Thần học sinh thái qua lăng kính Giáo hội học

Liên hệ giữa thần học về sinh thái và Giáo hội học

Tương quan giữa con người và thế giới thụ tạo

Nhờ sự phục sinh của Đức Kitô, vạn vật được đổi mới

Nước Trời đã bắt đầu

Ecclesia universalis


Thần học sinh thái qua lăng kính Giáo hội học

Sinh thái đang là chuyện thời sự nóng, vì vấn đề ngày càng trở nên trầm trọng và cấp bách, đang khi đó một vài nước lớn giàu có và làm ô nhiễm khí quyển nhiều lại chưa ký vào thỏa thuận quốc tế về biến đổi khí hậu. Ngay cả các cộng đoàn Giáo hội Công giáo xem ra vẫn chưa quyết tâm hành động cụ thể, vì chưa coi đó là bổn phận và sứ mạng của mình.

Khi Ban Biên tập giao đề tài, tôi hơi phân vân vì không biết thần học sinh thái đã thực sự hình thành chưa, đã được suy tư và khai triển tới đâu. Từ giữa thế kỷ 20, đã xuất hiện nhiều môn thần học mới: thần học về lao động, thần học về nghỉ ngơi, về giải trí, về tính dục, thần học giải phóng … Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã có một loạt bài thần học về thân xác. Cuộc sống con người có bao nhiêu lãnh vực thì cũng có bấy nhiêu thần học. Có nhiều đề tài trước đây chỉ là một phần trong một môn thần học, nay cũng được khai triển thành một thần học, như thần học về đời sống thánh hiến, thần học về hôn nhân và gia đình, thần học về các tôn giáo … Bây giờ lại có thêm thần học sinh thái. Gọi là thần học về điều này điều kia có vẻ vĩ đại, nhưng thực ra chỉ là tìm hiểu vấn đề dưới ánh sáng của mạc khải, rồi hệ thống hóa sao cho hài hòa với các bộ môn thần học khác. Để có thể trở thành một thần học, vấn đề sinh thái phải dựa trên Thánh Kinh, đặt nền tảng trên thần học về tạo dựng, trên Kitô học, Giáo hội học… Có lẽ cho đến nay vẫn chưa có một thần học sinh thái đúng nghĩa, mà chỉ là những phác thảo ở một số góc độ thần học. Thần học sinh thái là điều còn mới mẻ, nên ở đây chỉ gợi lên đôi nét chấm phá mon men theo các giáo huấn của Giáo hội.

Liên hệ giữa thần học về sinh thái và Giáo hội học

Người ta nói vui: về từ ngữ, trong Giáo hội học đã bao hàm sinh thái học rồi (trong ecclesiology có ecology). Thực ra mối liên hệ nằm ở bình diện sâu xa hơn.

Trước đây trong Giáo hội học, người ta chỉ bàn về nguồn gốc của Giáo hội, cơ cấu phẩm trật, các đặc tính được diễn giải theo hướng hộ giáo: duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Trong các bộ môn thần học khác, theo khuynh hướng chung, người ta bàn về yếu tính của các mầu nhiệm hơn là triển khai chiều kích hiện sinh. Giáo hội học có thẩm quyền bàn về sinh thái không, hay đó là lãnh vực của thần học về tạo dựng, hoặc chỉ là vấn đề mục vụ? Vaticanô II cho thấy không có gì thực sự là của con người mà lại không liên hệ tới cộng đoàn các môn đệ Đức Kitô (x. GS 1)[1]. Vì thế thực tại Giáo hội không chỉ được trình bày trong hiến chế tín lý Lumen Gentium, mà còn có cả một hiến chế mục vụ Gaudium et Spes để bàn về sứ mạng của Giáo hội trong thế giới ngày nay. Trong thần học, không phải chỉ có đạo lý chính thống (orthodoxy) mà cũng cần có hành động chính thống (orthopraxy). Hành động chính thống đặt nền tảng trên đạo lý chính thống, và đạo lý chính thống dẫn tới hành động chính thống.

Có một yêu cầu quan trọng trong việc triển khai môn thần học là sự liên hệ giữa các mầu nhiệm (nexus mysteriorum). Toàn thể vũ trụ cũng như cuộc sống con người, toàn thể mọi lãnh vực của đời sống đức tin, đều nằm trong một tổng thể thống nhất của kế hoạch tạo dựng và cứu độ từ đời đời của Thiên Chúa. “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ … Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô… Kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô” (Ep 1, 4-5.9). Con Thiên Chúa nhập thể đến trong thế gian không phải chỉ vì để sửa chữa sai lầm mà con người đã gây ra khi phạm tội, nhưng đó là kế hoạch từ đời đời của Thiên Chúa để mạc khải Thiên Chúa vô hình và tuyệt đối cao cả bằng ngôn ngữ và cách thức của con người.

