THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

THẦN HỌC VỀ THÂN XÁC
TÌNH YÊU PHÀM NHÂN TRONG KẾ HOẠCH THẦN LINH
Sự cứu chuộc thân xác và tính bí tích của hôn nhân trong các huấn giáo ngày thứ Tư (1979-1984)

Chuyển ngữ: Giám mục Louis Nguyễn Anh Tuấn

WHĐ (13.03.2024)Tác phẩm “Tình yêu phàm nhân trong kế hoạch thần linh” là một Thần học về Thân xác của Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II. Ngài đã nói “con người trở thành ‘hình ảnh và họa ảnh’ của Thiên Chúa không chỉ bởi nhân tính của mình nhưng còn nhờ sự hiệp thông các ngôi vị giữa người nam và người nữ ngay từ thuở ban đầu”. Một tiếp cận mới thuyết phục về vấn đề tính dục con người và đạo đức tính dục. Có người đã nói đức Gioan-Phaolô II là nhà cách mạng tính dục lảm đảo lại cuộc “cách mạng tình dục” thế kỉ vừa qua, đổi hướng qui nó về Nguồn và Cùng đích thật của nó.

Xin được gửi đến quý độc giả bản dịch Việt ngữ của Đức Giám mục Louis Nguyễn Anh Tuấn về tác phẩm này.

* * *

PHẦN CUỐI:
TÌNH YÊU VÀ SỰ PHONG NHIÊU


CXIV - KHÔNG THỂ TÁCH BIỆT CỨU CÁNH HỢP NHẤT YÊU THƯƠNG VÀ SINH SẢN TRONG HÀNH VI VỢ CHỒNG

CXV - CHUẨN MỰC CỦA «HUMANAE VITAE» ĐƯỢC RÚT RA TỪ LUẬT TỰ NHIÊN.. 3

CXVI - THÔNG ĐIỆP «HUMANAE VITAE» GIẢI ĐÁP CHO NHỮNG CÂU HỎI CỦA CON NGƯỜI NGÀY NAY. 6

CXVII - LÀM CHA LÀM MẸ CÓ TRÁCH NHIỆM DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA «HUMANAE VITAE». 8

CXVIII - XÁC NHẬN LẦN NỮA TÍNH CHẤT BẤT HỢP PHÁP CỦA VIỆC PHÁ THAI, NGỪA THAI VÀ TRIỆT SẢN TRỰC TIẾP. 11

CXIX - XÁC NHẬN LẠI ĐẠO LÍ CỐT YẾU CỦA HỘI THÁNH VỀ VIỆC TRUYỀN SINH.. 13

CXX - ĐIỀU HÒA SINH SẢN LÀ HOA QUẢ CỦA TÌNH YÊU THANH KHIẾT VỢ CHỒNG.. 15

CXXI - «PHƯƠNG PHÁP TỰ NHIÊN» KHÔNG THỂ TÁCH BIỆT VỚI PHẠM VI ĐẠO ĐỨC.. 18

CXXII - LÀM CHA LÀM MẸ CÓ TRÁCH NHIỆM LÀ THÀNH PHẦN CỦA TOÀN THỂ LINH ĐẠO HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH.. 21

CXXIII - TÌNH YÊU GẮN LIỀN VỚI ĐỨC KHIẾT TỊNH BIỂU LỘ QUA SỰ TIẾT DỤC.. 23

CXXIV - TIẾT DỤC BẢO VỆ PHẨM GIÁ CỦA HÀNH VI VỢ CHỒNG.. 25

CXXV - NHÂN ĐỨC TIẾT ĐỘ GẮN LIỀN VỚI TOÀN THỂ LINH ĐẠO HÔN NHÂN.. 28

CXXVI - ĐỨC TIẾT ĐỘ PHÁT TRIỂN SỰ HIỆP THÔNG NGÔI VỊ GIỮA NGƯỜI NAM VÀ NGƯỜI NỮ.. 31

CXXVII - ĐIỀU HÒA SINH SẢN CHÂN CHÍNH LÀ THÀNH PHẦN CỦA LINH ĐẠO HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH.. 32

CXXVIII - TÔN TRỌNG CÔNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA LÀ NGUỒN MẠCH CỦA LINH ĐẠO HÔN NHÂN.. 35

CXXIX - GIẢI ĐÁP NHỮNG CÂU HỎI VỀ HÔN NHÂN VÀ SINH SẢN THUỘC PHẠM VI KINH THÁNH – THẦN HỌC



CXIV - KHÔNG THỂ TÁCH BIỆT CỨU CÁNH HỢP NHẤT YÊU THƯƠNG VÀ SINH SẢN TRONG HÀNH VI VỢ CHỒNG

(Ngày 11 tháng 7 năm 1984)

1. Những suy tư của chúng ta cho đến nay hướng về tình yêu của con người trong kế hoạch của Thiên Chúa, cách nào đó, vẫn chưa hoàn tất, nếu như chúng ta không thử xem xét áp dụng cụ thể vào lãnh vực luân lí hôn nhân và gia đình. Chúng ta muốn hoàn tất bước sau cùng này, nó sẽ dẫn ta đến đoạn kết của con đường ta đi cho tới nay đã khá dài, dựa theo một nguồn Huấn Quyền quan trọng công bố gần đây: Thông điệp «Humanae Vitae» của đức Giáo hoàng Phaolô VI công bố vào tháng Bảy năm 1968. Chúng ta sẽ đọc lại văn kiện rất ý nghĩa này dưới ánh sáng của những kết quả chúng ta đã đạt được khi khảo sát ý định nguyên thủy của Thiên Chúa và lời của Đức Kitô nói về điều đó.

2. «Hội Thánh dạy rằng bất cứ hành vi vợ chồng nào tự nó cũng phải mở ra với sự truyền sinh ...»[1]. «Đạo lí đó, đã được Huấn Quyền nêu lên nhiều lần, dựa trên sự kết nối không thể tách rời mà Thiên Chúa đã muốn và con người không thể tự ý cắt đứt, giữa hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng: kết hợp trong yêu thương và sinh sản»[2].

3. Những xem xét của tôi sau đây sẽ liên hệ đặc biệt đến đoạn Thông điệp «Humanae Vitae» nói về «hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng» và về «mối kết nối không thể tách lìa» của chúng. Tôi không có ý đưa ra chú giải toàn thể Thông điệp, nhưng thực ra chỉ muốn minh họa và đào sâu một đoạn văn. Từ quan điểm của đạo lí luân lí của tài liệu trích dẫn ở đây, đoạn văn này có một ý nghĩa trung tâm. Đồng thời đó là một đoạn văn nối kết chặt chẽ với những suy tư trước đây của chúng ta về hôn nhân trên bình diện dấu chỉ (bí tích).

Vì đó là một đoạn văn trung tâm như đã nói, nên rõ ràng là nó được đưa rất sâu vào trong toàn thể cấu trúc của văn kiện: do đó khi phân tích nó ta phải hướng đến các thành tố khác của cấu trúc văn bản, cho dẫu ta không có ý định chú giải toàn thể văn kiện.

4. Trong khi suy tư về dấu chỉ bí tích, nhiều lần chúng ta đã nói rằng nó dựa trên nền tảng «ngôn ngữ thân xác» được đọc lại trong sự thật. Sự thật ấy được khẳng định lần đầu tiên lúc khởi đầu cuộc hôn nhân, khi đôi tân hôn, do hứa với nhau «luôn giữ lòng chung thủy ... để yêu thương và tôn trọng nhau mọi ngày suốt đời», trở thành thừa tác viên của hôn nhân bí tích của Hội Thánh.

Kế đến, sự thật ấy, có thể nói, luôn được xác định lại cách mới mẻ. Thật vậy, người nam và người nữ, khi sống hôn nhân của họ «cho đến chết», theo nghĩa nào đó không ngừng đề xướng lại luôn dấu chỉ mà họ đã nêu (qua cử hành phụng vụ bí tích) trong ngày kết hôn.

Những lời trích dẫn trên đây của Thông điệp của đức Giáo hoàng Phaolô VI liên hệ đến thời điểm trong cuộc sống chung của đôi vợ chồng, khi cả hai người kết hợp với nhau trong hành vi vợ chồng, họ trở nên «một xương một thịt»[3], như lời Thánh Kinh diễn tả. Chính trong một thời điểm như thế, rất phong phú ý nghĩa như thế, mà việc đọc lại «ngôn ngữ thân xác» trong sự thật là hết sức quan trọng. Đọc như thế trở thành một điều kiện thiết yếu cho hành động trong sự thật hay cho việc đối xử phù hợp với giá trị và chuẩn mực luân lí.

5. Thông điệp không chỉ nhắc nhớ đến chuẩn mực này, nhưng còn cố gắng cung cấp một nền tảng thích hợp cho nó. Để làm sáng tỏ hơn đến tận chiều sâu «sự kết nối không thể tách rời mà Thiên Chúa đã muốn ... giữa hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng», đức Phaolô đã viết như thế trong đoạn sau đây: «... Bởi cấu trúc thân mật của nó, hành vi vợ chồng, khi kết hợp vợ chồng trong thân mật sâu sắc, làm cho họ có khả năng sinh ra sự sống mới, theo các qui luật đã được ghi khắc trong chính bản tính của con người, nam cũng như nữ»[4].

Chúng ta nhận thấy rằng trong đoạn văn trước bản văn vừa được trích đề cập trước hết đến «ý nghĩa» và trong đoạn văn sau, nói về «cấu trúc thân mật» (nghĩa là về bản tính tự nhiên) của tương quan vợ chồng. Khi xác định «cấu trúc thân mật» này, bản văn tham chiếu tới «các qui luật đã được ghi khắc trong chính bản tính của con người, nam cũng như nữ».

Sự chuyển tiếp từ đoạn nói về chuẩn mực luân lí sang đoạn giải thích lí do của chuẩn mực ấy là rất ý nghĩa. Thông điệp dẫn đến việc tìm kiếm nền tảng cho chuẩn mực, xác định tính luân lí của các hành vi của người nam và người nữ trong hành vi vợ chồng, trong bản chất của hành vi này, và sâu hơn nữa, trong bản chất của chính chủ thể hành động.

6. Như thế, «cấu trúc thân mật» (hay bản tính tự nhiên) của hành vi vợ chồng làm nên cơ sở thiết yếu cho một việc đọc thích đáng và khám phá các ý nghĩa, chúng phải được chuyển thông vào sâu trong ý thức và trong các quyết định của nhân vị hành động, và cũng là cơ sở thiết yếu để thiết lập mối quan hệ thích hợp của hai ý nghĩa này, tức là không thể tách biệt. Vì «hành vi vợ chồng ...» vừa «kết hợp vợ chồng trong thân mật sâu sắc» vừa «làm cho họ có khả năng sinh ra sự sống mới», và vì cả hai điều đó xảy ra được là «nhờ cấu trúc thân mật» của hành vi ấy, cho nên con người tất «phải» đọc đồng thời «cả hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng» và cả «mối nối kết không thể tách biệt hai ý nghĩa ấy của hành vi vợ chồng».

Vấn đề ở đây không gì khác hơn là việc đọc trong sự thật «ngôn ngữ thân xác» như ta đã nói nhiều lần trong những phân tích trước đây. Chuẩn mực luân lí, vốn thường được Hội Thánh dạy về lãnh vực này và được đức Phaolô VI nhắc nhớ và xác nhận lại trong Thông điệp, phát xuất từ việc đọc «ngôn ngữ thân xác» trong sự thật.

Sự thật ở đây, trước tiên là trên bình diện hữu thể học («cấu trúc thân mật») và rồi đến trên bình diện chủ thể và tâm lí («ý nghĩa»). Bản văn Thông điệp nhấn mạnh trong trường hợp đang bàn thảo vấn đề là một chuẩn mực của luật tự nhiên.


CXV - CHUẨN MỰC CỦA «HUMANAE VITAE» ĐƯỢC RÚT RA TỪ LUẬT TỰ NHIÊN

(Ngày 18 tháng 7 năm 1984)

1. Trong Thông điệp «Humanae Vitae» người ta đọc thấy: «Trong khi nhắc người ta tuân giữ các chuẩn mực của luật tự nhiên được giải thích bởi đạo lí thường hằng của mình, Hội Thánh dạy rằng bất cứ hành vi vợ chồng nào tự nó cũng phải mở ra với sự truyền sinh»[5].

Đồng thời chính bản văn ấy xét và thậm chí nêu bật lên chiều kích chủ thể và tâm lí, khi nó nói về «ý nghĩa», hay chính xác hơn, về «hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng».

«Ý nghĩa» phát sinh trong ý thức bằng cách đọc lại sự thật (hữu thể học) của đối tượng. Nhờ việc đọc lại này, sự thật (hữu thể học), có thể nói, bước vào trong chiều kích của nhận thức luận: chủ thể và tâm lí.

«Humanae Vitae» có vẻ như muốn chúng ta cách đặc biệt chú ý đến chiều kích sau cùng này. Điều đó được xác nhận, cách gián tiếp, như giữa bao điều khác bởi đoạn sau đây: «Chúng tôi nghĩ rằng con người ngày nay đặc biệt có khả năng nắm bắt tính hữu lí và nhân bản sâu sắc của nguyên lí nền tảng này»[6].

2. «Tính hữu lí» ấy liên hệ không chỉ sự thật thuộc chiều kích hữu thể luận, hay điều tương ứng với cấu trúc thực sự của hành vi vợ chồng. Nó còn liên hệ đến chính sự thật thuộc bình diện chủ thể và tâm lí, nghĩa là, sự hiểu đúng đắn cấu trúc thân mật của hành vi vợ chồng, có nghĩa là, một sự đọc lại thích đáng các ý nghĩa ứng với cấu trúc ấy và sự nối kết không thể tách biệt của chúng, nhằm tới một ứng xử luân lí đúng đắn. Chính chỗ đó xác định chuẩn mực luân lí và quy định tương ứng cho các hành vi nhân linh trong lãnh vực tính dục. Theo nghĩa đó, chúng tôi nói rằng chuẩn mực đồng nhất với sự đọc lại trong sự thật «ngôn ngữ thân xác».

3. Như thế, Thông điệp «Humanae Vitae» có hàm chứa chuẩn mực luân lí và lí do căn nguyên của nó, hay ít nhất có một sự đào sâu những gì tạo nên căn nguyên cho chuẩn mực ấy. Tuy nhiên, vì trong chuẩn mực giá trị luân lí bắt buộc được bộc lộ ra, do đó những hành vi phù hợp với chuẩn mực thì tốt về mặt luân lí, và ngược lại những hành vi trái nghịch thì tự thân bất hợp pháp. Tác giả của Thông điệp nhấn mạnh rằng chuẩn mực đó thuộc «luật tự nhiên», nghĩa là, nó phù hợp với lí trí đúng nghĩa. Hội Thánh dạy chuẩn mực này, dẫu rằng nó không được diễn tả một cách chính thức (tức là theo sát nghĩa) trong Sách Thánh; và điều ấy được thực hiện với xác tín rằng giải thích các điều luật của luật tự nhiên thì thuộc thẩm quyền của Huấn Quyền Hội Thánh.

Thế nhưng, chúng ta có thể nói nhiều hơn nữa. Cho dẫu chuẩn mực luân lí, được trình bày như thế trong Thông điệp «Humanae Vitae», theo đúng nghĩa đen không có ở trong Sách Thánh, nhưng vì nó có trong Truyền Thống và – như đức Phaolô VI đã viết – «đã nhiều lần được Huấn Quyền trình bày»[7] cho các tín hữu, cho nên chuẩn mực này phù hợp với toàn bộ đạo lí mạc khải chứa đựng trong các nguồn Thánh kinh[8].

4. Vấn đề ở đây không chỉ là toàn thể giáo thuyết về luân lí có trong Sách Thánh, về những dẫn nhập cốt yếu vào giáo thuyết ấy và về đặc tính chung của nội dung của nó, nhưng là tổng thể rộng lớn hơn mà trước đây chúng ta đã dành chỗ phân tích rất nhiều khi bàn về «thần học về thân xác».

Chính trên nền hậu cảnh của tổng thể rộng lớn đó mà ta thấy hiển nhiên rằng chuẩn mực luân lí được đề cập ở đây không những thuộc về luật luân lí tự nhiên, mà còn thuộc về bình diện luân lí mạc khải bởi Thiên Chúa. Ngay cả từ quan điểm này nó cũng không thể khác đi, nhưng chính là cái mà Truyền Thống và Huấn Quyền truyền lại và, cho thời đại hôm nay, Thông điệp «Humanae Vitae», như là tài liệu đương đại của Huấn Quyền ấy.

