THẦN HỌC VÀ TRÁI
TIM CỦA ĐỨC BÊNÊĐICTÔ
XVI
Lm. John P. Cush, STD[1]
WHĐ (05.02.2023) - Vào cuối thập niên 1990, tôi gặp
Hồng y Ratzinger, trên đường từ trường trở về nhà, khi còn là một chủng sinh theo học tại Đại học Giáo hoàng Gregorian, Rôma. Dù hết sức kinh ngạc
khi nhìn thấy nhà thần học vĩ đại, nhưng tôi đã thu hết can đảm để bắt chuyện với ngài. Tôi tự giới thiệu mình và nói với ngài rằng tôi đến từ Brooklyn, Hoa Kỳ, ngài liền đáp lại:
“Đó là một giáo phận phức tạp và đa dạng!”.
Sau đó, ngài hỏi tôi sẽ học gì sau khi xong đại học, tôi thưa: “Dạ, Thần học Cơ bản”. Với một nụ cười đôn hậu, ngài nói: “Đó là lĩnh vực của cha. Hiện nay, chẳng có môn học nào cần thiết hơn thế.”
Tự thâm tâm, tôi như cảm thấy phấn khích về việc học chương trình thạc sĩ và tiến sĩ trong
tương lai, tôi đã đánh bạo hỏi vị Tổng
trưởng Bộ Giáo lý Đức tin xem liệu ngài có vui lòng để ký tên vào cuốn sách tôi đang cầm trên tay hay không. Đó là cuốn Thần học của Joseph
Ratzinger (The Theology
of Joseph Ratzinger, 1988), của linh mục Aidan Nichols, và ngài đã chiều theo ý tôi. Trong căn phòng nhỏ của nhà xứ
nơi tôi cư ngụ tại Brooklyn,
New York, khi từ chủng viện về lại
giáo phận, tôi có cuốn sách với chữ ký của ngài: “To John, With my Blessings, + Joseph Cardinal
Ratzinger, 2. V. 97” (Gửi John, với chúc lành của Cha, Hồng y Joseph
Cardinal Ratzinger, ngày 02.05.1997).
Tôi nâng niu và quý trọng lời
ghi tặng và ký ức của ngày hôm đó.
Chúng ta tiếc thương sự ra đi của Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI (Joseph
Ratzinger, 1927-2023), người từng giữ chức vụ Giáo hoàng từ năm 2005-2013. Một
trong những điều quan trọng nhất cần lưu ý, là khi chúng ta cố gắng
tìm hiểu xem Đức Bênêđictô là ai,
và tại sao ngài lại quan trọng như vậy với tư cách là một nhà thần học, thì nhiều
người đã rất quen thuộc với thần học của Ratzinger, so với những vị đã được bầu
chọn làm Giáo hoàng trước đó.
Đức Hồng y Joseph Ratzinger, trước khi là Giáo hoàng, đã là một nhà thần học nổi tiếng tại Đức và
trên toàn thế giới. Là giáo sư tại các trường đại học ở Bonn, Münster, Tübingen
và Regensburg, Tiến sĩ Ratzinger là một cố vấn thần học (peritus) tại Công đồng Vatican II. Ngài cũng là tác giả của một
trong những tác phẩm thần học
tuyệt vời của thế kỷ XX, Dẫn
nhập Kitô giáo (Introduction
to Christianity, 1968), trước khi được bổ nhiệm làm Tổng giám mục
của Munich và Freising vào năm 1977.
Năm 1981, Thánh Giáo hoàng Gioan
Phaolô II, nhìn nhận sự xuất sắc và
minh mẫn trong học thuật của Hồng y Ratzinger, đã bổ nhiệm vị giáo sư tổng giám
mục này làm Tổng trưởng Bộ
Giáo lý Đức tin nhằm làm sáng tỏ giáo lý và thực hành mục vụ cho toàn thể Giáo
hội Công giáo. Phục vụ trong vai trò này trong nhiều năm, vị
giáo hoàng tương lai thậm chí còn được quốc tế biết đến nhiều hơn với tư cách
là một nhà thần học về tín lý có cách trình bày rõ ràng, và súc tích.
