THANH THIẾU NIÊN NGHĨ GÌ VỀ GIÁO HỘI?
Matthew Buscarino,
một học sinh trung học
ở Millington, New Jersey, Hoa kỳ
WHĐ (05.11.2022) - Chủ nghĩa thế
tục gia tăng trong giới trẻ Mỹ là điều
chẳng có gì phải giấu giếm. Một cuộc khảo sát năm 2019 của Trung tâm
Nghiên cứu Pew về thanh thiếu Mỹ từ 13 đến 17 tuổi cho thấy chỉ 50% tin rằng
tôn giáo là một phần quan trọng trong cuộc sống của họ, trái ngược với 73% cha
mẹ của họ. Quan tâm đến xu hướng
này, Hội đồng Giám mục Công
giáo Hoa Kỳ (the United
States Conference of Catholic Bishops – USCCB) đã công bố trên trang web của USCCB một bài báo có tiêu đề “Đương đầu với chủ nghĩa thế tục ngày nay”
(Confronting
Secularism Today) của
Linh mục Robert Spitzer, SJ. Trong bài viết, tác giả đã trình bày 4 nguyên nhân dẫn đến xu hướng này:
- Sự mâu thuẫn về
nhận thức giữa Thiên Chúa và khoa học.
- Thiếu bằng chứng về Thiên Chúa từ khoa học và logic.
- Niềm tin ngầm vào chủ nghĩa duy vật.
- Sự hoài nghi về tính lịch sử và thần tính của Đức Giêsu.
Mặc dù tất cả những yếu tố này thực
sự có thể khiến một số người trẻ từ bỏ đức tin, nhưng tôi cảm thấy danh sách
này chưa đủ. Cuối cùng, một cuộc khảo sát tương tự của Pew cho thấy khoảng
85% thanh thiếu niên tin vào một quyền lực cao hơn. Là một người Công giáo 17 tuổi, tôi biết nhiều người ở
độ tuổi của tôi đang từ bỏ Giáo hội và
đức tin của họ. Tôi đã nói chuyện với một số người để hiểu lý do tại sao. (Do
tính chất cá nhân, nên tôi đã
sử dụng những tên giả, trong các chia sẻ của họ.)
Đối với nhiều bạn đồng trang lứa của tôi, Giáo hội thể chế bị coi là cổ hủ và mục nát bởi lòng tham, nạn ấu dâm, và định kiến. Họ đổ những điều sai phạm này lên vai những vị mục tử của Giáo hội. Ngoài ra, nhiều người cũng cảm thấy bất mãn cá nhân đối với Giáo hội. Trong
khi những câu trả lời mà bạn bè tôi đưa ra không hoàn toàn đúng, một chủ đề phổ biến đã nổi lên: Vấn đề thịnh hành nhất đang làm gia tăng khoảng
cách giữa người trẻ và Giáo hội chính
là thể chế của Giáo hội.
Những vết thương và nỗi đau
Phong thái và sự nhấn mạnh của huấn giáo,
đặc biệt là để chuẩn bị cho việc
lãnh các bí tích, có thể có tác động thực sự đến cách người trẻ nhìn nhận
về Giáo hội nói chung. Một trong những
người bạn của tôi, Jo, đã nói về một bài giảng về sự tiết dục và phò sự sống mà cô ấy buộc phải tham dự để chuẩn bị cho Bí tích Thêm
sức, một bài giảng mà cô ấy cảm thấy rất khó chịu. Cô có cảm giác là những
người thuyết trình không có chỗ cho những câu hỏi chân thành từ những người nghi ngờ giáo huấn của
Giáo hội và tập trung quá nhiều vào vấn đề ngượng ngùng. Jo nói với tôi rằng, cô ấy e rằng mọi người sẽ cho là cô ấy sẽ giống như vậy khi thảo luận về
chính trị hoặc niềm tin cá nhân dựa trên sự xác nhận về tôn giáo của
cô ấy. Jo cho biết rằng, “Tôi
chỉ nói với mọi người rằng tôi
là một Kitô hữu, nhưng tôi sẽ không nói tôi là người Công giáo”.
Ý tưởng rằng ai đó có thể bị Giáo
hội từ chối vì Giáo hội có thể khó để nắm bắt. Một
trong những người tôi đã nói chuyện với là bạn của tôi tên là Dominic, một người có đức tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và
đi lễ vào mỗi Chúa nhật. Khi tôi hỏi anh ấy có nghĩ rằng Giáo hội đang xua đuổi mọi người không, anh ấy nói
với tôi, “Tôi nghĩ tin vào Thiên Chúa trong thế kỷ XXI là không thực tế, bởi
vì mọi người muốn tin vào những gì họ nhìn thấy, chứ không phải điều gì đó chỉ
cần có đức tin… Họ không quen với ý tưởng rằng thứ gì đó không thể nhìn thấy có
thể là có thật”. Câu trả lời
của Dominic cũng gây tiếng vang mạnh mẽ với niềm tin rằng mọi người đang rời bỏ
Giáo hội vì cảm thức về chủ nghĩa vật chất ngày càng tăng và cảm
giác rằng Thiên Chúa không có chỗ trong cuộc sống hàng ngày.
Một người bạn khác quyết định bỏ
đạo vì nhận thức được sự xa cách giữa
họ và Thiên Chúa. James, người lớn lên trong đạo Công giáo và tham dự Thánh lễ
vào mỗi Chúa nhật từ khi còn nhỏ, hiện là một người theo thuyết bất khả tri.
Trong khi chuẩn bị thêm sức,
anh ấy bắt đầu cảm thấy rằng việc dựa vào một vị Thiên Chúa vô hình để nâng đỡ
anh ấy trong thời điểm khó khăn thì chưa đủ. Chứng kiến những cái chết đau
thương kéo dài của người dì và chú của mình, vốn đều là những người
rất sùng đạo, cũng khiến anh ấy thất vọng.