Đức Phaolô VI viết: «Chúng tôi nghĩ rằng con người ngày nay đặc biệt có khả năng nắm bắt tính hữu lí và nhân bản sâu sắc của nguyên lí nền tảng này»[9]. Có thể nói thêm: họ cũng có khả năng hiểu rằng nguyên lí nền tảng này phù hợp sâu xa với tất cả những gì được truyền lại bởi truyền thống tuôn trào từ các nguồn Thánh kinh. Cơ sở của sự phù hợp này cần phải được tìm kiếm đặc biệt nơi nhân học thánh kinh. Hơn nữa, nhân học phục vụ cho đạo đức học, tức là cho đạo lí về luân lí, một điều rất ý nghĩa. Xem ra hoàn toàn có lí, chính trong «thần học về thân xác» mà ta cần phải tìm nền tảng của sự thật của các chuẩn mực liên quan tới vấn đề nền tảng của con người xét như là «thân xác»: «cả hai sẽ nên một xương một thịt».[10]

5. Chuẩn mực của Thông điệp «Humanae Vitae» liên hệ đến tất cả mọi người, bởi lẽ nó là chuẩn mực của luật tự nhiên và đặt nền tảng trên sự phù hợp với lí trí con người (khi được hiểu là lí trí truy tìm chân lí). Và càng liên hệ đến tất cả các tín hữu là thành phần của Hội Thánh hơn nữa, bởi vì lí tính của chuẩn mực này được gián tiếp xác nhận và có trụ đỡ chắc chắn trong tổng thể «thần học về thân xác». Từ quan điểm này chúng ta đã nói, trong các phân tích trước đây, về «đạo đức» của sự cứu chuộc thân xác.

Chuẩn mực của luật tự nhiên, căn cứ trên nền «đạo đức» này, không những có được một cách diễn tả mới, mà còn có được một nền tảng nhân học và đạo đức học đầy đủ dựa trên lời Tin Mừng cũng như dựa trên hành động thanh luyện và thêm sức của Chúa Thánh Thần.

Có mọi lí do để mà các tín hữu và nhất là các nhà thần học đọc lại và hiểu mỗi lúc sâu hơn đạo lí luân lí của Thông điệp «Humanae Vitae» trong bối cảnh toàn thể này.

Những suy tư của chúng ta đã làm bấy lâu ở đây chính là một nỗ lực đọc lại như thế.


CXVI - THÔNG ĐIỆP «HUMANAE VITAE» GIẢI ĐÁP CHO NHỮNG CÂU HỎI CỦA CON NGƯỜI NGÀY NAY

(Ngày 25 tháng 7 năm 1984)

1. Chúng ta trở lại với những suy tư nhằm nối kết Thông điệp «Humanae Vitae» với tổng thể thần học về thân xác.

Thông điệp này không giới hạn chỉ ở việc nhắc nhớ chuẩn mực luân lí liên quan đến cuộc sống chung vợ chồng, khi xác nhận lại chuẩn mực ấy trước các hoàn cảnh mới. Đức Phaolô VI, khi công bố Thông điệp này với tư cách của Huấn Quyền chính thực (1968), đã có sẵn đó giáo huấn đầy thẩm quyền của Công Đồng Vatican II, trong hiến chế «Gaudium et Spes» (1965).

Thông điệp không những tiếp tục hướng đi của giáo huấn Công đồng, mà còn là một sự triển khai và hoàn tất những vấn đề đặt ra khi ấy, cách riêng liên hệ tới vấn đề «sự phù hợp của tình yêu con người với sự sống». Về điểm này, chúng ta đọc thấy trong «Gaudium et Spes» những lời sau đây: «Giáo hội nhắc lại rằng không thể có mâu thuẫn thực sự giữa những lề luật của Thiên Chúa liên quan đến việc truyền sinh và những luật nhằm phát huy tình yêu vợ chồng đích thực»[11].

2. Hiến chế mục vụ của Vatican II khẳng định không hề có «mâu thuẫn thực sự» trên bình diện pháp lí, về phần đức Phaolô VI, ngài cũng xác nhận như thế, khi cố giải thích «không có mâu thuẫn» và đồng thời đưa ra lí do cho chuẩn mực luân lí tương ứng, chứng tỏ nó phù hợp với lí trí.

Tuy nhiên, «Humanae Vitae» không nói nhiều đến sự «không có mâu thuẫn» cho bằng nói đến «sự kết nối bí nhiệm» giữa truyền sinh và tình yêu vợ chồng đích thực từ quan điểm của «hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng: ý nghĩa kết hợp và ý nghĩa sinh sản»[12], điều chúng ta đã nói tới.

3. Chúng ta có thể dừng lại lâu hơn để phân tích chính luật hay chuẩn mực này; thế nhưng tính chất của tài liệu này cũng như tài liệu kia đều thiên về suy tư mục vụ, ít là cách gián tiếp. Quả thật, «Gaudium et Spes» là một Hiến chế mục vụ và thông điệp của đức Phaolô VI – với giá trị đạo lí của nó – cũng có định hướng giống như vậy. Thực ra nó muốn giải đáp những thắc mắc của con người thời đại. Những thắc mắc này có tính chất thuộc lãnh vực nhân khẩu học, vì vậy mà nó có tính xã hội – kinh tế – chính trị, trong tương quan với sự gia tăng dân số trên thế giới. Đó là những câu hỏi phát xuất từ lãnh vực các khoa học đặc thù, và song song với chúng là những chất vấn của những nhà luân lí đương đại (các nhà thần học luân lí). Đó là những thắc mắc trước hết của các đôi vợ chồng, chúng vốn là trung tâm của sự quan tâm của Hiến chế công đồng và Thông điệp lấy lại với một sự chính xác tuyệt diệu. Quả thật, chúng ta đọc thấy: «Xét đến hoàn cảnh của cuộc sống ngày nay và do ý nghĩa của các mối quan hệ hôn phối nhằm đến việc vợ chồng sống hòa hợp và chung thủy với nhau, ta có nên xét lại hay chăng các luật đạo đức cho tới nay còn hiệu lực, nhất là những luật không thể giữ được mà không có hi sinh, đôi khi là một sự hi sinh anh hùng?».[13]

4. Trong khi hình thành nên công thức nói trên đây rõ ràng là Tác giả của Thông điệp rất băn khoăn trong khi đối diện với những thắc mắc của con người thời đại, với tất cả tầm mức của chúng. Tầm quan trọng của những câu hỏi này giả thiết phải có một lời giải đáp có suy tư khá cân xứng và sâu sắc. Bởi thế, nếu như một đàng, đúng là người ta mong có một luận bàn sắc sảo về luật, nhưng đàng khác, người ta cũng có thể đợi chờ một luận cứ về mục vụ có giá trị, liên hệ trực tiếp hơn đến cuộc sống của những con người cụ thể, của chính những ai đặt ra những chất vấn nêu lên lúc ban đầu.

Đức Phaolô VI đã luôn nghĩ tới những con người này. Đoạn sau đây trong số nhiều đoạn khác của «Humanae Vitae» diễn tả điều ấy: «Đạo lí của Hội Thánh về điều hòa sinh sản, diễn tả luật của Thiên Chúa, xem ra sẽ dễ gặp rất nhiều khó khăn hoặc thậm chí không thể thực thi được. Chắc chắn là, cũng như mọi thực tại cao cả và sinh phúc lợi, đạo lí này đòi hỏi phải có một sự đầu tư nghiêm túc và cố gắng rất nhiều của các cá nhân, gia đình và xã hội. Đúng hơn, sẽ không thể thực hiện được nếu không có ơn Chúa giúp, nâng đỡ và thêm sức cho thiện chí của con người. Thế nhưng, nghĩ cho kĩ, thì những cố gắng đó là xứng với phẩm giá của con người và hữu ích cho cộng đồng nhân loại».[14]

5. Chúng ta không nói ở đây về sự «không-mâu-thuẫn» về mặt pháp lí nữa, mà đúng hơn sẽ nói về «khả năng tuân giữ lề luật Thiên Chúa», tức là một lập luận về mặt mục vụ ít là gián tiếp. Sự kiện một điều luật phải «khả» thi (nghĩa là có thể thực hiện được) trực tiếp thuộc về chính bản chất của luật, thế nên nó thuộc về phạm vi của «tính chất bất-mâu-thuẫn về pháp lí». Tuy nhiên, «tính khả thi», hiểu như là «khả thi» về mặt lề luật, còn thuộc về mặt thực tế và mục vụ nữa. Trong đoạn văn trích dẫn, người Tiền nhiệm của tôi, một cách chính xác, nói từ quan điểm này.

6. Ở đây ta có thể thêm một nhận xét nữa: toàn thể hậu cung thần học Thánh kinh, điều được gọi là «thần học về thân xác», xác nhận cho chúng ta, cho dẫu là cách gián tiếp, sự thật của chuẩn mực luân lí trong «Humanae Vitae». Nhờ đó chúng ta sẽ xem xét sâu xa hơn những khía cạnh thực tế và mục vụ của vấn đề trong toàn thể của nó. Không phải những nguyên tắc và những tiền đề tổng quát của «thần học về thân xác» đã được rút ra từ câu trả lời của Đức Kitô cho những yêu cầu của các thính giả cụ thể của Người hay sao? Và các bản văn của Phaolô – ví dụ như những đoạn từ Thư gửi tín hữu Côrintô – không phải là một bổn giáo khoa nhỏ về các vấn đề đời sống luân lí cho những người môn đồ tiên khởi đi theo Đức Kitô hay sao? Và trong các bản văn này chắc chắn ta thấy «luật của hiểu biết», xem ra rất cần thiết trước những vấn đề mà «Humanae Vitae» đề cập, và luật ấy cũng có mặt trong Thông điệp này.

Những ai tin rằng Công Đồng và Thông điệp không quan tâm đủ đến những khó khăn vốn có ở trong đời sống cụ thể, thì không hiểu rằng bận tâm mục vụ là khởi thủy của những tài liệu này. Bận tâm mục vụ là lo tìm kiếm thiện ích thật của con người, thăng tiến những giá trị mà Thiên Chúa đã ghi dấu ấn trong con người. Là thực hiện «luật của hiểu biết», nhằm khám phá ngày càng rõ ràng hơn ý định của Thiên Chúa về tình yêu của con người, trong niềm xác tín rằng thiện ích duy nhất và đích thật của con người hệ tại ở việc thực hiện ý định này của Thiên Chúa.

Người ta có thể nói rằng chính khi nhân danh «luật của hiểu biết» đã trích dẫn đó mà Công Đồng đặt ra vấn đề «sự dung hợp giữa tình yêu vợ chồng và tôn trọng sự sống»,[15] và Thông điệp «Humanae Vitae» tiếp đến đã nhắc đến không những các chuẩn mực luân lí vốn có sức ràng buộc trong lãnh vực này, mà hơn nữa, còn quan tâm đến cả vấn đề «có thể tuân giữ luật Chúa».

Những suy từ này về đặc tính của tài liệu «Humanae Vitae» chuẩn bị cho ta bàn tiếp về đề tài «làm cha làm mẹ có trách nhiệm».


CXVII - LÀM CHA LÀM MẸ CÓ TRÁCH NHIỆM DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA «HUMANAE VITAE»

(Ngày 1 tháng 8 năm 1984)

1. Hôm nay chúng ta chọn chủ đề «làm cha làm mẹ có trách nhiệm» dưới ánh sáng của Hiến chế «Gaudium et Spes» và Thông điệp «Humanae Vitae».

Hiến chế của Công Đồng, khi trả lời cho tranh luận, tự giới hạn mình lại ở việc nhắc nhở những tiền đề căn bản mà thôi; còn văn kiện của đức Giáo hoàng thì đi xa hơn cho những tiền đề này nội dung cụ thể hơn.

Bản văn của Công Đồng tuyên bố như sau: «... Khi phải dung hợp tình yêu vợ chồng với việc sinh sản có trách nhiệm, phải ý thức rằng giá trị luân lí của hành động không chỉ tùy thuộc vào mức độ trung thực của ý hướng và sự đánh giá về những lí do, nhưng còn phải dựa vào các tiêu chuẩn khách quan, được xác định do chính tính cách của người làm và bản chất của việc đang làm; những tiêu chuẩn ấy sẽ bảo toàn ý nghĩa trọn vẹn của sự trao hiến cho nhau và sinh sản con cái trong bối cảnh của một tình yêu đích thực; điều đó không thể thực hiện được nếu không nghiêm túc thực hành đức khiết tịnh của bậc hôn nhân»[16].

Và Công Đồng còn nói thêm: «Trong việc điều hòa sinh sản, con cái của Giáo Hội phải trung thành tuân thủ những nguyên tắc vừa nêu, không được dùng những phương pháp mà Huấn Quyền dựa vào thiên luật đã phi bác»[17].

2. Trước đoạn văn trích dẫn trên đây,[18] Công Đồng dạy rằng đôi vợ chồng «sẽ chu toàn bổn phận với ý thức trách nhiệm vừa của con người, vừa của những Kitô hữu, và, trong thái độ tôn kính tuân phục Thiên Chúa»[19]. Điều đó có nghĩa rằng là: «với sự đồng thuận và nỗ lực chung, họ sẽ cùng đưa ra một phán đoán chính xác, trong khi vẫn quan tâm đến thiện ích của chính họ cũng như của con cái đã sinh ra hay dự định sẽ có, vẫn cân nhắc về những điều kiện vật chất cũng như tinh thần của hoàn cảnh sống theo từng thời điểm, và sau cùng vẫn lưu tâm đến thiện ích của cả gia đình, của cộng đồng xã hội và của Giáo hội nữa»[20].

Tiếp theo sau đó là những lời đặc biệt quan trọng xác định chính xác hơn nữa tính chất luân lí của «việc làm cha và làm mẹ có trách nhiệm». Chúng ta đọc thấy như sau: «Chính đôi vợ chồng phải chịu trách nhiệm cuối cùng về phán đoán ấy trước mặt Thiên Chúa»[21].

Và nói tiếp: «Trong cách thế hành động, vợ chồng Kitô hữu hãy ý thức rằng mình không được làm theo sở thích, nhưng phải luôn tuân theo tiếng nói của lương tâm phù hợp với lề luật Chúa, luôn vâng phục Huấn Quyền của Giáo Hội vốn có thẩm quyền giải thích luật Chúa dưới ánh sáng Tin Mừng. Luật Chúa tỏ rõ ý nghĩa đầy đủ của tình yêu vợ chồng, bảo vệ và mang lại cho tình yêu ấy phẩm chất nhân bản trọn vẹn đích thực»[22].

3. Hiến chế của Công Đồng, tự giới hạn trong việc nhắc nhở những điều kiện tiên thiên cần thiết của «việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm», nhưng cũng đã nhấn mạnh đến chúng một cách rõ ràng bằng cách xác định các yếu tố cơ bản của việc làm cha làm mẹ ấy, tức là phán đoán chín chắn của lương tâm cá nhân trong mối quan hệ với luật Chúa, được lí giải chân thực bởi Huấn Quyền của Hội Thánh.

4. Thông điệp «Humanae Vitae», cũng dựa trên những điều kiện tiên thiên ấy, nhưng tiếp tục đi xa hơn, khi đưa ra những chỉ dẫn cụ thể. Người ta thấy như thế trước hết trong cách thức định nghĩa «làm cha làm mẹ có trách nhiệm».[23] Đức Phaolô VI tìm cách xác định khái niệm này, bằng cách đi lên đến những khía cạnh khác nhau của khái niệm ấy đồng thời loại bỏ trước ý nghĩa giản lược chỉ còn là một khía cạnh «thành phần» nào đó của nó thôi, ví dụ như những người chỉ biết nói về việc kiểm soát sinh sản thôi. Quả thật, ngay từ đầu đức Phaolô VI đã hướng luận cứ của ngài theo một quan niệm toàn diện về con người[24] và về tình yêu vợ chồng.[25]

5. Người ta có thể nói về trách nhiệm trong việc thực hành phận vụ làm cha và làm mẹ dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Từ đó, ngài viết, «liên hệ đến các tiến trình sinh học, làm cha làm mẹ có trách nhiệm có nghĩa là biết và tôn trọng các phận vụ của việc ấy: trí khôn khám phá ra, trước khả năng có thể sinh con, các qui luật sinh học vốn là thành phần làm nên nhân vị»[26]. Rồi, khi nói đến chiều kích tâm lí học «làm cha làm mẹ có trách nhiệm có nghĩa là lí trí và ý chí cần phải làm chủ các xu hướng của bản năng và các đam mê».[27]

Với giả thiết có các khía cạnh liên vị như đã nói trên đây và thêm vào đó cần có «các điều kiện kinh tế và xã hội», còn phải nhìn nhận rằng «việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm được thực thi, hoặc tăng trưởng gia đình về con số thành viên một cách có suy nghĩ cân nhắc chín chắn và quảng đại, hoặc quyết định tạm thời, với những lí do nghiêm trọng và tôn trọng luật luân lí, tránh việc có thêm một đứa con cả khi trong một thời gian bất định».[28]

Do đó, trong khái niệm về «việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm» không những có trường hợp có khuynh hướng tránh «có thêm con» mà còn có trường hợp làm tăng trưởng gia đình theo các tiêu chuẩn của sự khôn ngoan. Trong ánh sáng đó, trong đó cần phải khảo sát và quyết định vấn đề về «việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm», trung tâm điểm luôn luôn là «bình diện luân lí khách quan, vốn do Thiên Chúa lập, và lương tâm ngay thẳng phải giải thích trung thành».[29]

6. Các đôi vợ chồng trong lãnh vực này hoàn tất «các bổn phận của mình đối với Thiên Chúa, đối với nhau, đối với gia đình và đối với xã hội, theo một phẩm trật đúng đắn các giá trị».[30] Thế nên không thể nói ở đây về «việc làm theo ý muốn tùy tiện riêng». Trái lại, các đôi vợ chồng phải «khuôn các hành động của họ theo ý định sáng tạo của Thiên Chúa».[31]

Khởi đi từ nguyên tắc này Thông điệp đặt luận cứ của mình trên nền tảng của «cấu trúc thân mật của hành vi vợ chồng» và của «sự kết nối không thể chia cắt của hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng»;[32] điều này đã được nói tới trước đây rồi. Bởi thế, nguyên lí tương ứng của đạo vợ chồng (luân lí phu thê) là trung thành với kế hoạch của Thiên Chúa, vốn được biểu lộ trong «cấu trúc thân mật của hành vi vợ chồng» và của «sự kết nối không thể chia cắt của hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng» này.


