứ hai” trong “THẬP VẤN” của
VADEMECUM: “Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta qua những tiếng nói mà đôi khi chúng ta
không nhận ra như thế nào? Giáo dân, đặc biệt là phụ nữ và giới trẻ, được lắng
nghe ra sao? Điều gì làm chúng ta dễ lắng nghe hoặc ngăn cản chúng ta lắng
nghe? Chúng ta lắng nghe những người ở vùng ngoại biên như thế nào? Những đóng
góp của các nam nữ tu sĩ được đón nhận thế nào? Khả năng lắng nghe của chúng ta
có những hạn chế nào, đặc biệt là lắng nghe những người có quan điểm khác với
chúng ta? Nơi chốn nào dành cho tiếng nói của những người thiểu số, đặc biệt những
người trải qua cảnh đói nghèo, ở bên lề hay bị xã hội loại trừ?”
(VADEMECUM 5.3/2).
5. Hiệp hành kiểu
“Mùa Xuân Ả Rập” hay “Phong trào Dù vàng”: Hiệp hành trong mục vụ truyền
thông[16]
Có một “sân chơi” có thể làm nên lịch sử của một dân tộc,
khai sinh một hệ thống chính trị mới, và phần nào tương đồng như một cuộc cách
mạng. Danh từ chuyên môn mà các nhà “chấp pháp” và bình luận xã hội thời nay đặt
tên cho loại “sân chơi” này đó là “bất
tuân dân sự” (civil disobedience)[17]
phi bạo động, mà thể hiện cụ thể đó là biểu tình, xuống đường, tập họp
mít-ting…
Vâng, cuộc “bất tuân dân sự” khởi đầu ngày 17.12.2010 với cuộc
tự thiêu của chàng thanh niên da màu Tunisia Mohamed Bouazizi, kéo theo hàng
triệu bạn trẻ xuống đường thông qua các mạng xã hội Facebook, Twitter… đã làm
nên cuộc “cách mạng hoa lài” (Revolution
of Jasmine)[18], lần lượt cuốn phăng các chế
độ độc tài chỉ trong vòng 1 năm (2011):
Tunisia vào ngày 14 tháng 1, Ai Cập vào ngày 11 tháng 2 và
Libya vào ngày 20 tháng 10. Và đó chỉ là ba biến động chính trị lớn nhất của
thế giới Ả Rập, chưa kể những cuộc “bất tuân dân sự” rầm rộ khác cũng tại các nước
Ả Rập như Yemen, Jordan, Algérie, Mauritanie, Ả Rập Xê út, Oman, Sudan, Syria,
Iraq, Maroc…, đến đổi thế giới đã dùng chung một cụm từ để chỉ sự kiện đáng lưu
ý nầy vào thời điểm đó: “Mùa Xuân Ả Rập”
(Arab Spring)[19].
Từ “Mùa Xuân Á Rập” đầy biến động, những người trẻ Á Châu tiếp
nối các bạn trẻ Ả Rập đã làm dậy lên một cuộc “bất tuân dân sự” khác để đòi quyền
tự chủ ở “trung tâm tài chánh” của thế giới là thành phố Hồng Kông, một cựu thuộc
địa của người Anh, vừa được trao lại cho Trung Quốc lục địa với hiệp ước “Nhất
Quốc lưỡng chế” (Một quốc gia hai chế độ) vào ngày 1.7.1997.
Cũng thông qua mạng xã hội, những người trẻ Hồng Kông đã làm
cả thế giới ngạc nhiên khi thể hiện cuộc “bất tuân dân sự” với số tham gia đông
chưa từng thấy nhưng diễn ra trong hoà bình, trật tự, sạch sẽ, văn minh…mà hầu
như chưa tìm thấy nơi đâu trên thế giới.