Sinh thái gắn liền thiết yếu với sự sống của con người. “Ngôi nhà chung của chúng ta là người chị mà chúng ta đang chung phần sự sống, là người mẹ tuyệt vời luôn mở rộng vòng tay ôm ấp chúng ta” (LS 1). “Chúng ta quên mất là thân xác chúng ta là bụi đất (x. St 2); thân xác của chúng ta cũng được tạo nên từ những yếu tố của vũ trụ; không khí của nó giúp chúng ta thở và nước của nó giúp chúng ta sống và được bồi dưỡng” (LS 2).

Nói đến sinh thái, người ta quan tâm tới sự biến đổi nghiêm trọng trong môi trường: ô nhiễm nguồn nước và không khí, biến đổi khí hậu, bóc lột tài nguyên thiên nhiên, nhiều loại sinh vật bị diệt chủng. Người ta “nghe được tiếng kêu than của trái đất và của người nghèo” (LS 49). Vì thế cần phải có “sự hoán cải sinh thái” (LS 5).

Tuy nhiên, khi Giáo hội bàn về sinh thái, thì không phải chỉ vì sinh thái gắn liền với cuộc sống nhân loại, vì lo sợ khủng hoảng sinh thái tạo nên những tai hại cho cuộc sống con người, nhưng còn vì đó là đòi hỏi của đời sống đức tin. “Duy chỉ sự kiện làm người, cũng thúc đẩy con người phải chăm sóc thiên nhiên mà chúng ta là thành phần của chúng; cách đặc biệt, các Kitô hữu biết rõ rằng bổn phận của họ ở giữa thiên nhiên và trách nhiệm của họ đối với thiên nhiên và với Đấng Sáng Tạo, là những yếu tố làm nên đức tin của họ” (LS 64). Đây là khởi điểm để nói đến liên hệ giữa thần học về sinh thái và Giáo hội học.

Tương quan giữa con người và thế giới thụ tạo

Sinh thái học là khoa học tự nhiên về mối quan hệ giữa các sinh vật sống và môi trường của chúng, là môn học nghiên cứu về “ngôi nhà” (oikos, từ đó thành eco-logy) của nhân loại. Thông điệp Laudato Sì bàn về sinh thái có phụ đề là “Thông điệp về việc chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta”.

Môi trường của các sinh vật sống là nguồn nước, không khí, đất đai cùng với tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên sinh thái không chỉ giới hạn trong trái đất nơi các sinh vật đang sống, mà còn là khí quyển, các thiên thể như mặt trời, mặt trăng đang ảnh hưởng trực tiếp trên cuộc sống con người, cũng như các thiên thể ở xa. Toàn thể vũ trụ - rất có thể là một vũ trụ không biên giới - làm thành một tổng thể thống nhất, liên kết hài hòa với nhau và ảnh hưởng trên nhau, trên cả con người. Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất sáng tạo muôn loài: “Credo in unum Deum, … factorem caeli et terrae visibilium omnium et invisibilium”. Mọi vật hữu hình và vô hình trong trời đất, trong vũ trụ, đều do cùng một Thiên Chúa sáng tạo, và vì thế cùng nằm trong một kế hoạch và nhất thiết liên đới với nhau.

Kiểu nói của Kinh Thánh: “Thiên Chúa lấy bùn đất mà nặn nên con người” diễn tả mối liên hệ sâu xa giữa con người và thế giới vật chất. Trình thuật của Kinh Thánh về việc sáng tạo cho thấy vũ trụ vật chất cùng với muôn loài được tạo dựng là cho con người, hướng đến con người, vì con người, và sâu xa hơn, cho Đức Kitô, hướng đến Đức Kitô, vì Đức Kitô: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1, 15-17). Ngôi Lời nhập thể xuất hiện sau trong thời gian, nhưng lại hiện hữu trước từ vĩnh cửu. “Định mệnh của tất cả mọi loài thụ tạo được tháp nhập với mầu nhiệm Đức Kitô, ngay từ thuở ban đầu… Ngang qua việc nhập thể, mầu nhiệm Đức Kitô đang hoạt động một cách kín ẩn trong toàn thể thế giới tự nhiên…” (LS 99).