CXVIII - XÁC NHẬN LẦN NỮA TÍNH CHẤT BẤT HỢP PHÁP CỦA VIỆC PHÁ THAI, NGỪA THAI VÀ TRIỆT SẢN TRỰC TIẾP

(Ngày 8 tháng 8 năm 1984)

1. Chúng ta đã nói trước đây rằng nguyên tắc của đạo vợ chồng mà Hội Thánh đã dạy (Công Đồng Vatican II và đức Giáo hoàng Phaolô VI), là tiêu chuẩn trung thành với kế hoạch của Thiên Chúa.

Phù hợp với nguyên tắc này Thông điệp «Humanae Vitae» phân biệt kĩ lưỡng giữa cách điều hòa sinh sản (hoặc nói chính xác hơn, điều hòa việc mang thai) bất hợp pháp về luân lí và cách điều hòa đúng đắn về luân lí.

Trước hết, «can thiệp trực tiếp vào tiến trình sinh sản đã bắt đầu» («phá thai»),[33] «triệt sản trực tiếp» và «mọi hành động, hoặc trước sự giao hợp vợ chồng, hoặc trong khi diễn ra việc ấy, hoặc trong lúc diễn tiến của hậu quả tự nhiên, thực hiện nhằm như là mục đích hay chỉ như phương tiện, ngăn cản sự sinh sản»,[34] và mọi phương tiện ngừa thai, là bất hợp pháp về mặt luân lí (hay phi luân). Còn như việc «nhờ tới các thời kì không thụ thai»[35] thì hợp pháp: «Vì thế nếu như để giãn quãng cách thời gian giữa các lần sinh con và vợ chồng có những lí do hệ trọng, hoặc do sức khỏe thể lí hoặc tâm lí, hoặc do hoàn cảnh bên ngoài, Hội Thánh dạy rằng khi ấy, việc xét đến các thời kì của nhịp độ tự nhiên nội tại trong các chức năng sinh sản để giao phối vợ chồng chỉ trong các thời kì không thụ thai, và như thế đó là điều hòa sinh sản mà không phạm các nguyên tắc luân lí ...»[36].

2. Cách riêng Thông điệp nhấn mạnh rằng «hai trường hợp đó có bản chất khác biệt nhau»[37] nghĩa là khác nhau về bản tính đạo đức: «trường hợp thứ nhất, đôi bạn lợi dụng cách hợp pháp hoàn cảnh tự nhiên sẵn có; còn trường hợp kia, họ ngăn cản không cho hoàn tất tiến trình tự nhiên».[38]

Bởi đó, hai hành động có phẩm chất đạo đức khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau: điều hòa tự nhiên việc thụ thai là hợp luân lí, còn việc ngừa thai thì không hợp luân lí. Sự khác biệt cốt yếu này giữa hai hành động (cách thức hành động) liên quan tới phẩm chất đạo đức nội tại của chúng, cho dẫu đấng tiền nhiệm của tôi, đức Phaolô VI, xác định rằng «trong cả hai trường hợp đôi vợ chồng đồng lòng tích cực muốn tránh có con vì những lí do hợp lí», và ngài còn viết: «đang khi họ tìm một sự an toàn không chắc chắn».[39] Trong những lời đó văn kiện nhìn nhận rằng, dù cả nơi những người sử dụng các thực hành chống thụ thai có thể được thúc đẩy bởi «những lí do hợp lí» đi nữa, nhưng điều ấy cũng không làm thay đổi phẩm chất luân lí vốn đặt nền tảng trên chính cấu trúc của hành vi vợ chồng xét như là chính hành vi ấy.

3. Tại đây người ta có thể nhận thấy các cặp vợ chồng, những người cậy nhờ tới phương thế điều hòa tự nhiên sự thụ thai, có lẽ không có đủ những lí do hợp pháp mà chúng ta đã nói trước đây: nhưng điều đó phần nào đó tạo nên một vấn đề đạo đức, khi điều căn bản lại là thiếu mất ý nghĩa luân lí của «việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm».

Giả như các lí do để quyết định không sinh con nữa là chính đáng về luân lí, thì vẫn còn một vấn đề luân lí phải xét là người ta sử dụng cách thức nào trong trường hợp đó, và điều đó được diễn tả qua một hành vi – theo đạo lí Hội Thánh truyền lại qua Thông điệp – vốn tự thân đã có phẩm chất luân lí là tốt (tích cực) hay xấu (tiêu cực). Hành vi thứ nhất, tích cực, ứng với việc điều hòa sinh sản tự nhiên; hành vi thứ hai, tiêu cực, ứng với «việc ngừa thai nhân tạo».

4. Tất cả những lí luận trên đây được tóm lược trong phần trình bày đạo lí của «Humanae Vitae», có nêu lên cả tính chất pháp lí và mục vụ của nó. Về mặt pháp lí, cần thiết phải xác định và làm sáng tỏ các nguyên tắc luân lí cho hành vi; về mặt mục vụ, cần trước hết là làm rõ khả năng hành động theo các nguyên tắc đó («khả năng tuân giữ luật Chúa»)[40].

Chúng ta phải dừng lại ở việc chú giải nội dung của Thông điệp. Nhằm mục đích ấy ta phải nhìn nội dung ấy, cả trên toàn thể bình diện pháp lí – mục vụ dưới ánh sáng của thần học về thân xác, một suy tư xuất phát từ phân tích các bản văn thánh kinh.

5. Thần học về thân xác không là một lí thuyết cho bằng là một lối sư phạm về thân xác có nét đặc thù, phúc âm, Kitô giáo. Điều đó rút ra từ đặc tính của Thánh Kinh, và nhất là của Tin Mừng, vốn là một sứ điệp cứu độ, mạc khải cái gì là điều tốt thật sự của con người, nhằm mục đích nắn đúc – trong tầm ngắm của thiện ích này – đời sống trên trái đất này trong viễn tượng của niềm hi vọng vào thế giới tương lai.

Thông điệp «Humanae Vitae», theo hướng đi đó, trả lời cho chất vấn về thiện ích đích thật của con người như một nhân vị, như một người nam và như một người nữ; về những gì tương ứng với phẩm giá của người nam và người nữ, khi bàn đến vấn đề quan trọng truyền sinh và vợ chồng sống chung.

Chúng ta sẽ dành vấn đề này cho những suy tư sau.


CXIX - XÁC NHẬN LẠI ĐẠO LÍ CỐT YẾU CỦA HỘI THÁNH VỀ VIỆC TRUYỀN SINH

(Ngày 22 tháng 8 năm 1984)

1. Đâu là đạo lí cốt yếu của Hội Thánh về việc truyền sinh trong cộng đoàn hôn nhân, đạo lí mà Hiến chế mục vụ của Công Đồng «Gaudium et Spes» và Thông điệp «Humanae Vitae» của đức Thánh Cha Phaolô VI đã nhắc nhở chúng ta?

Vấn đề nằm ở chỗ duy trì mối tương quan thích hợp giữa cái được xác định là sự «thống trị ... các sức mạnh tự nhiên»[41] và việc «làm chủ bản thân»[42] rất thiết yếu đối với nhân vị. Con người thời đại bộc lộ khuynh hướng muốn chuyển các phương pháp của riêng lãnh vực thứ nhất thành phương thế dùng cho lãnh vực thứ hai. «Con người đã có những tiến bộ đáng kinh ngạc trong việc làm chủ và tổ chức theo lí trí các sức mạnh của thiên nhiên – như chúng ta đọc thấy trong Thông điệp – đến nỗi nó có khuynh hướng bành trướng sự thống trị này đến chính bản thân con người toàn thể của mình: thân xác, đời sống tâm lí, cuộc sống xã hội, và thậm chí cả lề luật đang điều khiển việc truyền sinh».[43]

Sự mở rộng phạm vi của các phương tiện «thống trị ... các sức mạnh thiên nhiên» như thế, đe dọa con người với tư cách là một nhân vị, mà việc «làm chủ bản thân» là và vẫn luôn là đặc thù của nhân vị. Thật vậy, việc làm chủ bản thân tương ứng với cấu trúc nền tảng của ngôi vị: đó chính là một phương pháp «tự nhiên». Ngược lại, sự hoán đổi bằng các «phương tiện nhân tạo» phá vỡ chiều kích căn bản của ngôi vị, tước đi của con người tính chủ thể của riêng mình và biến nó thành một đồ vật cho người ta hưởng dụng tùy ý.

2. Thân xác con người không chỉ là lãnh địa của những phản ứng thuộc tính dục, nhưng đồng thời còn là phương thế biểu lộ toàn thể con người, nhân vị, tự tỏ lộ chính mình nhờ «ngôn ngữ của thân xác». «Ngôn ngữ» này có một ý nghĩa liên vị rất quan trọng, đặc biệt là khi tương giao giữa người nam với người nữ. Lại nữa, những phân tích trước đây của chúng tôi cho thấy rằng trong trường hợp này «ngôn ngữ của thân xác» phải diễn tả, ở một mức độ nhất định, chân lí của bí tích. Bằng cách tham dự vào Kế hoạch đời đời của Tình yêu («Sacramentum absconditum in Deo»: mầu nhiệm ẩn dấu từ muôn thuở nơi Thiên Chúa) «ngôn ngữ của thân xác» trở thành thật sự gần như là một «lời tiên tri của thân xác».

Người ta có thể nói rằng Thông điệp «Humanae Vitae» đưa chân lí này về thân xác con người với giới tính là nam là nữ của nó, đến những hệ luận cực đoan, không những về mặt luận lí và luân lí, mà còn về mặt thực tiễn và mục vụ.

3. Sự thống nhất hai mặt của vấn đề – chiều kích bí tích (tức thần học) và chiều kích duy nhân vị – tương ứng với «mạc khải của thân xác» toàn vẹn. Từ đây còn rút ra được một sự nối kết giữa quan điểm thuần túy thần học và quan điểm đạo đức học, mà người ta gọi là «luật tự nhiên».

Chủ thể của luật tự nhiên thật ra là con người không chỉ về mặt «tự nhiên» của cuộc sống của nó, mà còn trong sự thật toàn vẹn của tính chủ thể nhân vị của nó nữa. Con người ấy tỏ lộ ra cho ta, qua Mạc khải, như là một người nam và một người nữ, trong ơn gọi viên mãn của nó trong chiều kích thời gian và cánh chung. Con người ấy được Thiên Chúa kêu gọi làm chứng và giải thích cho ý định yêu thương đời đời, bằng cách trở nên là thừa tác viên của bí tích, mà «từ thuở ban đầu» đã được thiết lập trong dấu chỉ «kết hợp nên một xương một thịt».

4. Trong tư cách như là thừa tác viên của một bí tích được thiết lập nhờ sự ưng thuận và được hoàn hợp nhờ sự kết hợp vợ chồng, người nam và người nữ được kêu gọi diễn tả «ngôn ngữ» mầu nhiệm của thân xác họ trong toàn thể sự thật của nó. Qua các hành động và phản ứng, qua toàn thể tính năng động chi phối lẫn nhau giữa sự căng thẳng và hoan lạc – mà nguồn mạch trực tiếp là thân xác của người nam và người nữ, với hành động và tương tác của nó – qua tất cả những cái đó con người nhân vị «lên tiếng».

Người nam và người nữ qua «ngôn ngữ của thân xác» triển khai một cuộc đối thoại – theo St 2,24-25 – vốn đã khởi đầu vào ngày tạo dựng. Và ở chính tầm mức «ngôn ngữ thân xác» này – là cái gì còn hơn chứ không chỉ là những hành động tính dục và, như là ngôn ngữ đích thực của ngôi vị, nó còn bị đòi hỏi của chân lí, tức những luật luân lí khách quan – người nam và người nữ diễn tả chính mình cho nhau một cách trọn vẹn và sâu hơn, xét vì họ đồng thuận với nhau trong ngôn ngữ ấy phát xuất từ chính bình diện thân xác của nam giới và nữ giới của họ. Người nam và người nữ diễn tả chính mình trong tất cả sự thật của con người mình.

5. Con người đúng là một nhân vị bởi vì con người là chủ nhân của chính mình và làm chủ bản thân mình. Thật vậy, vì con người là chủ của chính mình nên nó có thể «hiến thân» cho người khác. Và chính chiều kích tự do này của sự dâng hiến là cốt yếu và có tính quyết định đối với «ngôn ngữ thân xác», trong đó người nam và người nữ tự biểu lộ cho nhau trong hành động kết hợp vợ chồng. Vì đây là sự hiệp thông các ngôi vị, nên «ngôn ngữ thân xác» phải được xét đoán theo tiêu chuẩn của sự thật. Chính tiêu chuẩn đó nhắc nhở Thông điệp «Humanae Vitae», như được xác nhận bởi các đoạn được trích dẫn trước đây.

6. Theo tiêu chuẩn của sự thật này, sự thật vốn phải được diễn tả qua «ngôn ngữ thân xác», hành vi vợ chồng «có nghĩa» không chỉ tình yêu thương, mà còn hướng đến sự sống phong nhiêu tiềm tàng, và do đó nó không thể bị tước mất đi ý nghĩa trọn vẹn và thích đáng của nó bởi các can thiệp nhân tạo nhằm ngăn chặn thụ thai. Trong hành vi vợ chồng, tách biệt một cách nhân tạo ý nghĩa kết hợp và ý nghĩa sinh sản là bất hợp pháp, vì cả hai ý nghĩa này trong thâm sâu cùng thuộc về sự thật của hành vi vợ chồng: ý nghĩa này được thể hiện đồng thời với ý nghĩa kia, và theo nghĩa nào đó, cái này có được thực hiện là nhờ đến cái kia. Thông điệp dạy như thế.[44] Bởi thế, trong trường hợp đó hành vi vợ chồng thiếu mất chân lí nội tại của nó, vì nếu tước mất đi một cách nhân tạo khả năng sinh sản của hành vi ấy, thì nó cũng không còn là hành vi của tình yêu nữa.

7. Có thể nói rằng trong trường hợp người ta tách biệt cách nhân tạo hai ý nghĩa này, trong hành vi vợ chồng người ta kết hợp trên thân xác thực sự, nhưng nó không tương xứng với chân lí nội tại và xứng với phẩm giá của sự hiệp thông ngôi vị (communio personarum). Quả thật, sự hiệp thông ấy đòi hỏi «ngôn ngữ thân xác» phải được biểu lộ giữa hai người trong sự thật toàn vẹn của ý nghĩa hành vi đó. Nếu thiếu vắng sự thật này, người ta không thể nói đến sự thật mình làm chủ bản thân, cũng không thể nói đến sự thật trao hiến bản thân cho nhau và đón nhận nhân vị của nhau. Xâm phạm trật tự nội tại của sự hiệp thông vợ chồng như thế, sự hiệp thông vốn có gốc rễ của nó dựa trên chính bình diện ngôi vị, là tạo ra cái xấu bản chất của hành vi ngừa thai.

8. Giải thích về luân thường đạo lí trên đây được trình bày trong Thông điệp «Humanae Vitae» được đặt trong bối cảnh rộng lớn của những suy tư gắn kết với thần học thân xác. Những suy tư về «dấu chỉ» liên quan đến hôn nhân, hiểu như là bí tích, là đặc biệt đúng đối với lí giải này. Và làm sao có thể hiểu được về mặt thần học rằng làm sao không có vi phạm làm đảo lộn trật tự nội tại của hành vi vợ chồng, nếu không có những suy tư về chủ đề «dục vọng của tính xác thịt».


CXX - ĐIỀU HÒA SINH SẢN LÀ HOA QUẢ CỦA TÌNH YÊU THANH KHIẾT VỢ CHỒNG

(Ngày 29 tháng 8 năm 1984)

1. Thông điệp «Humanae Vitae» cho thấy ngừa thai là một điều xấu luân lí, đồng thời hoàn toàn chuẩn nhận việc điều hòa tự nhiên sự thụ thai và, theo nghĩa đó, chấp thuận việc làm cha và làm mẹ có trách nhiệm. Cần loại bỏ ở đây trường hợp tự cho mình là «có trách nhiệm» theo quan điểm đạo đức mà đồng thời lại dùng biện pháp ngừa thai để thực hiện việc điều hòa sinh sản. Còn khái niệm đích thật của việc «làm cha làm mẹ có trách nhiệm» lại được nối kết với sự điều hòa sinh sản chính đáng theo quan điểm đạo đức.