Vâng, “phong trào Dù vàng” (Yellow umbrella movement) của
người trẻ Hồng Kông năm 20[20] hay cuộc xuống đường của gần
2 triệu người “mặc áo thun đen” trong ngày 16.06.2019 để phản đối “Luật Dẫn Độ”[21], thực ra, không được điều
hành, chỉ đạo trực tiếp và cụ thể bởi một lãnh tụ nào, đảng phái nào… mà gần
như, các bạn trẻ đã cùng sẻ chia, liên lạc, phối kết hành động và tự nguyện phục
vụ thông
qua phương tiện kỹ thuật truyền thông, mạng xã hội, một “phương tiện” với
ích lợi vô biên nhưng cũng không thiếu những mặt tiêu cực.
Sở dĩ nhắc đến “sân chơi” đặc biệt của giới trẻ: “Bất tuân
dân sự” và ảnh hưởng của “quyền lực thứ 5” (Kỹ thuật truyền thông - Mạng
xã hội) là muốn nhắm đến chiều kích hiệp hành thông qua phương tiện
truyền thông hiện đại. Vâng, nếu không có smartphone, iphone, ipad, internet,
facebook, twitter, youtube, Google… thì làm sao các bạn trẻ làm nỗi cuộc “cách
mạng hoa lài” ở Ả Rập hay phong trào “Dù vàng”, “áo đen” trong trật tự, sạch sẽ…
ở Hồng Kông ? Ngày nay, quả thật, nói tới chiến lược hiệp hành trong sinh hoạt
mục vụ, đặc biệt, mục vụ giới trẻ, mà không “đá đến” “thế giới kỹ thuật số, mạng
xã hội”… thì e rằng, chúng ta đã quá tụt hậu nếu không nói là “lạc dòng”, chẳng
giống ai ! Dĩ nhiên cần phải “gạn đục khơi trong” và định hướng sử dụng; nhưng
không phải vì thế mà coi “mạng xã hội là kẻ thù nguy hiểm” để cấm ngăn, hoặc chỉ
nhìn khía cạnh tiêu cực để bài bác (giới trẻ lên mạng chỉ là để câu “like”, câu
“view”, sống ảo…)[22] thì cũng không là giải pháp
tối ưu.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong tông huấn Christus Vivit đã
dành nguyên 5 số (86-90) với chuyên mục “Thế giới kỹ thuật số” để nhắc lại các
điểm nhấn của chuyên đề nầy trong “Văn kiện
kết thúc Thượng Hội đồng Giám mục XV”[23].
Và đây cũng là điều có liên quan đến “câu hỏi thứ 3” trong “THẬP VẤN” mà tài liệu
VADEMECUM đã khơi gợi trong tiến trình Hiệp hành của Thượng Hội Đồng: “Trong
Giáo Hội địa phương và trong xã hội chúng ta, điều gì tạo điều kiện hay điều gì
cản trở việc nói ra cách can đảm, thẳng thắn và có trách nhiệm? Khi nào và cách
nào để chúng ta nói lên được những gì quan trọng đối với chúng ta? Mối tương
quan với hệ thống truyền thông địa phương (không chỉ với truyền thông Công
Giáo) thì thế nào? Ai nói thay cho cộng đồng Kitô hữu và họ được chọn thế nào?” (VADEMECUM 5.3/3).
6. Hiệp hành kiểu “Dân Làng Hồ” của các thừa sai truyền giáo cho anh em dân tộc Tây
nguyên: Hiệp hành trong mục vụ truyền
giáo
Trong lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, có một khúc quanh
quan trọng không thể bỏ qua hay xem thường đó là “công cuộc mở đạo lên Tây
Nguyên thời Đức Cha Stêphanô Cuénot Thể (1802-1861). Sách “Giáo phận Qui Nhơn
qua dòng thời gian” đã tóm tắt công cuộc truyền giáo đầy gian nan khốn khó của
các thừa sai bằng những dòng sau: “Các thừa
sai sống giữa các anh em dân tộc, giảng dạy và chia sẻ cuộc sống thiếu thốn khổ
cực của họ”[24].