Ngay cả khi chấp nhận thuyết tiến hóa, thì một câu hỏi được đặt ra là tại sao vật chất đã không tiến hóa một cách mù quáng, bất định, lộn xộn, nhưng lại theo một định hướng, vừa đủ và đúng mức, không quá, không thiếu, để con người xuất hiện, và cuối cùng xứng đáng để Đức Kitô đảm nhận xác phàm khi đến trong trần gian? Vật chất cũng như vô vàn sinh vật khác không hiện hữu vì chính nó, nhưng được tạo dựng là cho con người, vì con người. Cả vũ trụ vật chất với cuộc tiến hóa hằng tỉ tỉ năm là để cho loài người xuất hiện, và lịch sử nhân loại hằng ngàn ngàn năm là để chuẩn bị cho Đức Giêsu đến trong thế giới. “Lời Thiên Chúa, Lời mà nhờ đó muôn vật được tạo thành, đã mặc lấy xác phàm và đến sống trên trái đất của con người. Là con người hoàn hảo, Người đã đi vào lịch sử, đảm nhận và thâu kết lịch sử thế giới trong chính mình” (GS 38).

Sinh thái tốt đẹp nguyên thủy mà Thiên Chúa tạo dựng cho con người đã bị chính con người hủy hoại khi phạm tội để đưa tới “hậu quả là mối tương quan hòa hợp nguyên thủy giữa con người và thiên nhiên trở nên xung đột (x. St 3, 17-19)… Ngày nay tội lỗi tỏ hiện trong tất cả sức mạnh hủy diệt của chiến tranh, các hình thức bạo lực và lạm dụng, bỏ rơi những người yếu đuối và tấn công thiên nhiên” (LS 66). Tác hại của tội lỗi đối với thế giới thụ tạo dẫn đến việc tàn phá và huỷ hoại thiên nhiên. Chiến tranh đã gây ra biết bao thảm họa thiên nhiên: thú vật bị tiêu diệt; nguồn nước bị ô nhiễm; cây xanh, thực vật và các cánh rừng bị phá huỷ. Lòng tham của cá nhân hoặc của quốc gia đã dẫn đến tình trạng tài nguyên thiên nhiên bị tàn phá và khai thác vô độ, làm ô nhiễm môi sinh, biến đổi khí hậu, gây ra thiên tai. Các quốc gia giàu tài nguyên lại trở thành nghèo đói do bị bóc lột và chiến tranh.

Nhờ sự phục sinh của Đức Kitô, vạn vật được đổi mới

Định mệnh của vũ trụ vật chất gắn liền với định mệnh của nhân loại. Công cuộc cứu độ của Đức Kitô không chỉ là việc tha tội cho con người trong tương quan với Thiên Chúa, mà còn là sự canh tân vạn vật. “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1, 19-20).

Nhờ mầu nhiệm phục sinh, Đức Kitô đã đổi mới thế giới và nhân loại. Ngài là con người mới khai sinh một thế giới mới, một nhân loại mới. Khi sống lại, Đức Kitô được tôn làm Chúa của lịch sử và có quyền thống trị trời đất và vạn vật. “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta. Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái Người. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8, 18-22). Một vũ trụ mới đã bắt đầu khai sinh nhưng còn đang ở dạng mầm mống tiềm ẩn vì vẫn còn có nguy cơ bị tội lỗi làm hư hỏng.

Mối liên hệ giữa Giáo hội và sinh thái đi qua trung gian mầu nhiệm Phục sinh này. Xét trên bình diện mầu nhiệm, Giáo hội là Thân thể của Đức Kitô, là thành phần của Đức Kitô toàn thể, gồm có Đức Kitô là Đầu, có Giáo hội là Thân thể, và cả vũ trụ vật chất. Đó là Đức Kitô-Toàn thể. Đức Kitô “cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Giáo hội; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu. Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1, 15-20).

Trong Đức Kitô phục sinh, toàn thể nhân loại và mọi loài trên trời dưới đất đã được đổi mới và làm nên thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Chính trong nhãn giới này mà thánh Phanxicô Assisi gọi Mẹ Trái đất, Anh mặt trời, Chị Mặt trăng, Anh Gió, Anh Không khí, Anh Mây trời, Chị Nước, Anh Lửa. Thế giới vật chất trong vũ trụ không phải chỉ là nơi con người và các sinh vật sinh sống, nhưng là thành phần cùng với Giáo hội làm nên Đức Kitô-Toàn thể.