2. Về vấn đề này chúng ta đọc thấy: «Thực hành chính đáng việc điều hòa sinh sản đòi hỏi đôi vợ chồng trước hết phải đạt và có được xác tín vững vàng về các giá trị thật của sự sống và của gia đình, và phải hướng đến có được một sự làm chủ bản thân hoàn hảo. Làm chủ bản năng, nhờ lí trí và ý chí tự do, chắc chắn phải cần tới một thực hành khổ chế, nhằm làm sao để những biểu lộ tình cảm của đời sống vợ chồng theo một trật tự đúng đắn và cách riêng để tuân giữ sự tiết dục theo định kì. Nhưng kỉ luật này, thuộc về sự thanh khiết của đôi vợ chồng, không hề làm tổn hại đến tình yêu phu thê mà ngược lại còn cho họ một giá trị nhân văn cao hơn nữa. Việc ấy đòi hỏi một sự cố gắng không ngừng, nhưng nhờ ảnh hưởng tốt của nó đôi vợ chồng phát triển toàn vẹn nhân cách của họ trong khi làm phong phú thêm các giá trị thiêng liêng ...».[45]

3. Kế đến, Thông điệp làm sáng tỏ các hệ quả của thái độ sống ấy không những cho chính đôi vợ chồng, mà còn cho toàn thể gia đình, được hiểu như là cộng đoàn các ngôi vị. Còn cần phải xem xét lại luận cứ này lần nữa. Thông điệp nhấn mạnh rằng để điều hòa việc thụ thai cách chính đáng về mặt đạo đức đòi hỏi đôi vợ chồng trước hết phải có một thái độ sống xác quyết về gia đình và sinh sản: nghĩa là họ phải «đạt và có được xác tín vững vàng về các giá trị thật của sự sống và của gia đình».[46] Từ khởi đầu này, cần phải tiến hành một khảo sát toàn cục vấn đề như Thượng Hội đồng các Giám mục năm 1980 đã làm.[47] Bởi đó, đạo lí liên quan đến vấn đề đặc thù này về luân lí hôn nhân và gia đình, mà Thông điệp «Humanae Vitae» bàn tới, có một vị thế đúng đắn và tầm nhìn xứng hợp trong toàn thể bối cảnh của Tông huấn «Familiaris Consortio». Thần học về thân xác, xét đặc biệt như là một sư phạm về thân xác, theo nghĩa nào đó đặt nền tảng trên thần học về gia đình, và đồng thời cũng dẫn tới thần học ấy. Sư phạm về thân xác đó, mà chìa khóa ngày nay của nó là Thông điệp «Humanae Vitae», chỉ được hiểu trong bối cảnh đầy đủ của một tầm nhìn đúng đắn về các giá trị sự sống và gia đình.

4. Trong bản văn trích dẫn trên đây Đức Thánh cha Phaolô VI nhắc đến sự khiết tịnh của vợ chồng, khi viết tuân giữ sự tiết dục định kì là hình thức làm chủ bản thân, trong đó «sự thanh khiết của vợ chồng» được biểu lộ ra.[48]

Giờ đây khi chúng ta đi vào phân tích sâu hơn vấn đề này, cần phải nhớ toàn bộ đạo lí về sự thanh khiết được hiểu như là đời sống trong Thần Khí,[49] đã được chúng ta xem xét trước đây rồi, để mà hiểu những chỉ dẫn tương ứng của Thông điệp về đề tài «tiết dục định kì». Đạo lí ấy thật ra vẫn là lí do thật sự, khởi đi từ đó giáo huấn của đức Phaolô VI xác định việc điều hòa sinh sản và việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm là chính đáng về mặt đạo đức.

Mặc dù «tính định kì» của sự tiết dục được áp dụng ở đây cho cái gọi là các «nhịp tự nhiên»,[50] tuy nhiên, chính sự tiết dục là một thái độ luân lí nhất định và thường xuyên, là một nhân đức, và như thế toàn thể cách sống, được nhân đức ấy hướng dẫn, có tính đạo đức. Thông điệp nhấn mạnh khá rõ rằng ở đây vấn đề không chỉ là một «kĩ thuật» nhất định nào đó, nhưng là đạo đức theo nghĩa chặt của từ ngữ hiểu như là một lối sống luân lí.

Bởi thế, Thông điệp nêu lên đúng lúc, một đàng cần thiết phải tôn trọng trật tự đã được Đấng Tạo Hóa thiết định nơi thái độ sống nói trên, và đàng khác cần phải có một lí do đạo đức thúc đẩy trực tiếp.

5. Về khía cạnh thứ nhất chúng ta đọc thấy: «hưởng dùng ... tặng phẩm tình yêu phu thê trong khi kính trọng các định luật của tiến trình sinh sản có nghĩa là nhìn nhận mình không phải là người chủ có toàn quyền định đoạt các nguồn mạch của sự sống con người, nhưng thật ra mình chỉ là người phục vụ cho kế hoạch mà Tạo Hóa đã thiết định».[51] «Sự sống con người là thánh thiêng – như đấng tiền nhiệm đáng kính của chúng tôi Gioan XXIII trong Thông điệp «Mater et Magistra» nói – ngay từ lúc khởi đầu của nó đã trực tiếp được dấn mình trong hành vi sáng tạo của Thiên Chúa».[52] Về khía cạnh lí do thúc đẩy trực tiếp, Thông điệp «Humanae Vitae» đòi hỏi «để tạo cách quãng giữa những lần sinh nở cần phải có những lí do nghiêm trọng xuất phát hoặc bởi điều kiện sức khỏe thể lí hay tâm lí của vợ chồng, hoặc bởi các hoàn cảnh bên ngoài ...».[53]

6. Trong trường hợp điều hòa thụ thai chính đáng về luân lí được thực hiện bởi sự tiết dục định kì, đó rõ ràng là một sự thực hành đức khiết tịnh vợ chồng, tức là một thái độ đạo đức xác định. Trong ngôn ngữ thánh kinh, chúng ta gọi là sống trong Thần Khí.[54]

Sự điều hòa chính đáng về luân lí này còn được gọi là «điều hòa sinh sản tự nhiên», vì có thể được hiểu như là nó phù hợp với «luật tự nhiên». Chúng tôi hiểu ở đây «luật tự nhiên» theo nghĩa là «trật tự của tự nhiên» trong lãnh vực sinh sản, bởi vì nó được chấp nhận bởi lí trí ngay thẳng: trật tự ấy biểu lộ Kế hoạch của Tạo Hóa trên con người. Và chính điều này được Thông điệp, cùng với tất cả Truyền thống đạo lí lẫn thực hành Kitô giáo, nhấn mạnh cách đặc biệt: tính chất đạo đức của lối sống, biểu lộ qua sự thực hành điều hòa thụ thai «tự nhiên», được xác định không phải bởi đã trung thành với một «luật tự nhiên» vô ngã cho bằng là với Đấng-Tạo-Hóa ngôi vị, là nguồn và là Chúa của trật tự mà luật ấy biểu lộ.

Từ quan điểm này, việc lược giản vấn đề chỉ còn là tuân theo qui luật sinh học mà thôi, tách biệt khỏi «trật tự của tự nhiên» tức là tách rời khỏi «kế hoạch của Thiên Chúa» sẽ làm méo đi mó tư tưởng đích thực của Thông điệp «Humanae Vitae».[55]

Tài liệu này chắc hẳn đi theo hướng thực hành đúng theo qui luật sinh học, hơn thế nữa, còn khuyên nhủ những người trong cuộc học hỏi và áp dụng qui luật ấy một cách sâu sắc hơn, nhưng luôn hiểu qui luật ấy như là sự biểu lộ «trật tự của tự nhiên» tức là Kế hoạch quan phòng của Đấng Tạo Hóa, trung thành thực thi kế hoạch ấy là điều thiện hảo cho con người.


CXXI - «PHƯƠNG PHÁP TỰ NHIÊN» KHÔNG THỂ TÁCH BIỆT VỚI PHẠM VI ĐẠO ĐỨC

(Ngày 5 tháng 9 năm 1984)

1. Chúng ta đã nói trước đây về sự điều hòa thụ thai chính đáng, theo đạo lí của Thông điệp «Humanae Vitae»,[56] và Tông huấn «Familiaris Consortio». Cái gọi là «tự nhiên», được gán cho sự điều hòa việc thụ thai chính đáng (theo chu kì tự nhiên),[57] được hiểu như là một lối sống phù hợp với sự thật của ngôi vị và phẩm giá của ngôi vị: một phẩm giá «bởi bản tính» thuộc về con người có lí trí và tự do. Như là một hữu thể có lí trí và tự do, con người có thể và phải đọc lại cách sáng suốt nhịp điệu sinh học này vốn thuộc về bình diện tự nhiên. Con người có thể và phải hòa mình vào đó, để thực thi việc «làm cha – làm mẹ có trách nhiệm», mà theo ý định của Đấng Tạo Hóa nó được ghi khắc trong trật tự tự nhiên của sự sinh sôi nẩy nở loài người. Khái niệm về sự điều hòa thụ thai chính đáng không gì khác hơn là sự đọc lại «ngôn ngữ thân xác» trong sự thật. Chính những «nhịp tự nhiên nội tại trong các chức năng sinh sản» thuộc về sự thật khách quan của ngôn ngữ ấy, mà những người liên hệ phải đọc lại trong nội dung khách quan đầy đủ của nó. Cần phải nhớ rằng «thân xác nói» không những với toàn thể biểu lộ trường cửu của nam tính và nữ tính, nhưng còn với những cấu trúc của cơ quan nội tạng, của phản ứng thể lí và tâm thể lí. Tất cả điều đó phải có chỗ của nó trong ngôn ngữ thân xác, mà đôi vợ chồng dùng để đối thoại với nhau như những người được gọi sống hiệp thông «nên một xương một thịt».

2. Tất cả những nỗ lực nhằm hiểu biết ngày càng chính xác hơn các «nhịp tự nhiên» này, vốn được bộc lộ ra trong sinh sản của con người, tất cả mọi cố gắng của các nhà tham vấn gia đình và sau cùng là của chính đôi vợ chồng có liên quan, không được nhằm tới mục đích «sinh học hóa» ngôn ngữ của thân xác (hay «sinh học hóa đạo đức học» như một số người nghĩ cách sai lầm). Nhưng tất cả chỉ nhằm tới việc bảo đảm sự thật toàn vẹn cho «ngôn ngữ thân xác» ấy, qua đó đôi vợ chồng phải tự tỏ lộ một cách trưởng thành trước những đòi hỏi của việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm.

Thông điệp «Humanae Vitae» nhấn mạnh nhiều lần rằng việc «làm cha làm mẹ có trách nhiệm» được gắn liền với một nỗ lực và dấn thân không ngừng, và trách nhiệm ấy được thực hiện với cái giá của một sự hi sinh khổ chế nào đó.[58] Tất cả những biểu lộ này hay biểu lộ khác tương tự cho thấy rằng trong trường hợp của việc «làm cha làm mẹ có trách nhiệm» hay sự điều hòa thụ thai chính đáng, điều quan trọng là thiện ích thật sự của các nhân vị và những gì xứng với phẩm giá thật sự của ngôi vị.

3. Việc hưởng dùng «các thời kì không thụ thai» trong cuộc sống vợ chồng có thể là nguồn của lạm dụng, nếu như bằng cách đó đôi bạn tìm cách tránh sinh sản mà không có lí do chính đáng, và hạ thấp nó xuống dưới chuẩn mức sinh sản trong gia đình ấy. Cần thiết lập chuẩn mức số con này bằng cách không những xét tới thiện ích của gia đình mình, cũng như tình trạng sức khỏe và khả năng của chính đôi vợ chồng, nhưng còn phải xem xét thiện ích của xã hội nơi họ đang sống, của Giáo hội, và ngay cả của nhân loại toàn thể nữa.

Thông điệp «Humanae Vitae» trình bày việc «làm cha làm mẹ có trách nhiệm» như biểu lộ của một giá trị đạo đức cao cả. Việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm dẫu thế nào cũng không chỉ nhằm việc hạn chế sinh sản và lại càng không loại trừ việc có con cái. Trái lại việc ấy còn có nghĩa là sẵn lòng đón nhận nhiều con cái hơn. Trên hết, theo Thông điệp «Humanae Vitae», việc «làm cha làm mẹ có trách nhiệm» thể hiện một «tương quan sâu sắc hơn với bình diện luân lí gọi là khách quan do Chúa thiết lập, và lương tâm ngay thẳng phải giải thích trung thành».[59]

4. Sự thật của việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm cũng như sự thực hành nó đồng nhất với sự trưởng thành về luân lí của ngôi vị, và chính chỗ này rất thường tỏ lộ ra có sự dị biệt giữa cái mà Thông điệp gán một cách minh nhiên điều tối thượng và cái mà điều này được gán cho theo cách nghĩ thông thường.

Trong Thông điệp chiều kích đạo đức của vấn đề được nêu lên hàng đầu, bằng việc nhấn mạnh đến nhân đức điều độ hiểu cách đúng đắn. Trong giới hạn của chiều kích này cũng có một «phương pháp» thích hợp để hành động. Theo lối suy nghĩ thông thường, người ta thường tách biệt «phương pháp» khỏi chiều kích đạo đức vốn thuộc riêng về nó, và thực hành nó một cách thuần túy kĩ thuật, và duy lợi. Nếu tách biệt «phương pháp tự nhiên» khỏi chiều kích đạo đức, thì người ta sẽ không còn thấy được sự khác biệt giữa phương pháp này với các «phương pháp nhân tạo» và rốt cuộc xem nó cũng chỉ như một trong những hình thức ngừa thai khác mà thôi.

5. Từ quan điểm của đạo lí đích thực, được Thông điệp «Humanae Vitae» diễn tả, trình bày đúng đắn chính phương pháp ấy là điều quan trọng, vấn đề cũng được chính văn kiện này nhắc đến;[60] mà trên hết điều quan trọng là đào sâu chiều kích đạo đức, trong đó phương pháp «tự nhiên» mới có được ý nghĩa của một phương pháp ngay chính, «hợp đạo lí». Bởi thế, trong khung cảnh của phân tích hiện tại, đã đến lúc ta tập chú chủ yếu vào đề tài làm chủ bản thân và tiết dục như Thông điệp khẳng định. Nếu không giải thích thấu đáo đề tài ấy ta sẽ không đạt tới cốt lõi của sự thật luân lí, cũng không đạt tới cốt lõi của chân lí nhân học của vấn đề. Đầu tiên ta đã phải nêu lên ngay rằng những nền tảng của vấn đề này nằm trong thần học về thân xác: chính cái này (một khi nó trở thành và phải trở thành khoa sư phạm của thân xác) thực ra mới là «phương pháp» điều hòa sinh sản hợp đạo lí (được hiểu theo nghĩa sâu xa nhất và đầy đủ nhất).

6. Tiếp theo bằng cách mô tả các giá trị luân lí đặc biệt của phương pháp điều hòa sinh sản «tự nhiên» (tức là lương thiện, hợp đạo lí), tác giả của «Humanae Vitae» tự bộc lộ như sau: «Kỉ luật này ... đem lại cho đời sống gia đình hoa quả là sự yên ổn và bình an và giúp giải quyết các vấn đề khác nữa; nó khuyến khích quan tâm đến người bạn đời kia, giúp đôi vợ chồng dứt bỏ sự ích kỉ, vốn là kẻ thù của tình yêu đích thật, và đào sâu ý thức trách nhiệm của họ. Các cha mẹ nhờ đó có một ảnh hưởng sâu hơn và hiệu quả hơn khi giáo dục con cái; các trẻ nhỏ và thanh thiếu niên tăng trưởng trong sự biết lượng giá đúng đắn các giá trị nhân văn và trong sự phát triển thanh bình và hòa điệu các khả năng về tâm linh cũng như tâm cảm».[61]

7. Đoạn trích dẫn trên đây kiện toàn bức tranh của Thông điệp «Humanae Vitae» có ý nói về «sự thực hành chính đáng việc điều hòa sinh sản».[62] Như người ta thấy, đây không chỉ là một «phương pháp hành xử» trong một lãnh vực nhất định, nhưng là một thái độ sống đặt nền tảng trên sự trưởng thành luân lí của các nhân vị và đồng thời hoàn tất sự trưởng thành luân lí đó.


CXXII - LÀM CHA LÀM MẸ CÓ TRÁCH NHIỆM LÀ THÀNH PHẦN CỦA TOÀN THỂ LINH ĐẠO HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

(Ngày 3 tháng 10 năm 1984)

1. Trở về với đạo lí của Thông điệp «Humanae Vitae» chúng ta sẽ tìm lối để sau cùng có thể phác họa ra một đời sống thiêng liêng cho vợ chồng.

Chúng ta hãy lắng nghe những lời cao trọng sau đây:

«Hội Thánh, trong khi dạy những đòi hỏi bất khả xâm phạm của luật Chúa, loan báo ơn cứu độ và bằng các bí tích mở ra những con đường ân sủng, giúp biến đổi con người thành một thọ tạo mới, thọ tạo có thể sống trong tình yêu và tự do đích thật xứng hợp với ý định cao cả của Ðấng Tạo Hóa và Cứu Độ của mình và nhận ra ách của Chúa Kitô êm ái.

Các đôi vợ chồng Kitô hữu, nhờ đó, vâng theo tiếng nói của Người nên ghi nhớ rằng ơn gọi Kitô hữu của họ khởi đầu với Phép Rửa, và sau đó được chuyên biệt hóa và được củng cố bằng bí tích Hôn phối. Bởi đó, các đôi vợ chồng được thêm sức và như được thánh hiến qua việc trung thành hoàn tất các bổn phận của họ, qua thực hiện ơn gọi riêng của họ cho đến mức hoàn hảo và qua một chứng tá Kitô hữu của họ trước thế giới. Chúa giao phó cho họ nhiệm vụ làm cho mọi người thấy được sự thánh thiện và ngọt ngào của lề luật nối kết tình yêu của đôi vợ chồng dành cho nhau với sự hợp tác của họ với tình yêu Thiên Chúa, tác giả của sự sống con người».[63]

2. Thông điệp «Humanae Vitae» khi cho thấy hành động chống thụ thai (ngừa thai, phá thai) là xấu xa về luân lí, và đồng thời vạch nên một bức tranh toàn thể cho việc thực hành «lương thiện» sự điều hòa sinh sản, nghĩa là việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm, đã xây dựng một tiền đề giúp vạch ra các nét chính yếu cho một linh đạo Kitô giáo về ơn gọi và đời sống vợ chồng, và cũng như thế, về linh đạo ơn gọi làm cha mẹ và gia đình.