James đã suy tư về trải nghiệm này khi nói, "Tôi đoán điều có thể khiến
tôi trở lại đạo chính là điều
khiến tôi nhận ra được Thiên Chúa có thể làm gì với những
người tốt lành như vậy, những
người cũng tin tưởng vào Ngài". Hiện nay, James đã bỏ
Giáo hội, và bỏ phần lớn đức
tin của anh ấy. James nói rằng anh ấy chỉ nuôi dưỡng ý tưởng về Thiên Chúa hiện hữu khi một người nào đó mà anh biết là có đạo đang trải qua thử thách đau buồn hoặc
đau đớn. Trong những tình huống đó, anh nói rằng anh cầu nguyện cho người đó nếu
có một vị Thiên Chúa đang lắng nghe.
Đương đầu với xu hướng thế tục
Anh bạn Andrew của tôi là một người
vô thần, dù được nuôi dưỡng bởi cha
mẹ Công giáo nhưng anh
hiếm khi tham dự Thánh lễ. Từ khi biết
anh, tôi đã nghe anh nói về tư tưởng của anh về tôn giáo
như một thể chế vô dụng đặt
ra những quy tắc thừa thãi.
Anh nói rằng anh không chống đối Giáo
hội; thay vào đó, anh chỉ đơn giản là cảm thấy không muốn đi theo. Anh cũng nói rằng việc ít tiếp xúc với
tôn giáo đã khiến anh thắc mắc về giá
trị của đạo.
Đối với Andrew, khái niệm về đức
tin tự nó là một thách đố. Và thực sự, 4 lý do của Cha Spitzer cũng có thể áp dụng trong trường hợp của
Andrew, vì anh tin rằng khoa học và
Thiên Chúa mâu thuẫn với nhau, và có
rất ít hoặc không có bằng chứng khoa học đáng giá nào về một vị sáng tạo. Andrew không phản đối việc đi lễ, nhưng không cho mình là tuýp người sẽ
đến nhà thờ. Anh nói với tôi,
“Có lẽ nếu có cơ hội, tôi sẽ sẵn sàng cho việc đó. Nhưng hiện tại, tôi thấy chưa thực
sự có lý do để tham dự Thánh lễ
hoặc đến nhà thờ thường xuyên".
Mặc dù phương pháp tiếp cận trí
tuệ có thể giải đáp một số vấn nạn mà những người bạn có khuynh
hướng thế tục của tôi đưa ra—
chẳng hạn như vấn nạn của Andrew về Thiên Chúa liên
quan đến khoa học và vấn nạn của
James về sự đau khổ — tôi tin rằng các vị mục tử Giáo hội cũng cần
tiếp cận vấn đề từ một góc độ khác.
Các vị mục tử cần phải tính đến thực tế là nhiều
người ở độ tuổi của tôi không cảm thấy rằng họ cần thể chế Giáo hội để giúp họ có cuộc sống hạnh phúc, trọn vẹn về mặt tâm linh. Jo kể cho tôi nghe là cô ấy thực hành cầu nguyện và thiền định
thay vì tham dự Thánh lễ trong thời kỳ đại dịch ra sao, và cô ấy cảm thấy được kết nối với Thiên Chúa nhiều hơn
trong thời kỳ đó so với khi tham dự Thánh lễ như thế nào. Jo nói rằng,
“Tôi bắt đầu tự hỏi liệu mình có thể theo đạo mà không cần liên kết với thể chế hay không. Và giờ đây, tôi nói có, tôi có thể, và
tôi làm điều đó”.
Còn James thì vẫn không chắc
chắn về sự hiện hữu của Thiên
Chúa, nhưng anh cho biết anh
rất có thể sẽ nuôi dạy con cái theo đạo
Công giáo, chủ yếu là vì sự đề cao
luân lý và giáo huấn tốt lành của đạo. Anh nói rằng việc anh từng là thành phần của một
gia đình Công giáo cũng sẽ ảnh hưởng đến quyết định của anh về việc nuôi dạy
con cái trong Giáo hội. Nhưng hiện tại,
anh cảm thấy thoải mái với niềm tin và ý nghĩ
của mình về Thiên Chúa. Anh vẫn suy ngẫm về đức tin của mình hàng ngày, anh nói, “Tôi suy nghĩ về niềm tin của mình và tôi nghi ngờ
đức tin của mình. Tôi muốn nói rằng điều này xảy ra hàng ngày… và thực, với tôi, việc nghi ngờ về đức tin là
một điều lành mạnh”.
Cách hành động quan trọng nhất đối
với các vị mục tử Giáo hội -những người hy vọng sẽ có thêm nhiều người trẻ kết nối với Giáo hội- có lẽ là tiếp cận với những người trẻ có đức tin, nhưng không cảm thấy
như Giáo hội dành cho họ. Để thu hút
thế hệ trẻ, những người trẻ đó cần cảm thấy được chào đón, yêu thương và chấp
nhận. Giáo hội của chúng ta là nơi
nương tựa dành cho những người
tội lỗi, không phải là một câu lạc bộ cho những người công chính. Giáo hội phải
thích ứng với một thế hệ kỹ thuật số am hiểu, và có chính kiến hơn, bởi vì
mỗi khi Giáo hội xảy ra chuyện lộn
xộn, thế giới sẽ chú ý đến.
Giáo hội không thể tồn tại nếu không
có người trẻ, nhưng, như những người
bạn của tôi sẽ nói với bạn, nhiều người vẫn đang
tồn tại mà không có Giáo hội.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: americamagazine.org (31. 10. 2022)