Giáo hội tôn trọng và bảo vệ thiên nhiên vì đó là anh chị em của mình, là chính chi thể của mình. “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Giáo hội, mà Giáo hội là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1, 19-23). Đức Kitô không thể thiếu Giáo hội cũng như Giáo hội không thể thiếu vũ trụ vật chất. Hơn nữa, lịch sử đang tiến về chung cuộc, lúc mà loài người cùng với vạn vật được qui về một đầu là Đức Kitô để Đức Kitô là tất cả trong mọi loài. Thánh Irênê đã giải thích công trình cứu chuộc là sự thâu họp và qui tụ về đầu (recapitulatio, bởi caput là đầu), đầu ở đây là Đức Kitô. “Thiên Chúa cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh/đầu (recapitulatio) là Đức Kitô” (Ep 1, 9-10). Nhờ sự phục sinh, Đức Kitô không còn là một cá thể Đức Giêsu lịch sử như giai đoạn 33 năm sống tại đất nước Do Thái, nhưng đã vượt trên không gian và thời gian, vượt trên mọi giới hạn của thế giới vật lý, để trở thành Đức Kitô mang chiều kích vũ trụ (Cosmic Christ).

Nước Trời đã bắt đầu

Nếu Giáo hội học trước kia chỉ bàn về việc Đức Giêsu thiết lập Giáo hội với cơ cấu phẩm trật, với bốn đặc tính thiết yếu để chứng minh một Giáo hội là thật: duy nhất, thánh thiện, công giáo, tông truyền, thì rõ ràng Giáo hội học này không cần bàn đến sinh thái. Nhưng nếu nhìn Giáo hội như là “mầm mống và khởi đầu” của Nước Trời tại trần gian như Hiến chế tín lý về Giáo hội khẳng định (x. LG 5), thì rõ ràng giữa Giáo hội và sinh thái có một tương quan thiết yếu. Quả vậy, trong suốt ba năm rao giảng, Đức Giêsu đã loan báo Tin Mừng về Nước Trời. “Nước” (basileia) không phải chỉ là một vương quốc địa lý cho bằng là vương quyền của Thiên Chúa trên toàn thể nhân loại và cả vũ trụ, trái đất. Trời cũ đất cũ, thế giới cũ, đã bị hủy hoại bởi tội lỗi của nhân loại. Đức Giêsu đến cứu chuộc nhân loại để khai sinh một nhân loại mới thì đồng thời cũng thiết lập triều đại mới của Thiên Chúa bao gồm toàn thể mọi loài và toàn thể vũ trụ.

Khẳng định Đức Kitô phục sinh không chỉ có nghĩa là linh hồn bất tử, mà cả thân xác của Ngài không bị tan rã với cái chết, nhưng đã bước vào trật tự mới vượt trên qui luật vật lý hay sinh hóa của thế giới này. Nhờ mầu nhiệm phục sinh, Đức Giêsu đã khai mở thế giới mới, trong đó thân xác con người vốn là tro bụi và tiêu tan với cái chết, và cả vũ trụ vật chất, sẽ được biến đổi để bước vào một trật tự mới là trời mới đất mới.

Toàn thể con người, nhất là thân xác, có một mối liên hệ bất khả phân ly với sinh thái, tức toàn thể mọi loài trong vũ trụ. Không ai biết trời mới đất mới sẽ ra sao, chỉ biết rằng trong ngày cánh chung, khi thân xác con người sống lại trong vinh quang bất tử, thì muôn loài thọ tạo “cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8, 21-22). Sau lịch sử của đau thương và mục nát này, “bấy giờ, tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa… Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21, 1.4).

Chúng ta không biết được trái đất và nhân loại sẽ kết thúc vào thời điểm nào, chúng ta cũng chẳng biết cách thức vũ trụ biến đổi ra sao. Quả thật, bộ mặt của một thế giới bị biến dạng vì tội lỗi đang qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một thế giới mới, nơi công lý ngự trị. Hạnh phúc ở nơi ấy sẽ thỏa mãn và lấp đầy mọi ước vọng hòa bình đang trào dâng trong lòng con người. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô, và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát; tình yêu và các nghĩa cử bác ái sẽ tồn tại, và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân” (GS 39).