Đúng hơn có thể nói rằng Thông điệp giả thiết tiền đề đã có là toàn thể truyền thống của linh đạo này, cơ sở vốn bắt nguồn từ Kinh thánh như ta đã phân tích trước đây, đồng thời tạo cơ hội để suy tư cách mới mẻ về chúng và thiết lập một tổng hợp thích đáng.

Giờ đây cũng nên nhắc lại những gì đã nói về mối quan hệ hữu cơ giữa thần học thân xác và sư phạm thân xác. Quả thật, «thần học-sư phạm» ấy tự nó đã là cốt lõi của linh đạo vợ chồng. Và điều đó cũng đã được chỉ ra bởi những đoạn đã trích dẫn trên đây của Thông điệp.

3. Chắc hẳn, những người nhìn cách quá giản lược, nơi Thông điệp «Humanae Vitae», việc «làm cha làm mẹ có trách nhiệm» chỉ còn được xem như là áp dụng «những nhịp sinh học của sự thụ thai», thì họ sai lầm khi đọc lại và giải thích Thông điệp. Tác giả của Thông điệp quyết liệt bác bỏ và chống lại mọi hình thức giải thích rút gọn (và theo nghĩa đó, là «thiên vị»), và kiên trì đề xướng lại cách hiểu toàn diện. Làm cha làm mẹ có trách nhiệm, theo nghĩa trọn vẹn, không gì khác hơn là một thành phần quan trọng của toàn thể linh đạo hôn nhân và gia đình, của ơn gọi mà bản văn trích dẫn Thông điệp «Humanae Vitae» nói tới, khi khẳng định rằng đôi vợ chồng phải thực hiện «ơn gọi riêng của mình cho đến mức trọn hảo».[64] Chính bí tích hôn nhân thêm sức cho họ và như thánh hiến họ hầu đạt tới đích ấy.[65]

Dưới ánh sáng của đạo lí, được diễn tả trong Thông điệp, chúng ta nên lưu ý chủ yếu đến «sức mạnh tăng cường» vốn gắn liền với «chính sự thánh hiến» (sui generis) của bí tích hôn nhân.

Vì việc phân tích vấn đề đạo đức của văn kiện của đức Phaolô VI tập trung trên hết vào tính hợp pháp của lề luật tương ứng, nên phác thảo linh đạo hôn nhân ở đó có ý nêu bật chính những «sức mạnh» này giúp đời sống hôn nhân có thể trở thành chứng từ Kitô hữu đích thật.

4. «Chúng tôi hoàn toàn không có ý định giấu kín những nỗi khó khăn đôi khi nghiêm trọng vốn gắn liền với đời sống vợ chồng Kitô hữu: đối với họ, cũng như đối với mỗi người, “cửa hẹp và đường chật thì đưa đến cõi sống”.[66] Nhưng niềm hi vọng ở đời này phải soi sáng lối đường của họ, đang khi trong hiện tại họ can đảm cố gắng sống đức khôn ngoan, sự công bằng và tinh thần đạo đức, và biết rằng bộ mặt của thế gian này đang qua đi».[67]

Trong Thông điệp, viễn tượng của đời sống vợ chồng, ở mỗi giai đoạn, đều được ghi dấu bởi đặc trưng chủ nghĩa duy thực Kitô giáo, và chính điều này giúp phần lớn «sức mạnh» hình thành nên linh đạo làm vợ chồng và cha mẹ theo tinh thần của một sư phạm đích thực của tâm hồn và thân xác.

Chính ý thức về «cuộc sống mai sau», ta có thể nói, mở ra một chân trời rộng lớn cho những sức mạnh này vốn phải hướng họ đi con đường hẹp[68] và dẫn họ đi qua cửa hẹp[69] của ơn gọi Tin mừng.

Thông điệp nói: «Các đôi vợ chồng phải hết sức nỗ lực, nhưng họ được nâng đỡ bởi đức tin và đức cậy vốn «không làm ta thất vọng bởi tình yêu Chúa đã được đổ tràn vào con tim chúng ta nhờ Thánh Thần, đấng được ban cho chúng ta”»[70].

5. «Sức mạnh» cốt yếu và cơ bản đó là tình yêu được cấy ghép vào tâm hồn («đổ tràn vào con tim») bởi Thánh Thần. Sau đó, Thông điệp chỉ ra đôi vợ chồng phải khẩn cầu được «sức mạnh» cốt yếu ấy và mọi «ơn Chúa trợ lực» khác bằng cầu nguyện như thế nào; phải kín múc ân sủng và tình yêu tại nguồn mạch Thánh Thể luôn sống động làm sao; phải «kiên trì trong khiêm tốn» vượt qua những thiếu sót và tội lỗi của mình nơi bí tích sám hối làm sao.

Đó là những phương thế – không thể sai lầm và thiết yếu – cho việc huấn luyện linh đạo Kitô giáo về đời sống vợ chồng và gia đình. Bằng những phương thế ấy «sức mạnh» cốt yếu và sáng tạo tinh thần của tình yêu mới nối kết cả tâm hồn và thể xác của hai chủ thể nam và nữ của họ lại với nhau. Quả thật, tình yêu ấy giúp họ xây dựng toàn thể đời sống chung vợ chồng theo «sự thật của dấu chỉ», nhờ đó cuộc hôn nhân mới được thiết lập xứng với phẩm giá bí tích của nó, như trung tâm điểm của Thông điệp mạc khải.[71]


CXXIII - TÌNH YÊU GẮN LIỀN VỚI ĐỨC KHIẾT TỊNH BIỂU LỘ QUA SỰ TIẾT DỤC

(Ngày 10 tháng 10 năm 1984)

1. Chúng ta cùng tiếp tục phác họa linh đạo vợ chồng dưới ánh sáng của Thông điệp «Humanae Vitae».

Theo đạo lí của Thông điệp và cũng phù hợp với các nguồn Thánh kinh và toàn thể thánh truyền, thì tình yêu – từ một góc nhìn chủ quan – là «sức mạnh», tức khả năng của tinh thần con người, có tính chất «thần học» (hay đúng hơn, có tính chất «đối thần»). Đây là sức mạnh được phú ban cho con người để tham dự vào tình yêu mà chính Thiên Chúa đã yêu trong mầu nhiệm Tạo Dựng và Cứu Chuộc. Đó là tình yêu biết «vui khi thấy điều chân thật»,[72] biểu lộ niềm vui thiêng liêng («frui» của thánh Augustinô) về mọi giá trị đích thực: niềm vui giống niềm vui của chính Đấng Sáng Tạo, thuở ban đầu Ngài đã thấy rằng quả «thật là tốt đẹp».[73]

Nếu như các sức mạnh của dục vọng nhằm tách «ngôn ngữ thân xác» khỏi sự thật, nghĩa là làm cho ngôn ngữ ấy thành một ngụy ngôn, thì ngược lại sức mạnh của tình yêu làm tăng sức cho nó luôn tươi mới trong sự thật ấy, để mầu nhiệm cứu chuộc thân xác có thể được sinh hoa kết quả trong đó.

2. Chính tình yêu ấy, tình yêu đã làm cho vợ chồng có thể đối thoại được với nhau và đối thoại theo sự thật viên mãn của đời sống hôn nhân, cũng đồng thời là một sức mạnh, hay đúng hơn, là khả năng của tính cách luân lí, được chủ động qui hướng về sự thiện toàn hảo, và từ đó mà hướng về mỗi cái thiện hảo thực. Và do vậy nhiệm vụ của nó là bảo vệ sự thống nhất không thể tách biệt «hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng», mà Thông điệp[74] đã nói tới, có nghĩa là bảo vệ giá trị của sự kết hợp vợ chồng thực sự (tức là sự hiệp thông các ngôi vị) lẫn giá trị của việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm (trong hình thức chín chắn của họ và xứng với phẩm giá con người).

3. Theo ngôn ngữ truyền thống, tình yêu, là «sức mạnh» thượng đẳng sắp đặt các hành động của con người, của người chồng và của người vợ, trong tầm qui hướng đến các cùng đích của hôn nhân. Dẫu Hiến chế của Công Đồng lẫn Thông điệp, trong khi lập luận, không dùng lối nói quen thuộc một thời, nhưng cả hai tài liệu đều bàn tới điều mà những diễn ngữ truyền thống tham chiếu.

Tình yêu, như một sức mạnh thượng đẳng người nam và người nữ đón nhận từ Thiên Chúa cùng với sự «thánh hiến» đặc biệt do bí tích hôn phối, hàm ẩn một sự sắp xếp trật tự đúng đắn các cùng đích, theo đó – trong giáo huấn truyền thống của Hội Thánh – hình thành nên trật tự luân lí (hay đúng hơn, trật tự «đối thần và luân lí») của đời sống vợ chồng.

Đạo lí của Hiến chế «Gaudium et Spes», cũng như của Thông điệp «Humanae Vitae», làm sáng tỏ chính bình diện luân lí khi tham chiếu đến tình yêu, được hiểu như là một sức mạnh thượng đẳng thông truyền cho nội dung thích đáng và đáng giá cho các hành vi vợ chồng theo sự thật của hai ý nghĩa kết hợp và sinh sản, trong sự tôn trọng mối liên kết không thể tách lìa của chúng.

Trong cách trình bày mới này, giáo huấn truyền thống về mục đích của hôn nhân (và về thứ bậc ưu tiên của chúng) được xác nhận lại và đồng thời được đào sâu từ góc nhìn đời sống bên trong của vợ chồng, tức là linh đạo hôn nhân và gia đình.

4. Nhiệm vụ của tình yêu, một tình yêu “được đổ vào lòng” đôi vợ chồng như sức mạnh thiêng liêng nền tảng của khế ước ước phu thê của họ, như đã nói, là bảo vệ giá trị của sự hiệp thông thật sự của đôi vợ chồng, cũng như giá trị của việc làm cha làm mẹ thực sự có trách nhiệm. Sức mạnh của tình yêu – đích thật theo nghĩa thần học và đạo đức – được diễn tả trong sự kiện này, là tình yêu thống nhất cách đúng đắn «hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng», và loại trừ (không những về mặt lí thuyết mà nhất là về mặt thực hành) «sự mâu thuẫn» có thể xác minh được trong lãnh vực này. Sự «mâu thuẫn» đó là lí do thường xuyên nhất khiến người ta phản đối Thông điệp «Humanae Vitae» và giáo huấn của Hội Thánh. Chúng ta cần phân tích vào chiều sâu không chỉ về mặt thần học mà còn về mặt nhân học (chúng ta đã cố gắng làm điều đó trong toàn thể suy tư hiện tại), để cho thấy rằng ở đây không cần nói về «mâu thuẫn», nhưng chỉ cần nói về những «khó khăn». Thế nên, chính Thông điệp nhấn mạnh đến «những khó khăn» đó trong các đoạn khác nhau.

Điều này được rút ra từ sự kiện là sức mạnh của tình yêu được tuôn vào trong con người vốn bị dục vọng khống chế: nơi con người chủ thể tình yêu gặp phải ba thứ dục vọng,[75] nhất là với dục vọng xác thịt nó làm biến dạng đi chân lí của «ngôn ngữ thân xác». Và do đó, cả tình yêu cũng không thể được thể hiện trong sự thật của «ngôn ngữ thân xác», nếu không chế ngự được dục vọng.

5. Nếu yếu tố chủ chốt của linh đạo phu thê và phụ mẫu – sức mạnh cốt yếu mà đôi vợ chồng phải liên tục kín múc từ «sự thánh hiến» bí tích – là tình yêu, thì tình yêu này, như ta biết từ Thông điệp,[76] bởi bản chất của nó gắn liền với đức khiết tịnh vốn được biểu lộ ra qua sự làm chủ bản thân, hay tiết dục: cách riêng, như một sự tiết dục định kì. Theo lối nói của Kinh thánh, điều đó ám chỉ đến điều mà Tác giả Thư gửi Tín hữu Êphêsô nói trong đoạn văn «kinh điển» khi khuyên nhủ đôi bạn phải «tùng phục lẫn nhau trong niềm kính sợ Chúa».[77]

Có thể nói rằng Thông điệp «Humanae Vitae» là chính thông điệp triển khai chân lí thánh kinh về linh đạo Kitô giáo về đời sống vợ chồng và gia đình. Tuy nhiên, để làm cho sáng tỏ hơn nữa cần một phân tích sâu xa hơn nhân đức tiết chế và ý nghĩa đặc thù của nó đối với sự thật của «ngôn ngữ thân xác» hai bên dành cho nhau trong cuộc sống vợ chồng và (một cách gián tiếp) trong phạm vi rộng lớn hơn của các mối quan hệ nam nữ.

Chúng ta sẽ đi vào phân tích đó trong các suy tư suốt các buổi thứ tư tiếp theo.


CXXIV - TIẾT DỤC BẢO VỆ PHẨM GIÁ CỦA HÀNH VI VỢ CHỒNG

(Ngày 24 tháng 10 năm 1984)

1. Như đã báo trước, hôm nay chúng ta sẽ phân tích nhân đức tiết dục.

«Tiết dục», thuộc một một nhân đức tổng quát hơn đó là tiết độ, hệ tại ở khả năng làm chủ, kiểm soát và qui hướng các xung năng tính dục (dục vọng xác thịt) và những hệ quả của chúng, vào con người chủ thể tâm-thể-lí. Khả năng ấy, xét như tâm hướng thường xuyên của ý chí ta, xứng đáng được gọi là một nhân đức.

Chúng ta đã biết từ những phân tích trước đây rằng dục vọng xác thịt, và «ước muốn» tính dục liên hệ được khơi dậy từ đó, được biểu lộ bằng một xung động đặc biệt thuộc phản ứng thể xác và hơn nữa bởi một sự kích thích tâm lí – tình cảm của xung năng tình dục.

Con người chủ thể để có thể làm chủ được xung năng và kích động ấy phải dấn mình vào một cuộc tự đào luyện dần dần biết kiểm soát ý chí, tình cảm, cảm xúc của bản thân, những cái đó cần phải được thể hiện ra bắt đầu từ những hành vi đơn sơ nhất, vốn từ đó những quyết định trong lòng rất dễ biến thành hành động. Điều đó, hiển nhiên giả thiết phải có một nhận thức rõ ràng các giá trị biểu lộ ra nơi lề luật, và một sự trưởng thành từ đó trong những xác tín vững chắc, vốn là nguồn gốc phát sinh ra nhân đức tương ứng, nếu có kèm theo một ý chí sẵn sàng hành động phù hợp. Đó chính là nhân đức tiết độ (tự chủ), biểu lộ ra như điều kiện cơ bản, vì để cho ngôn ngữ thân xác hai vợ chồng dùng để trao đổi với nhau được ở mãi trong sự thật, và vì để cho đôi vợ chồng «phục tùng lẫn nhau trong niềm kính sợ Đức Kitô», theo lời Thánh Kinh.[78] «Việc tùng phục lẫn nhau» này có nghĩa là một sự quan tâm chung đến sự thật của «ngôn ngữ thân xác»; trái lại, tùng phục «trong sự kính sợ Đức Kitô» chỉ ơn kính sợ Thiên Chúa (một ơn của Chúa Thánh Thần) đi kèm theo nhân đức tiết độ.

2. Điều này rất quan trọng để hiểu cho đúng nhân đức tiết độ và, cách riêng điều gọi là «sự tiết dục định kì», mà Thông điệp «Humanae Vitae» nói tới. Xác tín rằng nhân đức tiết độ thì «nghịch» cùng dục vọng xác thịt là đúng, nhưng không hoàn toàn đầy đủ. Không đầy đủ, đặc biệt là khi chúng ta xem xét sự kiện nhân đức này không thể hiện cũng không hoạt động một cách trừu tượng và đơn độc, nhưng luôn luôn trong sự kết hợp với các nhân đức khác (nexus virtutum), như khôn ngoan, công bình, dũng cảm, và nhất là với đức bác ái.

Dưới ánh sáng của những khảo sát này, dễ hiểu rằng sự tiết dục không giới hạn chỉ ở chỗ chống lại dục vọng xác thịt, nhưng, qua sự chống chọi này ta cũng mở lòng ra với các giá trị sâu xa hơn, chín chắn hơn, những giá trị gắn liền với ý nghĩa hôn phối của thân xác người nam và người nữ, cũng như gắn liền với sự tự do thật sự của tặng phẩm dâng hiến giữa hai ngôi vị cho nhau. Dục vọng xác thịt tự nó, vì tìm kiếm trên hết sự thỏa mãn khoái lạc xác thịt dâm đãng, làm cho con người theo nghĩa nào đó mù quáng và dửng dưng với các giá trị sâu xa hơn, vốn xuất phát tự tình yêu và đồng thời cũng cấu thành tình yêu trong sự thật nội tại của nó.