Tuy nhiên, để hiểu hết sự khó khăn, tăm tối, thử thách, khổ đau, nguy hiểm…cùng
những phương cách loan báo Tin Mừng đầy hiệu quả, mà các vị thừa sai tiên khởi
đã kinh qua thì chúng ta phải đọc quyển nhật ký truyền giáo “Dân Làng Hồ” của thừa sai Dourisboure. Ở
đây, chỉ xin đơn cử một trích đoạn ngắn: “Giữa
muôn ngàn thử thách ấy, chúng tôi vẫn sung sướng khi nghĩ rằng chúng tôi có mặt
ở nơi đây là do Thánh ý của Chúa nhân lành. Điều đó nâng đỡ lòng can đảm nơi
chúng tôi và chúng tôi tìm thấy niềm an ủi khi so sánh hoàn cảnh của mình với
hoàn cảnh của Chúa Giêsu trong chuồng bò hôi hám. Mỗi người chúng tôi thường nằm
xoài người trên chiếc chiếu manh trải ở bốn góc xung quanh bếp lửa giữa lều. Những
ai lên cơn sốt thì cố mà chống chọi với nó, những ai vừa nguôi cơn sốt thì cầu
nguyện, cười đùa, hát thánh vịnh, trò chuyện, hoặc hút thuốc. Ban ngày, ai được
cơn sốt cho tạm nghỉ thì vào rừng kiếm măng, hái rau, bứt lá cây, rễ cỏ, bất cứ
thứ gì miễn là ăn được, đem về nấu trong nồi đất để ăn với cơm, vốn là thực phẩm
duy nhất của chúng tôi. Có một hôm trúng mánh lớn: một thanh niên người Kinh
trong đoàn bắt được một con cá to bằng con cá trích ở suối, đây quả là một sự
kiện. Cha Combes, với tư cách là Bề trên, chia con cá thành bốn phần bằng nhau
và mỗi người trịnh trọng đặt khúc cá trên tô cơm của mình. Trái lại, cũng có
đôi lần chúng tôi phải ăn chay hoàn toàn vì mọi người đều đau một lượt, không
có ai còn sức để thổi cơm…”[25].
Chúng ta biết, nội hàm của khái niệm “Hiệp Hành” như Giáo Hội
cắt nghĩa, bao gồm ba tác động: Hiệp
thông, Tham gia và Sứ vụ. Cách đây gần 200 năm, khi các thừa sai đi mở đạo
cho những người anh em dân tộc, chắc chắn các ngài chưa có được trong tay “tài
liệu chuẩn bị” hay cẩm nang “Vademecum” để được hướng dẫn những “nguyên tắc hiệp
hành” như chúng ta hôm nay. Nhưng trong cách ứng xử mục vụ và nỗ lực truyền
giáo, quả thật, các ngài đã thực thi nguyên tắc nầy cách trọn hảo: đồng hành với
dân, sống với dân, đồng cam cộng khổ với dân, để dân chung chia trách nhiệm, cộng
tác… Đó không là cách thực thi “câu hỏi thứ 5” trong “THẬP VẤN” của VADEMECUM
đó sao: “Vì tất cả chúng ta đều là các môn đệ truyền giáo, mọi người đã được rửa
tội được mời gọi tham gia vào sứ vụ này của Hội thánh thế nào? Điều gì cản trở
những người đã được rửa tội không tích cực tham gia sứ vụ này? Những lãnh vực
nào của sứ vụ mà chúng ta đang bỏ mặc? Cộng đoàn hỗ trợ ra sao cho những thành
viên của mình tham gia phục vụ xã hội theo những cách thức khác nhau (công tác
xã hội và hoạt động chính trị, nghiên cứu khoa học, giáo dục, cổ võ công bằng
xã hội, bảo vệ quyền con người, chăm sóc môi trường, v.v…)? Hội thánh đã giúp
những thành viên này thế nào để họ phục vụ xã hội theo cách thức truyền giáo? Sự
phân định những chọn lựa truyền giáo được thực hiện thế nào và bởi ai?” (VADEMECUM 5.3/5).