Tuy nhiên, sẽ là một sai lầm lớn nếu chỉ xem Hồng y Ratzinger là một nhà thần
học hàn lâm. Thực ra, ngài còn say mê đức tin và thực hành mục vụ. Hồng
Y Ratzinger được biết đến là tác giả của một số tác phẩm tu đức trong triều đại giáo hoàng của ngài, từ những Thông điệp đề cập đến
các Nhân đức Đối thần Tin, Cậy, Mến cho đến bộ sách kinh điển
đương đại, Đức Giêsu thành
Nazareth (Jesus of
Nazareth), cũng
như việc củng cố đức tin của chúng ta
trong cầu nguyện thông qua Phụng vụ thánh trong tác phẩm Tinh thần Phụng vụ (The Spirit of the Liturgy).
Suy cho cùng, các Thông điệp của Đức Bênêđictô
đều quy về một chủ đề: Tình bằng hữu với Đức Giêsu Kitô. Trong thông điệp đầu tiên, Deus
caritas est (2005), ngài tuyên bố:
Nếu tình bằng hữu với Thiên Chúa trở thành một
điều gì đó quan trọng và quyết định hơn bao giờ hết đối với chúng ta, thì chúng ta sẽ bắt đầu
yêu mến những người mà Thiên
Chúa yêu thương và những
người cần đến chúng ta. Thiên Chúa muốn chúng ta trở thành bạn của những người
bạn của Ngài, và chúng
ta có thể làm như thế, nếu chúng ta gần gũi với họ từ bên trong, chứ không phải là lệnh truyền áp
đặt từ bên ngoài.
Ngài tiếp nối ý tưởng này
với Thông điệp Spe Salvi (2007),
về Niềm Hy vọng Kitô giáo. Trong thông điệp tuyệt vời này, Đức Bênêđictô minh họa
sự hiểu biết của ngài về tình trạng con
người và khẳng định:
“Có lẽ nhiều người ngày nay từ khước
đức tin chỉ vì họ không thấy hứng thú nơi viễn ảnh của cuộc sống đời đời. Điều
họ muốn không phải là sự sống đời đời một chút nào, nhưng là cuộc sống hiện
nay, cuộc sống mà đức tin vào sự sống đời đời dường như trở nên một điều gì đó
gây ngăn trở. Tiếp tục sống đời đời – không chấm dứt – dường như là một lời
nguyền hơn là một ân sủng. Sự chết, phải thừa nhận, là ta muốn trì hoãn nó bao
lâu có thể. Nhưng sống hoài, không dứt – điều này, xét cho cùng, có thể là ngao
ngán và tối hậu là không thể chịu đựng nổi” (số 10).
Đức Bênêđictô hoàn tất những Thông điệp về các Nhân đức Đối thần vào năm 2009 với Thông điệp Caritas in veritate, trong đó ngài
tuyên bố rằng Tình yêu và Chân lý phải
được liên kết nội tại trong đời sống Kitô hữu vì lợi ích của thế giới. Ngài viết: “ở trung tâm của học thuyết xã hội
Công giáo,” bác ái phải được liên kết với chân lý nếu nó muốn hoạt động vì lẽ phải. Không có chân lý, tình yêu có thể trở thành một
“vỏ ốc trống rỗng” chứa đầy những cảm xúc và ý kiến chủ quan chóng
qua, một từ ngữ bị lạm dụng và nát vụn đến độ mang ý nghĩa đối nghịch. Cũng thế, hoạt động xã hội mà không có chân lý có thể kết thúc bằng việc “phục vụ lợi
ích cá nhân và logic của quyền lực” (x. số 3).
Nếu thật sự đọc các tác phẩm của
Đức Bênêđictô, người ta sẽ thấy rằng ngài không phải là một học giả khô khan,
mà là một mục tử đích thực muốn đoàn chiên của mình nhận biết
và yêu mến Đấng mà ngài nhận biết và yêu mến: Đức Giêsu!
Được gợi hứng bởi tấm gương của Đức
Bênêđictô, ước gì chúng ta cũng trở
thành những cộng tác viên với Sự Thật - Đức Giêsu Kitô -, Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: hprweb.com (27. 01. 2023)
[1] Linh mục John P. Cush thuộc Giáo phận
Brooklyn, hiện cha là Tổng biên tập của Tạp chí Homiletic and Pastoral
Review, và là giáo sư Thần học Tín lý tại Chủng viện
Saint Joseph (Dunwoodie) thuộc Tổng giáo phận New York.