3. Bằng cách đó, đặc tính cốt yếu của đức khiết tịnh vợ chồng còn được bộc lộ trong mối liên kết của nó với «sức mạnh» của tình yêu được đổ tràn vào lòng đôi vợ chồng nhờ việc «thánh hiến» của bí tích hôn nhân. Hơn nữa, cũng hiển nhiên, lời mời gọi hướng đến đôi vợ chồng hãy «phục tùng lẫn nhau trong niềm kính sợ Chúa Kitô»,[79] dường như mở ra không gian nội tâm trong đó cả hai người mỗi ngày một nhạy cảm hơn với các giá trị sâu xa hơn và chín chắn hơn, những giá trị vốn được nối kết với ý nghĩa hôn phối của thân xác và sự tự do thật của tặng phẩm dâng hiến.

Nếu đức khiết tịnh vợ chồng (và khiết tịnh nói chung) bộc lộ trước hết như là khả năng kháng cự lại dục vọng xác thịt, thì sau đó dần dần tỏ lộ như là một khả năng riêng về nhận thức, yêu mến và thực hiện các ý nghĩa ấy của «ngôn ngữ thân xác», những ý nghĩa ấy dục vọng vẫn còn hoàn toàn chưa biết đến và chúng dần dà làm phong phú thêm cho cuộc đối thoại vợ chồng, bằng cách thanh luyện cuộc đối thoại, làm cho nó đi vào chiều sâu và đồng thời biến nó nên đơn sơ hơn.

Bởi thế, sự khổ chế qua tiết dục, mà Thông điệp[80] nói đến, không làm nghèo nàn đi «những biểu lộ tình cảm», mà đúng hơn làm cho những biểu lộ ấy đậm đà tâm linh hơn, và vì thế mà làm phong phú chúng hơn.

4. Phân tích sự tiết độ theo cách thức đó, trong cái năng động riêng của nhân đức này (về mặt nhân học, đạo đức học và thần học), chúng ta nhận thấy không còn xuất hiện «sự mâu thuẫn» bên ngoài nữa, sự mâu thuẫn mà Thông điệp «Humanae Vitae» và đạo lí của Hội Thánh về luân lí hôn nhân thường hay bị đả kích. Theo những người phản đối thì có «mâu thuẫn» giữa hai ý nghĩa (kết hợp và sinh sản) của hành vi vợ chồng[81], vì nếu tách biệt chúng ra hai vợ chồng sẽ không có quyền giao hợp nữa khi họ không thể sinh sản một cách có trách nhiệm được nữa.

Về vẻ «mâu thuẫn» này, nếu ta nghiên cứu sâu, Thông điệp «Humanae Vitae» có nêu lên câu trả lời. Đức Giáo hoàng Phaolô VI, quả thật, xác nhận không có «mâu thuẫn» mà chỉ có một «khó khăn» gắn liền với toàn thể tình trạng nội tâm của «con người của dục vọng». Ngược lại, chính vì lí do của nỗi «khó khăn» ấy, mà đời sống chung của đôi vợ chồng, với ý chí kiên trì sống tiết độ, có được an ổn là nhờ cậy đến ân sủng của bí tích hôn phối vốn «thêm sức và gần như là thánh hiến»[82] đôi bạn.

5. Hơn nữa hôn nhân an ổn có nghĩa là có một sự hòa hợp chủ quan giữa việc làm cha làm mẹ (có trách nhiệm) và sự hiệp thông các ngôi vị, một hiệp thông được xây dựng bởi đức khiết tịnh hôn nhân. Quả thật, trong đức khiết tịnh hoa quả của sự tiết độ chín muồi dần trong tâm hồn. Nhờ sự chín muồi những hoa quả trong tâm hồn đó mà chính hành vi vợ chồng đạt được tính cách quan trọng và phẩm giá của nó trong ý nghĩa hướng tới sinh sản; đồng thời tất cả «những biểu lộ tình yêu»[83], vốn được dùng để bày tỏ sự hiệp thông nhân vị giữa vợ chồng tương ứng với sự dị biệt phong phú giữa người nam và người nữ của từng đôi bạn, mới có được ý nghĩa thích đáng.

6. Phù hợp với kinh nghiệm và truyền thống, Thông điệp mạc khải hành vi vợ chồng cũng là một «biểu lộ tình yêu»,[84] nhưng là một «biểu lộ tình yêu» đặc biệt, bởi lẽ, nó đồng thời còn có ý nghĩa hướng tới sinh sản. Do đó, hành vi vợ chồng hướng đến biểu lộ sự hợp nhất ngôi vị, nhưng không chỉ duy có như thế. Mà đồng thời Thông điệp còn chỉ, dù cách gián tiếp, nhiều thứ «biểu lộ tình yêu», sinh hiệu quả chỉ để diễn tả sự kết hợp nhân vị của vợ chồng.

Nhiệm vụ của đức khiết tịnh hôn nhân, hay nói chính xác hơn, nhiệm vụ của đức tiết độ không chỉ hệ tại ở việc bảo vệ tính cách quan trọng và phẩm giá của hành vi vợ chồng trong tương quan với ý nghĩa hướng tới sinh sản của nó, mà còn bảo vệ tính cách quan trọng và phẩm giá vốn có của hành vi này xét như là nó diễn tả sự kết hợp liên vị, bằng cách tỏ lộ cho tâm thức và kinh nghiệm của các đôi vợ chồng tất cả những thứ «biểu lộ tình yêu» khác có thể có muốn diễn tả sự hiệp thông sâu xa đó giữa họ.

Thật ra, vấn đề ở đây là không làm tổn hại đến sự hiệp thông của vợ chồng cả trong trường hợp khi vì những lí do đúng đắn họ phải kiêng hành vi giao hợp vợ chồng. Và, hơn nữa, sự hiệp thông ấy được xây dựng không ngừng, ngày này qua ngày khác, qua những «biểu lộ tình yêu» thích hợp, phải tạo thành một mảnh đất lớn, trên đó khi có điều kiện phù hợp chín muồi quyết định làm hành vi giao hợp vợ chồng hợp luân lí.


CXXV - NHÂN ĐỨC TIẾT ĐỘ GẮN LIỀN VỚI TOÀN THỂ LINH ĐẠO HÔN NHÂN

(Ngày 31 tháng 10 năm 1984)

1. Chúng ta tiếp tục phân tích đức tiết độ dưới ánh sáng của giáo huấn của Thông điệp «Humanae Vitae».

Người ta thường nghĩ rằng tiết dục tạo nên những căng thẳng bên trong, một điều cần phải tránh thoát. Dưới ánh sáng của những gì chúng ta đã phân tích thì tiết dục, nếu hiểu cách đầy đủ, đúng hơn sẽ là con đường duy nhất để giải phóng con người khỏi những căng thẳng ấy. Điều ấy không có nghĩa gì khác hơn là một nỗ lực thiêng liêng không những nhằm diễn tả «ngôn ngữ thân xác» trong sự thật, mà còn «biểu lộ tình yêu» thật phong phú.

2. Nỗ lực ấy có thể thực hiện được không? Nói cách khác (và dưới khía cạnh khác) đó là thắc mắc về «tính khả thi của luật luân lí» mà «Humanae Vitae» đã lưu ý và xác nhận. Đó là một trong những câu hỏi cốt yếu nhất (và hiện nay cũng là cấp bách nhất) trong lãnh vực linh đạo hôn nhân.

Hội Thánh hoàn toàn xác tín nguyên tắc khẳng định việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm (theo nghĩa như đã nói trước đây) là đúng đắn và điều đó không chỉ vì những lí do «nhân khẩu học» mà còn bởi những lí do cốt yếu hơn. Chúng ta gọi làm cha làm mẹ có trách nhiệm những người cha người mẹ sống phù hợp với phẩm giá nhân vị của vợ chồng, phù hợp với sự thật của nhân vị họ và của hành vi vợ chồng. Từ đó mới có mối tương quan chặt chẽ và trực tiếp nối kết chiều kích này với toàn thể linh đạo hôn nhân.

Đức Giáo hoàng Phaolô VI, trong «Humanae Vitae», đã diễn tả điều mà nhiều nhà luân lí và học giả cả người không công giáo[85] có thế giá đã khẳng định, cụ thể là trong lãnh vực này, một lãnh vực nhân bản và nhân vị rất sâu sắc và cốt yếu, trước hết ta cần phải tham chiếu đến con người như là một nhân vị, tham chiếu đến chủ thể kẻ tự quyết định về chính mình, chứ không phải các «phương tiện» biến con người thành «đồ vật» (để thao túng) và «phi nhân vị hóa» con người. Bởi thế, vấn đề ở đây là ý nghĩa «duy nhân vị» đích thật cho công cuộc phát triển và tiến bộ của nền văn minh nhân loại.

3. Nỗ lực ấy có thể thực hiện được không? Tất cả vấn đề của Thông điệp «Humanae Vitae» không đơn giản chỉ là về sự thụ thai con người (vấn đề những «chu kì mang thai tự nhiên ») trên bình diện sinh học, mà chạm lên tới chính chủ thể tính của con người, chạm tới «cái tôi» nhân vị, bởi đó họ là một người đàn ông hay một người đàn bà.

Trong Công Đồng Vatican II, khi thảo luận đến chương «Phẩm giá cao quí của hôn nhân và gia đình» của «Gaudium et Spes», người ta nói cần thiết phải làm một phân tích sâu xa về các phản ứng (và cả về những cảm xúc) gắn liền với ảnh hưởng tương hỗ của nam tính và nữ tính trên chủ thể con người.[86] Vấn đề này không thuộc về sinh học nhiều cho bằng thuộc về tâm lí học: từ sinh học và tâm lí học tiếp đến chuyển qua lãnh vực linh đạo hôn nhân và gia đình. Quả thật, vấn đề ở đây liên hệ chặt chẽ với phương pháp hiểu nhân đức tiết độ, nghĩa là biết làm chủ bản thân và đặc biệt là, sự tiết dục định kì.

4. Phân tích kĩ càng tâm lí con người (cũng là sự tự phân tích bản thân cách chủ quan, rồi sau đó trở thành phân tích một «đối tượng» khả đạt đối với khoa học nhân văn) giúp ta khẳng định một số điều cốt yếu. Quả thật, trong các tương quan liên vị diễn tả tác động tương hỗ giữa nam tính và nữ tính, ngoài một phản ứng có thể gọi là «kích thích» trong chủ thể cảm xúc – tâm lí trong bản ngã nhân tính còn phóng thích một phản ứng khác có thể và phải được gọi là «cảm xúc». Cho dù hai loại phản ứng này có vẻ kết hợp với nhau, nhưng người ta có thể phân biệt chúng trong kinh nghiệm thực tế và «tách biệt chúng» tùy theo nội dung hoặc «đối tượng» của chúng.[87]

Sự dị biệt khách quan giữa hai loại phản ứng này là do sự kiện sự kích thích trước hết «trên thể xác» và theo nghĩa đó, nó là kích thích «tình dục»; còn cảm xúc – dẫu được gây ra bởi phản ứng tương hỗ giữa nam tính và nữ tính – liên hệ trên hết đến tha nhân kia, «toàn thể» nhân vị con người đó. Có thể nói rằng đó là một «cảm xúc do ngôi vị tạo ra», có liên hệ tới nam tính hay nữ tính của người ấy.

5. Những gì chúng tôi khẳng định ở đây liên quan đến những phản ứng tâm lí giữa nam giới và nữ giới với nhau giúp ta hiểu hoạt động của đức tiết độ, nhân đức mà chúng ta đã nói tới trước đây. Đây không chỉ là – và cũng không chính yếu là – khả năng «kiêng khem» tức sự làm chủ được nhiều phản ứng đan dệt nhau trong tác động tương hỗ giữa nam giới và nữ giới: chức năng như thế có thể còn được cho là «tiêu cực». Nhưng còn có một chức năng khác (có thể gọi là «tích cực») làm chủ bản thân: và đó chính là khả năng điều khiển các phản ứng tương ứng, xét về cả nội dung cũng như về đặc tính của chúng.

Như đã nói, trong lãnh vực các tương tác giữa nam giới và nữ giới đối với nhau, các «kích thích» và «cảm xúc» không những xuất hiện như hai kinh nghiệm rõ ràng và khác biệt của bản ngã nhân vị, nhưng rất thường xuyên hai yếu tố khác biệt ấy kết hợp với nhau xuất hiện trong cùng một kinh nghiệm. Tùy theo hoàn cảnh khác nhau về bản chất bên trong hay bên ngoài, tỉ lệ của hai yếu tố này xuất hiện khác nhau trong mỗi kinh nghiệm nhất định. Có những lúc yếu tố này kia hiển lộ rõ ràng hơn, lúc khác chúng xuất hiện cân bằng.

6. Sự tiết độ, tức khả năng điều hướng các «kích thích» và «cảm xúc» trong tương tác giữa người nam và người nữ, có nhiệm vụ cốt yếu duy trì sự cân bằng giữa sự hiệp thông vợ chồng diễn tả qua việc hai người muốn chỉ hợp giao thân mật riêng tư với nhau thôi và sự hiệp thông (ít là hiểu ngầm) nhằm đến việc sinh con có trách nhiệm. Quả thật, các «kích thích» và «cảm xúc» có thể, từ phía chủ thể, đã định hướng và xác định tính chất trước cho «ngôn ngữ của thân xác» giữa hai vợ chồng rồi.

Kích thích tìm cách bộc lộ trước hết dưới hình thức khoái lạc dục tình và thể xác, hướng đến hành vi vợ chồng vốn (tùy theo «chu kì thụ thai tự nhiên») có khả năng sinh sản. Còn cảm xúc gây nên bởi một người khác, cho dù trong nội dung tình cảm của nó cảm xúc tùy thuộc vào nữ tính hay nam tính của «người kia», tự nó cảm xúc không hướng đến hành vi vợ chồng, nhưng tự giới hạn vào các «biểu lộ tình cảm», qua đó biểu lộ ra ý nghĩa hôn phối của thân xác, nhưng không hàm chứa ý nghĩa (tiềm ẩn) sinh sản của nó.

Dễ hiểu những hệ luận rút ra từ đó những gì liên quan đến việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm. Những hệ luận này có tính chất luân lí.


CXXVI - ĐỨC TIẾT ĐỘ PHÁT TRIỂN SỰ HIỆP THÔNG NGÔI VỊ GIỮA NGƯỜI NAM VÀ NGƯỜI NỮ

(Ngày 7 tháng 11 năm 1984)

1. Chúng ta tiếp tục phân tích đức tiết độ dưới ánh sáng của đạo lí của Thông điệp «Humanae Vitae».

Cần phải nhắc lại rằng các nhà tư tưởng kinh điển lớn về đạo đức học (và về nhân học), cả thời tiền Kitô giáo lẫn Kitô giáo (như Tôma Aquinô), nhìn đức tiết độ không chỉ là khả năng «kềm chế» các phản ứng thuộc thân xác và nhục dục, mà hơn thế còn là khả năng kiểm soát và hướng dẫn toàn thể lãnh vực khoái cảm và cảm xúc của con người. Vấn đề ở đây muốn bàn tới là khả năng điều hướng cả những kích thích để chúng phát triển đúng hướng, và cả chính những cảm xúc nữa, bằng cách qui hướng khả năng ấy làm cho tính chất “thanh khiết” và, theo nghĩa nào đó, “không thiên tư” của nó đi vào chiều sâu và mạnh mẽ hơn trong nội tâm.

2. Hai yếu tố này, kích thích và cảm xúc, tuy khác biệt nhưng không đối kháng. Điều đó không có nghĩa là hành vi vợ chồng, như hệ quả của sự kích thích, không đồng thời bao hàm tình cảm đối với người kia. Nhưng hẳn phải là như thế không được khác.

Trong hành vi vợ chồng, sự giao phối thân mật phải bao hàm một cường độ cảm xúc đặc biệt, đúng hơn, phải có tình cảm đối với tha nhân. Điều đó cũng có nói trong Thư gửi Tín hữu Êphêsô, dưới hình thức của lời khuyên hướng đến các đôi vợ chồng: «Anh em hãy tùng phục lẫn nhau vì lòng kính sợ Đức Kitô»[88].

Sự khác biệt giữa «kích thích» và «cảm xúc» mà bài phân tích này nói tới chỉ chứng tỏ độ phong phú chủ quan về phản ứng tình cảm của chủ thể nhân vị. Sự phong phú này loại trừ mọi sự giản lược phiến diện và cho thấy đức tiết độ có thể được thực thi như là khả năng điều khiển cách biểu hiện sự kích thích cũng như cảm xúc, khơi dậy bởi tương tác của sự dị biệt giới tính nam nữ.

3. Đức tiết độ, hiểu như thế, có một vai trò cốt yếu là để giữ thăng bằng trong tâm hồn giữa hai ý nghĩa, kết hợp và sinh sản, của hành vi vợ chồng,[89] trong viễn tượng của việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm thật sự.

Thông điệp «Humanae Vitae» dành mọi sự quan tâm cần thiết cho khía cạnh sinh học của vấn đề, nghĩa là, tính chất chu kì của sự thụ thai. Cho dù «tính chất định kì» ấy có thể được gọi, dưới ánh sáng của Thông điệp, là dấu chỉ quan phòng cho sự làm cha làm mẹ có trách nhiệm, thế nhưng một vấn đề như thế không chỉ được giải quyết ở trên bình diện này mà thôi, vì đây là vấn đề có một ý nghĩa về nhân vị sâu xa và thần học bí tích.