7. Hiệp hành kiểu “dâng Thánh lễ ở chùa” như linh mục
Piô Ngô Phúc Hậu: Hiệp hành trong Đối thoại liên tôn và mục vụ Đại kết
Có thể liên quan đến “hiệp hành” qua câu chuyện sau: Trong “Nhật Ký Truyền giáo” của linh mục Piô
Ngô Phúc Hậu có câu chuyện nầy:
“Núi Sam, … 1969
Mình cùng với lớp đệ tứ
lên cắm trại ở Núi Sam. Núi Sam vừa hùng vĩ vừa huyền bí. Thầy trò leo trèo thỏa
thích. Chụp hình lia lịa, và viếng Chùa. Ni sư thì hiền như cây cỏ, học trò
mình thì nghịch như ma. Chùa chiền đang yên tĩnh bỗng rộn lên như hội chợ. Các
ni sư không giận hờn, không xua đuổi. Dường như các ngài thương mến học trò của
mình hơn cả chính mình. Các ngài mỉm cười độ lượng trước những trò chơi quỷ
quái của chúng. Chùa chiền là thế : thiên nhiên yên tĩnh; tâm hồn yên tĩnh.
Đăng sơn chán thì hạ sơn. Hạ sơn để dâng thánh lễ. Dâng thánh lễ ở đâu ? Mình
vô chính điện.
– Thưa Đại đức, trong
chùa có chỗ nào thuận tiện, Đại đức cho tôi mượn chừng nửa giờ để tôi dâng
thánh lễ được không ?
– Ở đây thì không tiện.
Ở ngoài cổng có một phòng khách rộng lắm, linh mục có thể ở đó và dâng lễ tự
nhiên. Chùa cho mượn bàn để làm bàn thờ. Đèn của chùa, hoa của chùa, chuông của
chùa, chỉ có mình là của Chúa.
Lần đầu tiên trong đời,
mình dâng thánh lễ trong khuôn viên nhà chùa. Chúa ngự ở đây và chắc chắn Chúa
yêu thương nơi này. Từ phòng khách mình giang tay cầu nguyện, mắt nhìn lên cao
nhưng vẫn lo ra nhìn về chính điện. Ở đó tượng Phật to lớn ngồi thiền giữa rừng
hương nhang, yên tĩnh, thân thương”[26].
Qua câu chuyện này, chúng ta có thể nói, dấu chỉ của “hiệp
hành” vẫn sáng lên, vẫn sống động giữa lòng Hội Thánh qua bao nhiêu cách ứng xử
mục vụ của các linh mục, tu sĩ và bao nhiêu tín hữu âm thầm khác, đặc biệt
trong lãnh vực “Đại Kết”. Dẫu biết rằng, đó đây vẫn còn có những Kitô hữu, những
linh mục… mang tâm trạng hẹp hòi đố kỵ đối với những người anh em khác tôn giáo
cùng với tín ngưỡng của họ. Chính thái độ đó đã gây ra nhiều bức xúc, tự ái cho
nhiều người lương, người Phật tử; đồng thời, tạo nên những bức tường ngăn cách,
đố kỵ. Thực thi hiệp hành chính là cùng nhau nỗ lực thực hiện sứ mệnh “Đại Kết”,
một chiều kích không thể thiếu trong đời sống đức tin của Dân Chúa. Đây cũng
chính là “câu hỏi thứ 7” trong “THẬP VẤN” mà Vademecum đã nêu bật: “Cộng
đoàn Giáo hội chúng ta có những mối tương quan nào với các thành viên của các
truyền thống và tông phái Kitô giáo khác? Chúng ta chia sẻ điều gì và cùng đi với
nhau như thế nào? Chúng ta rút ra được những hoa trái nào từ việc cùng nhau bước
đi? Đâu là những khó khăn? Làm thế nào để chúng ta có thể cùng nhau đi bước tiếp
theo tiến về phía trước?” (VADEMECUM 5.3/7).
Kết luận
“Hiệp Hành” là câu chuyện dài và rộng để toàn Dân Chúa kể
cho nhau nghe và cùng nhau thể hiện trong những ngày này cũng như trong tương
lai. Có người cho rằng, với ý nghĩa và mục tiêu trọng đại đã được gợi hứng từ
Công Đồng Vatican II, hy vọng “tiến trình Hiệp Hành” của Thượng Hội Đồng Giám Mục
lần thứ XVI nầy sẽ như là một “Vatican III” để một lần nữa canh tân và củng cố
Giáo Hội. Đây không là “câu chuyện thời sự” vụt đến rồi vụt đi như một “biến cố
mục vụ” bình thường hay bất thường, mà là một “tiến trình thiêng liêng” dành
cho toàn Dân Chúa để sống và thể hiện niềm tin, để canh tân và hoán cải, để xây
dựng và lên đường…, như cách kiến giải của Vademecum: “Trước hết và trên hết, tiến trình hiệp hành là một tiến trình thiêng
liêng. Đây không phải là chuyện cứ máy móc thu thập dữ liệu hay tổ chức hàng loạt
những cuộc hội họp và thảo luận. Mục đích của việc lắng nghe mang tính chất hiệp
hành là biện phân, vì thế đòi hỏi chúng ta phải học biết và sử dụng nghệ thuật
biện phân cá nhân và cộng đoàn. Chúng ta lắng nghe lẫn nhau, lắng nghe truyền
thống đức tin của chúng ta và lắng nghe những dấu chỉ thời đại để nhận biết những
gì Chúa đang nói với chúng ta. Đức Giáo Hoàng Phanxicô mô tả hai mục đích tương
thuộc của tiến trình lắng nghe là: “Lắng nghe Thiên Chúa, để cùng với Ngài
chúng ta có thể nghe thấy tiếng kêu của dân Ngài; lắng nghe dân Ngài cho đến
khi chúng ta hòa hợp với ý muốn mà Thiên Chúa kêu gọi chúng ta đón nhận ý muốn
đó” (VADEMECUM 2.2).
Ước mong “Thất đạo Hiệp
hành” sẽ là một que củi nhỏ để “bếp lửa
hiệp hành” cháy lên.
[1] Tiếng Anh: For a Synodal Church: Communion, Participation, and Mission; tiếng Pháp:
Pour une Église synodale: Communion, Participation et Mission
[2] UỶ BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ (INTERNATIONAL THEOLOGICAL
COMMISSION), Vũ Văn An dịch, Tính Đồng Nghị trong Đời sống và Sứ mệnh của Giáo
Hội (Synodality in the Life and Mission of the Church), website http://ghhv.quetroi.net/60VUVANAN/TinhDongNghiTrongDoiSongVaSuMenhCuaGiaoHoi.pdf,
đăng tháng 11.2019.
[3] TÀI LIỆU LÀM VIỆC (INSTRUMENTUM LABORIS) của THĐGM
XV, Vũ Văn An dịch, website http://www.giaoly.org/vn/tai-lie%cc%a3u-lam-vie%cc%a3c-thuo%cc%a3ng-ho%cc%a3i-dong-ve-gioi-tre%cc%89/,
đăng ngày 02.01.2019, Số 140: “Hành trình đồng bộ, vốn là một “con đường chúng
ta cùng đi với nhau”, bao gồm một lời mời khẩn cấp để tái khám phá sự phong phú
trong căn tính “dân Chúa”, vốn là thuật ngữ để định nghĩa Giáo Hội như dấu chỉ
có tính tiên tri về sự hiệp thông trong một thế giới thường bị chia rẽ và bất
hòa xé nát”.
[4] ĐGH PHANXICÔ, Đức Kitô Hằng Sống (Christus Vivit),
Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng, Bản dịch của lm. Lê Công Đức, pss, nxb Đồng Nai
2019, tr. 136.
[5] BRUNO LEPEU, Un Moment Mep, Để tỏ lòng tri ân, ôn lại kỷ niệm, hướng về
tương lai. Sài Gòn, 25-26.6.2019, Tính Hội Đồng trong truyền giáo: một phong
cách truyền giáo tại Châu Á, tr. 92.