Thông điệp dạy việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm «như một sự thẩm định cho tình yêu hôn nhân trưởng thành» và do đó thông điệp không những có giải đáp cho câu hỏi cụ thể đặt ra trong lãnh vực đạo đức hôn nhân, mà còn, như đã nói, chỉ ra một phác họa cho linh đạo vợ chồng mà chúng tôi ước muốn ít là được phác thảo ra.

4. Cách hiểu và thực hành đúng đắn sự tiết dục định kì là nhân đức (đúng hơn, theo «Humanae Vitae» số 21, gọi là sự «làm chủ bản thân») quyết định «tính tự nhiên» của phương pháp, cũng được gọi bằng cái tên «phương pháp tự nhiên»: đây là «tính tự nhiên» ở tầm mức nhân vị. Bởi đó không được nghĩ việc áp dụng các qui luật sinh học một cách máy móc. Chính nhận thức về các «chu kì thụ thai» – cho dù cần thiết – vẫn chưa tạo nên sự tự do nội tâm của một hành động dâng hiến, vốn có bản chất hiển nhiên là thiêng liêng và lệ thuộc vào sự trưởng thành của tâm hồn con người. Sự tự do này giả thiết có khả năng điều khiển các phản ứng dục tình và xúc cảm, đến độ khiến ta có thể dâng hiến bản thân mình cho «cái tôi» tha nhân kia trên cơ sở sở hữu chín chắn «cái tôi» của bản thân mình như một chủ thể có xác thân và tình cảm.

5. Như đã lưu ý trong các phân tích về thánh kinh và thần học trước đây, thân xác con người với nam tính và nữ tính của nó được tiền định cho sự hiệp thông các ngôi vị (communio personarum). Ý nghĩa hôn phối của thân xác hệ tại ở chỗ đó.

Chính ý nghĩa hôn phối này của thân xác đã bị làm biến dạng, gần như ở tại nền móng của nó, bởi dục vọng (đặc biệt là bởi dục vọng xác thịt thuộc lãnh vực «ba thứ dục vọng»). Nhân đức tiết độ dưới hình thức trưởng thành của nó tỏ lộ dần dần khía cạnh «thanh khiết» của ý nghĩa hôn phối của thân xác. Bằng cách đó, sự tiết độ phát triển mối hiệp thông ngôi vị của người nam và người nữ, một sự hiệp thông vốn không thể thành hình và phát triển trong sự thật trọn vẹn những khả năng của nó mà chỉ dựa trên mảnh đất dục vọng. Sự thật ấy có hai mặt: về nhân vị và về thần học.


CXXVII - ĐIỀU HÒA SINH SẢN CHÂN CHÍNH LÀ THÀNH PHẦN CỦA LINH ĐẠO HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

(Ngày 14 tháng 11 năm 1984)

1. Dưới ánh sáng của Thông điệp «Humanae Vitae» yếu tố căn bản của linh đạo hôn nhân là tình yêu được tuôn đổ vào con tim của các đôi vợ chồng như tặng phẩm của Thánh Thần.[90] Các cặp vợ chồng đón nhận qua bí tích tặng phẩm này cùng với một sự «thánh hiến» đặc biệt. Tình yêu đó kết hợp với đức khiết tịnh vợ chồng, biểu lộ qua sự tiết độ, thiết lập trật tự bên trong của đời sống chung vợ chồng.

Khiết tịnh là sống trong trật tự của tâm hồn. Trật tự này giúp cho sự phát triển các «biểu lộ tình cảm» cách cân xứng và hợp với ý nghĩa của chúng. Như thế là ta cũng xác nhận rằng khiết tịnh vợ chồng như là «sự sống nhờ Thần Khí»,[91] theo cách nói của thánh Phaolô. Thánh Tông Đồ đã nghĩ trong đầu không chỉ về những năng lượng trong tinh thần của con người, nhưng nhất là nghĩ đến tác động thánh hóa của Chúa Thánh Thần và những ơn huệ riêng của Ngài.

2. Ở tâm điểm của linh đạo vợ chồng, bởi thế, là đức khiết tịnh, không chỉ như là một nhân đức luân lí (được hình thành nên bởi tình yêu), mà tương tự còn là nhân đức liên kết với những ơn huệ của Chúa Thánh Thần – trên hết liên hệ với ơn biết kính sợ những gì phát xuất từ Thiên Chúa («donum pietatis»). Ơn này tác giả Thư gửi Tín hữu Êphêsô đã nghĩ đến, khi ngài khuyên nhủ các đôi vợ chồng hãy «tùng phục lẫn nhau vì lòng kính sợ Đức Kitô».[92] Như thế, trật tự bên trong của đời sống chung vợ chồng, vốn giúp phát triển các kiểu cách «biểu lộ tình cảm» sao cho cân xứng và ý nghĩa, là hoa quả không những của nhân đức mà đôi vợ chồng thực hành, mà còn là ơn huệ của Chúa Thánh Thần mà họ hợp tác.

Thông điệp «Humanae Vitae» trong vài đoạn văn (đặc biệt số 21; 26), nói riêng về sự khổ chế của đôi hôn phối, hay đúng hơn nói về sự dấn thân để sở đắc được đức mến, khiết tịnh và tiết độ, một cách gián tiếp nói đến các ơn huệ của Chúa Thánh Thần, những ơn mà các đôi vợ chồng vốn nhạy cảm trong khi trưởng thành về nhân đức.

3. Điều đó tương ứng với ơn gọi hôn nhân của con người. «Hai» người – theo kiểu nói xưa nhất của Thánh Kinh – «sẽ nên một xương một thịt»,[93] không thể thực hiện được sự kết hợp ấy ở tầm mức nhân vị (communio personarum), nếu không nhờ cậy đến sức mạnh xuất phát từ tinh thần, và nói cho chính xác hơn, phát xuất từ Thần Khí Thánh Đấng thanh luyện, tác sinh, thêm sức và kiện toàn các sức mạnh của tinh thần con người. «Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng sinh ích gì»[94].

Bởi thế, những đường nét chính yếu của linh đạo vợ chồng «từ thuở ban đầu» đã được ghi khắc trong sự thật về hôn nhân trong thánh kinh. Linh đạo ấy cũng «từ thuở ban đầu» mở ra với các ơn huệ của Chúa Thánh Thần. Nếu Thông điệp «Humanae Vitae» khuyên nhủ các đôi vợ chồng hãy «kiên trì cầu nguyện» và năng lãnh các bí tích (Thông điệp nói: «ước gì họ kín múc nơi bí tích Thánh Thể nguồn mạch của ân sủng và bác ái»; «ước gì họ kiên trì trong khiêm tốn chạy đến với lòng từ bi Chúa, được rộng ban trong bí tích Sám hối»),[95] Thông điệp làm thế với tư cách như là ký ức của Thần Khí Đấng «ban sự sống».[96]

4. Những ơn huệ của Chúa Thánh Thần, nhất là ơn biết kính sợ sự thánh thiêng, ở đây xem ra có một ý nghĩa nền tảng. Thật vậy, ơn ấy nâng đỡ và phát triển cho các đôi vợ chồng một cảm năng nhạy bén riêng đối với tất cả những gì trong ơn gọi và cuộc sống vợ chồng của họ mang dấu chỉ của mầu nhiệm tạo dựng và cứu chuộc: tất cả những gì là thụ tạo phản chiếu sự khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa. Bởi thế, ơn huệ ấy xem ra khởi động cách đặc biệt sâu xa người nam và người nữ để biết kính trọng hai ý nghĩa không thể tách biệt của hành vi vợ chồng, mà Thông điệp[97] nói đến liên hệ đến bí tích hôn phối. Sự kính trọng hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng chỉ có thể được phát triển đầy đủ trên cơ sở tham chiếu sâu xa đến phẩm giá ngôi vị của những gì bên trong nhân vị gắn liền với giới tính khác biệt nam nữ, và cũng không thể tách rời, tham chiếu đến phẩm giá ngôi vị của sự sống mới, vốn có thể xuất hiện do sự kết hợp vợ chồng của người nam và người nữ kia. Ơn kính sợ những gì Thiên Chúa tác tạo thể hiện qua chính sự tham chiếu đó.

5. Sự kính trọng hai ý nghĩa ấy của hành vi vợ chồng trong hôn nhân phát sinh từ ơn kính sợ đối với công trình tạo thành của Thiên Chúa, cũng được biểu lộ như sự kính sợ Thiên Chúa cứu độ: sợ phá vỡ hay làm hạ cấp những thực tại mang trong mình dấu chỉ của mầu nhiệm tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa. Sự kính sợ này chính Tác giả Thư gửi Tín hữu Êphêsô nói tới: «Anh em hãy tùng phục lẫn nhau vì lòng kính sợ Đức Kitô».[98]

Nếu như sự kính sợ đối với ơn cứu độ gắn liền với chức năng có vẻ «tiêu cực» là tiết dục (hay đúng hơn, là chống lại dục vọng xác thịt), thì nó lại biểu lộ – và tiến triển theo sự trưởng thành dần của nhân đức ấy – như cảm năng đầy kính trọng đối với các giá trị cốt yếu của sự kết hợp vợ chồng: đối với «hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng» (hay nói theo kiểu của những phân tích trước đây, tức là đối với sự thật trong tâm hồn của «ngôn ngữ thân xác» dành cho nhau).

Trên cơ sở một tham chiếu sâu xa đến hai giá trị cốt yếu này, cái có ý nghĩa hôn phối được kết hợp hài hòa nơi chủ thể với cái có ý nghĩa làm cha làm mẹ có trách nhiệm. Ơn kính sợ những gì do Thiên Chúa tác tạo làm biến mất vẻ «mâu thuẫn» bên ngoài thuộc lãnh vực này và khó khăn do dục vọng dần dần được vượt qua, nhờ sự trưởng thành dần của nhân đức và sức mạnh của ơn Chúa Thánh Thần.

6. Nếu đặt vấn đề về cái gọi là sự tiết dục định kì (hay về «các phương pháp tự nhiên»), ơn kính sợ đối với công trình của Thiên Chúa sẽ giúp, ở mức cao nhất, giao hòa phẩm giá con người với các «chu kì thụ thai tự nhiên», nghĩa là với bình diện sinh học của nữ giới và nam giới của đôi vợ chồng. Bình diện ấy cũng có một ý nghĩa riêng đối với sự thật của «ngôn ngữ thân xác» dành cho nhau trong cuộc sống chung vợ chồng.

Như thế, những gì liên hệ – không theo nghĩa của thánh kinh cho bằng theo nghĩa «sinh học» – tới «giao phối vợ chồng trên thân xác» cũng có được hình thức trưởng thành nhân bản của nó nhờ đời sống «theo Thần Khí».

Mọi thực hành việc điều hòa sự thụ thai chính đáng, liên kết chặt chẽ với việc làm cha làm mẹ có trách nhiệm, làm nên thành phần của linh đạo hôn nhân và gia đình kitô giáo; và chỉ khi chúng được sống theo Thần Khí thì mới trở thành đạo thật và đích thực.


CXXVIII - TÔN TRỌNG CÔNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA LÀ NGUỒN MẠCH CỦA LINH ĐẠO HÔN NHÂN

(Ngày 21 tháng 11 năm 1984)

1. Dựa trên nền tảng đạo lí của Thông điệp «Humanae Vitae» chúng tôi có ý định phác thảo một linh đạo hôn nhân. Trong đời sống thiêng liêng của các đôi vợ chồng còn có các ơn huệ của Chúa Thánh Thần hoạt động và, đặc biệt là, «donum pietatis» (ơn kính sợ hay ơn đạo đức), tức là ơn tôn kính đối với công trình của Thiên Chúa.

2. Ơn huệ này, vốn liên kết với tình yêu và đức khiết tịnh, sẽ giúp ta trong toàn thể cuộc sống vợ chồng định tính hành vi, trong đó ý nghĩa hôn phối của thân xác kết hợp, ít là cách tiềm tàng, với ý nghĩa sinh sản. Nó hướng ta đến chỗ hiểu, trong «những cách biểu lộ tình yêu» có thể có, ý nghĩa độc đáo và biệt lệ của hành vi ấy: phẩm giá của nó và trách nhiệm nặng nề đi kèm theo đó. Bởi thế, phản đề của linh đạo vợ chồng nằm ở chỗ, theo nghĩa nào đó, người ta thiếu sự hiểu biết này về mặt chủ quan, trong thực hành và với não trạng chống thụ thai. Ngoài ra, đó là một thiệt hại lớn nhìn từ quan điểm bên trong văn hóa con người. Nhân đức khiết tịnh vợ chồng và, còn hơn thế, ơn kính sợ đối với những gì đến từ Thiên Chúa, làm nên linh đạo cho các đôi vợ chồng nhằm bảo vệ phẩm giá đặc biệt của hành vi này, của sự «biểu lộ tình yêu», trong đó sự thật của «ngôn ngữ thân xác» có thể được biểu lộ ra chỉ bằng cách cứu lấy tiềm năng sinh sản.

Làm cha làm mẹ có trách nhiệm có nghĩa là biết trân trọng về mặt thiêng liêng – phù hợp với sự thật – hành vi vợ chồng trong lương tâm và ý chí của cả hai vợ chồng. Khi «biểu lộ tình yêu», sau khi đã xem xét các hoàn cảnh bên trong và bên ngoài, nhất là hoàn cảnh sức khỏe thể lí và sinh lí, họ cũng diễn tả sự trưởng thành sẵn sàng làm cha làm mẹ của họ.

3. Sự tôn kính đối với công trình của Thiên Chúa góp phần làm cho hành vi vợ chồng không bị thiếu mất hay bị giảm thiểu đi đời sống nội tâm phong phú trong toàn thể cuộc sống chung vợ chồng – để nó không trở thành một «thói quen» – và qua đó biểu lộ đầy tràn nội dung nhân vị và đạo đức, và cả nội dung tôn giáo nữa, nghĩa là thờ kính sự uy nghi cao cả của Đấng Tạo Hóa, thượng nguồn duy nhất và cuối cùng của sự sống, thờ kính tình yêu hôn phu của Đấng Cứu Chuộc. Tất cả điều đó tạo nên và làm tỏa rộng không gian nội tâm cho sự tự do của việc hiến dâng cho nhau, qua đó ý nghĩa hôn phối của nam tính và nữ tính được biểu lộ trọn vẹn.

Sự cản trở cho tự do này xuất phát từ dục vọng thúc ép bên trong muốn hướng đến tha nhân bạn đời kia chỉ như là một đối tượng để hưởng dùng. Thái độ tôn kính đối với những gì Thiên Chúa tạo dựng sẽ giải thoát ta khỏi sự câu thúc ấy, giải thoát khỏi mọi sự giảm thiểu tha nhân chỉ còn như một sự vật thuần túy và củng cố sự tự do nội tâm của tặng phẩm trao hiến thêm mạnh mẽ.

4. Điều đó chỉ có thể thực hiện được nhờ có một sự hiểu biết phẩm giá nhân vị, của người nữ cũng như của người nam, trong cuộc sống chung với nhau. Sự hiểu biết thiêng liêng đó là hoa quả cơ bản của ơn huệ Chúa Thánh Thần thúc đẩy người ta tôn trọng công trình của Thiên Chúa. Từ sự hiểu biết này, và một cách gián tiếp từ ơn huệ ấy, toàn thể «các biểu lộ tình yêu» tạo nên mạng lưới kéo dài sự kết hợp vợ chồng mới đạt tới ý nghĩa hôn phối đích thật. Sự kết hợp này được diễn tả qua hành vi vợ chồng chỉ trong những hoàn cảnh nhất định, nhưng nó có thể và phải được diễn tả không ngừng, mỗi ngày, qua những «biểu lộ tình yêu» khác nhau, vốn được xác định bởi khả năng xúc cảm «vô tư» của bản thân trong tương quan với người nữ hoặc – ngược lại – trong tương quan với người nam.

Thái độ kính trọng đối với công trình của Thiên Chúa mà Thần Khí khơi dậy nơi các đôi vợ chồng có một ý nghĩa rất lớn đối với các «các biểu lộ tình yêu». Bởi lẽ cùng với thái độ ấy là khả năng vui thích, chiêm ngưỡng, quan tâm vô tư sâu xa đến cái đẹp «hữu hình» của người nữ và người nam, và sau cùng, là một sự quí trọng sâu xa tặng phẩm vô vị lợi của «tha nhân» kia.

5. Tất cả những điều ấy quyết định để nhận diện tính thiêng liêng của nam tính hay nữ tính, của cái là «thể xác» và đồng thời là tinh thần. Từ sự nhận diện thiêng liêng này xuất hiện ý thức về sự kết hợp «qua thân xác», nhân danh sự tự do nội tâm của tặng phẩm hiến dâng. Nhờ «những biểu lộ tình yêu» các đôi vợ chồng giúp đỡ nhau để kết hợp bền lâu, và đồng thời những «biểu lộ» này giữ cho mỗi người được «bình an sâu thẳm», theo nghĩa nào đó, bình an này lại chính là âm vang nội tâm của đức khiết tịnh vốn được hướng dẫn bởi ơn kính sợ đối với công trình tạo dựng của Thiên Chúa.

Ơn này bao gồm một sự quan tâm sâu xa và phổ quát đối với nhân vị với phái tính của người ấy, là một người nam hay là một người nữ. Từ đó tạo ra khung cảnh nội tâm phù hợp cho sự hiệp thông ngôi vị. Chỉ trong bối cảnh hiệp thông ngôi vị đó đôi vợ chồng mới chín chắn thật sự trong sự sinh sản đáng được gọi là «có trách nhiệm».