[8] Xem thêm một số bài viết về “Bóng đá tổng lực” (hoặc
“tổng hợp”) của các tác giả với các đường link sau:
- TRẦN LONG, Top 5 lối chơi
đã trở thành di sản của bóng đá thế giới wesite https://babil.info/top-5-loi-choi-da-tro-thanh-di-san-cua-bong-da-the-gioi/
- KINH THI, World Cup 1974:
"Cơn lốc màu da cam" làm say đắm lòng người, website
http://bongdaplus.vn/tin-bai/65/81840/world-cup-1974-con-loc-mau-da-cam-lam-say-dam-long-nguoi.bdplus
- MINH TÀI, Bóng đá tổng lực:
Lịch sử ra đời và cách vận hành, website https://spiderum.com/bai-dang/GOC-CHIEN-THUAT-BONG-DA-TONG-LUC-LICH-SU-RA-DOI-VA-CACH-VAN-HANH-fc8
[9] WIKIPEDIA, “Marinus ("Rinus") Jacobus
Hendricus Michels (9 tháng 2 năm 1928 – 3 tháng 3 năm 2005) là một cầu thủ
và huấn luyện viên người Hà Lan. Ông cống hiến cả sự nghiệp của mình ở câu
lạc bộ Ajax Amsterdam, và sau đó là huấn luyện viên của
câu lạc bộ này. Ông cũng là thành viên của Hà Lan. Ông cũng từng có thời
gian làm huấn luyện viên cho đội tuyển quốc gia. Ông nổi tiếng với thành tích
huấn luyện của mình, cùng Ajax Amsterdam và giành cúp vô địch Tây Ban Nha với FC
Barcelona. Ông cùng đội tuyển Hà Lan đạt Á quân World Cup
1974 và vô địch Euro 1988. Ông được coi là người phát minh ra lối
chơi bóng đá tổng lực vào thập niên 1970 chính điều đó đã
khiến FIFA bầu ông là huấn luyện viên xuất sắc nhất thế kỉ 20 vào năm
1999 và tờ France Football năm 2019 bầu chọn là Huấn luyện viên xuất sắc nhất lịch
sử”, website https://vi.wikipedia.org/wiki/Rinus_Michels
[11] NGỌC HÀ, Trí thức trẻ, website http://cafebiz.vn/co-gi-o-ngoi-lang-nhat-ban-noi-ti-le-choi-con-kho-nhan-hon-ca-dh-harvard-ren-luyen-khac-kho-nhu-samurai-tat-ca-de-giu-hon-cho-tieng-trong-thieng-lieng-nay-20190322082636054.chn
[17] WIKIPEDIA, Bất tuân dân sự, website
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A5t_tu%C3%A2n_d%C3%A2n_s%E1%BB%B1_(Henry_David_Thoreau)
[18] LÝ THÁI HÙNG, Lòng dân và cuộc cách mạng hoa lài ở
Tunisia, website https://viettan.org/long-dan-va-cuoc-cach-mang-hoa-lai-tai-tunisia/
[19] WIKIPEDIA, Mùa xuân Ả rập, website
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%B9a_xu%C3%A2n_%E1%BA%A2_R%E1%BA%ADp
[20] WIKIPEDIA, Biểu tình tại Hồng Kông 2014, website
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%83u_t%C3%ACnh_t%E1%BA%A1i_H%E1%BB%93ng_K%C3%B4ng_2014
[22] Huấn từ của Chủ chăn giáo phận trong cuộc gặp mặt Giới
trẻ Phát Diệm lần thứ IV, 10/7/2019. Nguồn:
[24] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn
qua dòng thời gian, nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2017, tr. 208-210.
[25] P. DOURISBOURE, nguyên tác “Les sauvages Bahnars”, Paris 1929, Dân Làng Hồ, bản
dịch Tòa Giám Mục Kontum, nxb Đà Nẵng 2008, tr. 52-53.
[26] LM. PIO NGÔ PHÚC HẬU, Nhật ký truyền giáo, Website https://gpcantho.com/nhat-ky-truyen-giao-lm-pio-ngo-phuc-hau/#_Toc214885920