6. Thông điệp «Humanae Vitae» cho phép ta phác thảo được một linh đạo hôn nhân. Đây là khung cảnh nhân văn và siêu nhiên – bằng cách xét tới bình diện «sinh học» và, đồng thời trên cơ sở đức khiết tịnh do «ơn đạo đức» nâng đỡ – trong đó người ta hình thành nên sự hòa hợp bên trong của hôn nhân khi tôn trọng những gì Thông điệp gọi là «hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng».[99] Sự hòa hợp này có nghĩa đôi vợ chồng cùng chung sống trong sự thật của «ngôn ngữ thân xác» trong tâm hồn. Thông điệp «Humanae Vitae» tuyên bố «sự thật» này liên kết bất khả phân li với tình yêu.


CXXIX - GIẢI ĐÁP NHỮNG CÂU HỎI VỀ HÔN NHÂN VÀ SINH SẢN THUỘC PHẠM VI KINH THÁNH – THẦN HỌC

(Ngày 28 tháng 11 năm 1984)

1. Toàn bộ huấn giáo mà tôi đã bắt đầu hơn bốn năm qua và hôm nay tôi kết thúc có thể được gộp lại dưới tựa đề: «Tình yêu nhân linh trong kế hoạch thần linh», hoặc nói cách chính xác hơn: «Sự cứu chuộc thân xác và tính bí tích của hôn nhân». Chúng được phân thành hai phần.

Phần thứ nhất dành cho việc phân tích những lời nói của Đức Kitô, từ đó có thể mở ra với chủ đề thích hợp hiện tại. Những lời này đã được phân tích dài lâu trong toàn cảnh văn bản tin mừng: sau nhiều năm suy tư chúng tôi thấy cần nêu bật ba bản văn, chúng đã được đem phân tích ngay trong phần thứ nhất của các bài huấn giáo.

Trước hết, đó là bản văn trong đó Đức Kitô nhắc đến cái «thuở ban đầu» trong buổi đối chất với người Pharisêu về sự duy nhất và bất khả phân li của hôn nhân.[100] Tiếp đến, là những lời Đức Kitô tuyên bố trong Diễn từ Trên Núi nói về «dục vọng» như là «tội ngoại tình trong tư tưởng».[101] Và sau cùng, là những lời được thông truyền bởi tất cả các tin mừng nhất lãm, trong đó Đức Kitô tham chiếu tới thân xác phục sinh trong «thế giới bên kia».[102]

Phần thứ hai của huấn giáo đã được dành cho phân tích về bí tích dựa trên Thư gửi các Tín hữu Êphêsô[103], ở đó nhắc đến «thuở ban đầu» của hôn nhân mà Thánh Kinh nói tới trong sách Sáng thế: «... Người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ và kết hợp với vợ mình và cả hai nên một xương một thịt».[104]

Các bài huấn giáo của phần thứ nhất và phần thứ hai sử dụng thường xuyên thuật ngữ «thần học về thân xác». Theo nghĩa nào đó, đây là một thuật ngữ «lao động». Cần giới thiệu thuật ngữ và ý niệm «thần học về thân xác» để thiết lập nền tảng cho chủ đề: «sự cứu chuộc thân xác và tính bí tích của hôn nhân» dựa trên một cơ sở rộng lớn hơn. Quả thật, cần phải nêu nhận xét ngay tức thì rằng từ ngữ «thần học về thân xác» vượt xa nội dung của các suy tư của chúng ta. Những suy tư này không bao hàm nhiều vấn đề, xét về đối tượng của chúng, thuộc về thần học thân xác (ví dụ như vấn đề đau khổ và sự chết, được nêu lên trong sứ điệp Kinh thánh). Cần phải nói điều đó cách rõ ràng. Tuy nhiên, cũng cần phải nhìn nhận cách minh nhiên rằng các suy tư về đề tài: «sự cứu chuộc thân xác và tính bí tích của hôn nhân» có thể được triển khai cách đúng đắn, bằng cách khởi đi từ yếu tố trong đó ánh sáng mạc khải chạm tới thực tại thân xác con người (hay trên cơ sở của «thần học về thân xác»). Điều đó được xác nhận bởi một trong những lời lẽ của sách Sáng thế sau đây: «cả hai sẽ nên một xương một thịt», là những lời xét về nguồn gốc và chủ đề nằm ở cơ sở của lập luận của chúng ta.

2. Những suy tư về bí tích hôn nhân đã hướng đến xem xét hai chiều kích cốt yếu của bí tích này (như của mọi bí tích), tức là chiều kích của giao ước và ân sủng, và chiều kích của dấu chỉ.

Qua hai chiều kích này chúng ta đã liên tục đi lên tới suy tư về thần học thân xác, vốn gắn liền với «những lời chủ chốt» của Đức Kitô. Chúng ta có được những suy tư này, vào cuối toàn thể chu kỳ huấn giáo này, còn nhờ việc phân tích Thông điệp «Humanae Vitae».

Đạo lí trong văn kiện này của giáo huấn hiện nay của Giáo hội vẫn ở trong mối quan hệ hữu cơ với tính bí tích của hôn nhân, cũng như với toàn thể vấn đề thánh kinh của thần học thân xác, vốn xoay quanh trung tâm là «những lời chủ chốt» Đức Kitô. Theo nghĩa nào đó, thậm chí người ta có thể nói rằng tất cả những suy tư về «sự cứu chuộc thân xác và tính bí tích của hôn nhân», có vẻ như là một chú giải phê bình lớn về đạo lí của chính Thông điệp «Humanae Vitae».

Chú giải này xem ra khá là cần thiết. Quả thật, Thông điệp khi trả lời cho một số thắc mắc của ngày hôm nay trong lãnh vực luân lí hôn nhân và gia đình, nó đồng thời còn khơi lên những thắc mắc khác, như đã biết, thuộc bản chất y-sinh-học. Nhưng chúng cũng (và nhất là) có bản chất thần học nữa, chúng thuộc lãnh vực nhân học và thần học, mà chúng ta đã gọi tên là «thần học về thân xác».

Những suy tư đã triển khai chủ yếu là đối diện với những chất vấn xuất hiện liên hệ đến Thông điệp «Humanae Vitae». Phản ứng, do Thông điệp đã khơi lên, nói lên tầm quan trọng và sự khó khăn của những chất vấn này. Chúng được còn được khẳng định lại một lần nữa bởi những tuyên bố cuối cùng của đức Phaolô VI, khi ngài nêu lên khả năng đào sâu việc trình bày chân lí Kitô giáo trong lãnh vực này.

Hơn nữa, tông huấn «Familiaris Consortio», kết quả của Thượng Hội Đồng các Giám mục năm 1980, đã nhấn mạnh điều ấy: «De muneribus familiae christiannae» (Về các bổn phận gia đình Kitô hữu). Văn kiện có lời kêu gọi hướng đặc biệt đến các nhà thần học kêu gọi soạn thảo đầy đủ hơn những khía cạnh về thánh kinh và nhân vị của đạo lí trong «Humanae Vitae».

Thâu thập những chất vấn được khơi dậy từ Thông điệp có nghĩa là hình thành nên các câu hỏi và đồng thời tìm kiếm câu trả lời. Đạo lí trong «Familiaris consortio» yêu cầu trong khi đặt ra những câu hỏi cũng như tìm kiếm câu trả lời thích đáng chúng ta nên tập chú vào các khía cạnh thánh kinh và lấy con người (nhân vị) làm trung tâm. Đạo lí đó cũng chỉ ra hướng phát triển cho thần học về thân xác, chỉ dẫn cho sự phát triển và kiện toàn dần dần và đào sâu thần học thân xác.

3. Qua việc phân tích các khía cạnh kinh thánh người ta thấy cách thức mà đạo lí Hội Thánh tuyên bố hiện nay bám rễ từ trong Mạc khải như thế nào. Điều đó rất quan trọng cho sự phát triển thần học. Quả thật, sự phát triển, hay sự tiến bộ của thần học, được thực hiện nhờ không ngừng khai thác việc nghiên cứu kho tàng mạc khải.

Đạo lí của Hội Thánh đặt nền tảng trên toàn thể truyền thống và trên chính Mạc khải thần linh luôn cởi mở ra trước những chất vấn của con người và còn dùng những công cụ phù hợp với khoa học hiện đại và văn hóa ngày nay. Trong lãnh vực này xem ra sự phát triển mạnh mẽ của nhân luận triết học (cách riêng của nhân học làm nền cho đạo đức học) gặp gỡ rất cận kề các vấn đề được khơi lên từ Thông điệp «Humanae Vitae» về thần học và đặc biệt về đạo đức thần học.

Việc phân tích các khía cạnh nhân vị luận của đạo lí của văn kiện này có một ý nghĩa hiện sinh để thiết định thế nào là một sự tiến bộ thật, tức là sự tiến bộ của con người. Quả thế, trong toàn bộ nền văn minh hiện nay – nhất là trong nền văn minh tây phương – có một xu hướng tiềm ẩn nhưng cũng khá rõ là đo lường sự tiến bộ này với thước đo theo «sự vật», tức là theo các lợi ích vật chất.

Phân tích các khía cạnh nhân vị luận của đạo lí của Hội Thánh trong Thông điệp của đức Phaolô VI, người ta thấy nổi lên rõ một lời mời gọi hãy đo lường sự tiến bộ con người bằng thước đo «nhân vị», nghĩa là cái gì là thiện hảo cho con người trong tư cách là người, tương ứng với phẩm giá cốt yếu của họ.

Phân tích các khía cạnh nhân vị luận cho ta xác tín rằng Thông điệp trình bày quan điểm sự phát triển con người đích thực như là vấn đề nền tảng. Quả thật, sự phát triển như thế được lượng định, về nguyên tắc, bằng thước đo của đạo đức học chứ không chỉ thước đo của «kĩ thuật».

4. Các bài huấn giáo nói về Thông điệp «Humanae Vitae» này chỉ là một phần, tức phần cuối cùng, trong những phần bàn về sự cứu chuộc thân xác và tính bí tích của hôn nhân.

Nếu như chúng tôi có lưu ý đặc biệt những bài giáo lí cuối cùng này, đó không những là vì chủ đề của chúng nối kết mật thiết hơn với thời đại ngày nay, mà trên hết là vì từ đó nảy sinh các câu hỏi chất vấn, theo nghĩa nào đó, đã thẩm thấu vào toàn bộ suy tư của chúng tôi. Bởi thế, phần cuối cùng này không phải đã được nối thêm vào toàn bộ văn phẩm một cách gượng gạo, nhưng kết hợp vào tổng thể một cách hữu cơ và đồng dạng. Phần ấy, theo nghĩa nào đó, vốn được đặt ở cuối theo sự sắp xếp chung, cũng đồng thời có mặt ở đoạn đầu của toàn bộ công trình này. Điều đó quan trọng từ quan điểm của cấu trúc và phương pháp.

Ngay cả yếu tố lịch sử xem ra cũng có ý nghĩa của nó. Thất vậy, các bài giáo lí hiện tại đã được khai mào trong thời kì chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng các Giám mục 1980 về đề tài hôn nhân và gia đình («De muneribus familiae christianae») và chấm dứt sau khi phát hành tông huấn «Familiaris Consortio», kết quả của công trình làm việc của Thượng Hội Đồng này. Mọi người đều biết rằng Thượng Hội Đồng năm 1980 cũng đã tham chiếu Thông điệp «Humanae Vitae» và đã xác nhận lại đầy đủ đạo lí của văn kiện.

Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất xem ra là cốt yếu, trong toàn thể các suy tư của ta, có thể được xác định theo cách như sau: để đối diện với những vấn đề do Thông điệp «Humanae Vitae» khơi dậy, đặc biệt về mặt thần học, để đặt ra những câu hỏi và tìm kiếm câu trả lời, ta cần phải tìm chúng trong lãnh vực kinh thánh – thần học, lãnh vực được ám chỉ đến khi chúng ta nói về «sự cứu chuộc thân xác và tính bí tích của hôn nhân». Trong lãnh vực này có các câu trả lời cho các vấn đề muôn thuở của lương tâm con người, và cho cả các vấn đề của thế giới chúng ta ngày nay liên quan đến hôn nhân và sinh sản./.





[1] Paul VI, Humanae Vitae, 11.

[2] Ibid. 12.

[3] St 2,24.

[4] Paul VI, Humanae Vitae, 12.

[5] Paul VI, Humanae Vitae, 11.

[6] Ibid. 12.

[7] Ibid..

[8] Cfr. ibid. 4.

[9] Ibid. 12.

[10] St 2,24.

[11] Gaudium et Spes, 51.

[12] Paul VI, Humanae Vitae, 12.

[13] Ibid. 3.

[14] Paul VI, Humanae Vitae, 20.

[15] Gaudium et Spes, 51.

[16] Gaudium et Spes, 51.

[17] Ibid.

[18] Cfr. ibid. 50.

[19] Ibid.

[20] Ibid.

[21] Ibid.

[22] Ibid.

[23] Pauli VI, Humanae Vitae, 10.

[24] Cfr. Pauli VI, Humanae Vitae, 7.

[25] Cfr. ibid. 8. 9.

[26] Ibid. 10.

[27] Ibid.

[28] Ibid.

[29] Ibid.

[30] Ibid. 10.

[31] Ibid.

[32] Cfr. ibid. 12.

[33] Pauli VI, Humanae Vitae, 14.

[34] Ibid.

[35] Ibid, 16.

[36] Ibid.

[37] Pauli VI, Humanae Vitae, 16.

[38] Ibid.

[39] Ibid.

[40] Pauli VI, Humanae Vitae, 20.

[41] Pauli VI, Humanae Vitae, 2.

[42] Ibid., 21.

[43] Ibid., 2.

[44] Pauli VI, Humanae Vitae, 12.

[45] Pauli VI, Humanae Vitae, 21.

[46] Ibid.

[47] Synodi Episcoporum De muneribus familiae christianae.

[48] Pauli VI, Humanae Vitae, 21.

[49] X. Gl 5,25.

[50] Pauli VI, Humanae Vitae, 16.

[51] Ibid. 13.

[52] Ioannis XXIII, Mater et Magistra; cfr. Pauli VI, Humanae Vitae, 13.

[53] Pauli VI, Humanae Vitae, 16.

[54] Cfr. Gl 5,25.

[55] Pauli VI, Humanae Vitae, 14.

[56] Pauli VI, Humanae Vitae, 19.

[57] Cfr. ibid. 16.

[58] Pauli VI, Humanae Vitae, 21.

[59] Pauli VI, Humanae Vitae, 10.

[60] Cfr. ibid. 16.

[61] Pauli VI, Humanae Vitae, 21.

[62] Ibid.

[63] Pauli VI, Humanae Vitae, 25.

[64] Ibid.

[65] Ibid.

[66] Cfr. Mt 7,14.

[67] Pauli VI, Humanae Vitae, 25.

[68] Cfr. Ibid.

[69] Cfr. Ibid.

[70] Ibid.

[71] Ibid., 12.

[72] 1Cr 13,6.

[73] St 1,31.

[74] Pauli VI, Humanae Vitae, 12.

[75] Cfr. 1Ga 2,16.

[76] Cfr. Pauli VI, Humanae Vitae, 20.

[77] Ep 5,21.

[78] Ep 5,21.

[79] Ibid.

[80] Cfr. Pauli VI, Humanae Vitae, 21.

[81] Cfr. ibid. 12.

[82] Cfr. Pauli VI, Humanae Vitae, 25.

[83] Ibid. 21.

[84] Ibid. 16.

[85] X. các tuyên bố, ví dụ như, «Bund für evangelischkatholische Wiedervereinigung» (O.R. 19/09/1968, p.3); như của tiến sĩ F.King, người anh (O.R. 5/10/1968, p.3) và cả của một người Hồi giáo như đức Mohammed Chérif Zeghoudu (trong cùng số ấy). Đặc biệt ý nghĩa là thư viết ngày 28/11/1968 cho đức hồng y Cicognani do K. Barth, trong đó ông đã ca tụng lòng can đảm lớn lao của đức Phaolô VI.

[86] Cfr. Các tham luận của đức hồng y Leo Suenens tại Phiên họp khoáng đại 138, ngày 29.09.1965: «Acta Synodalia S. Concilii Oecumenici Vaticani II», vol. 4, pars 3, p. 30.

[87] Về điều này chúng ta có thể nhớ đến những gì Th. Tôma nói trong một phân tích tinh tế về tình yêu của con người trong tương quan với «dục vọng» và ý chí (cfr. Summa Theologiae, I – IIae, q.26, art. 2).

[88] Ep 5,21.

[89] Cfr. Paul VI, Humanae Vitae, 12.

[90] Cfr. Rm 5,5.

[91] Gl 5,25.

[92] Ep 5,21.

[93] St 2,24.

[94] Ga 6,63.

[95] Pauli VI, Humanae Vitae, 25.

[96] 2Cr 3,6.

[97] Pauli VI, Humanae Vitae, 12.

[98] Ep 5,21.

[99] Paul VI, Humanae Vitae, 12.

[100] Cfr. Mt 19,8; Mc 10,6-9.

[101] Cfr. Mt 5,28.

[102] Cfr. ibid. 22,30; Mc 12,25; Lc 20,35.

[103] Ep 5,22-33.

[104] St 2,24.