Thế giới mới, bao gồm nhân loại và vạn vật, đã bắt đầu hiện diện trong thế giới hiện tại rồi, nhưng còn dưới dạng mầm sống và đang phát triển, chờ ngày cánh chung sẽ đạt tới thành toàn và biểu lộ trong vinh quang. “Giáo hội là nơi mà trong Đức Kitô, tất cả chúng ta được mời gọi đến và ở đó chúng ta được nên thánh nhờ ân sủng Chúa, Giáo hội ấy chỉ thành toàn trong vinh quang trên trời, khi đến thời canh tân mọi sự, và cũng là lúc cùng với nhân loại, toàn thể vũ trụ, vì được liên kết mật thiết với con người và nhờ con người mà đạt được cùng đích của mình, sẽ được tái tạo toàn vẹn trong Đức Kitô … Sự tái tạo mà Chúa đã hứa và chúng ta đang mong đợi đã khởi sự nơi Đức Kitô và đang tiến triển trong sứ mệnh của Chúa Thánh Thần, và nhờ Chúa Thánh Thần, công trình ấy vẫn đang tiếp diễn trong Giáo hội, nơi đây, nhờ đức tin, chúng ta hiểu được ý nghĩa của cuộc sống trần thế, trong khi vẫn luôn nỗ lực hoàn tất công việc Chúa Cha trao phó ở đời này, với niềm hy vọng hạnh phúc mai sau và làm cho mình được cứu độ … Thời đại cuối cùng đã đến với chúng ta rồi, công cuộc canh tân thế giới đã được thực hiện bất khả hồi, và thật ra một cách nào đó đã sớm được thực hiện (trong Giáo hội) … ” (LG 48).

Trong khi chờ đợi vinh quang của ngày cánh chung, Giáo hội không ngừng hoạt động để chuẩn bị chất liệu cho thế giới mới : “Sự trông đợi một thế giới mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà thân thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một số hình ảnh nào đó của kỷ nguyên mới” (GS 39).

Điều đó có nghĩa là việc chăm sóc ngôi nhà chung qua các hoạt động bảo vệ sinh thái không phải là việc nhiệm ý hoặc chỉ vì lo sợ sinh thái bị tàn phá sẽ ảnh hưởng trên chinh sự sống của mình, nhưng đã trở thành sứ mạng gắn liền với mầu nhiệm Giáo hội và nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Chăm lo bảo vệ sinh thái chính là xây dựng Nước Trời ngay từ hôm nay, và rốt cuộc cũng chính là xây dựng Giáo hội. “Giáo hội lãnh nhận sứ mệnh công bố và thiết lập vương quốc của Đức Kitô và của Thiên Chúa nơi mọi dân tộc, đồng thời cũng trở nên hạt mầm và là khai nguyên của vương quốc ấy trên trần gian. Đang lúc dần dần phát triển tới mức trưởng thành, Giáo hội khát mong vương quốc ấy được thành toàn, ngập tràn hy vọng và ao ước được kết hợp với Vua của mình trong vinh quang” (LG 5).

Chỉ có một Thiên Chúa: Thiên Chúa sáng tạo cũng là Thiên Chúa cứu độ, và vì thế cũng chỉ có một kế hoạch duy nhất: kế hoạch cứu độ cũng hòa hợp với kế hoạch sáng tạo trời đất muôn loài. Tất cả những hoạt động của Giáo hội nhằm bảo vệ sinh thái là sự chuẩn bị chất liệu cho trời mới đất mới. Những lời sau đây của Công đồng Vaticanô II cũng phải được hiểu về các hoạt động sinh thái của Giáo hội: “Sau khi đã theo mệnh lệnh Chúa và nhờ Chúa Thánh Thần phổ biến trên trái đất các giá trị về nhân phẩm, về hiệp thông huynh đệ và tự do, nghĩa là mọi thành quả tốt đẹp do bản tính và hoạt động con người đem lại, chúng ta sẽ gặp lại chúng, nhưng là gặp lại sau khi chúng được thanh tẩy khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và biến đổi, nghĩa là khi Chúa Kitô trao lại cho Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và phổ quát” (GS 39).

Ecclesia universalis

Lịch sử cứu độ là một biện chứng giữa cái “rồi” và “chưa”, giữa cái đã được thực hiện và ban tặng với cái còn phải kiến tạo và phát triển. Giáo hội đã được Đức Kitô phục sinh cứu chuộc rồi nhưng chưa hoàn tất trong mọi chiều kích mà còn phải không ngừng làm cho ơn cứu chuộc lan rộng tới mọi loài.

Cũng như quyền năng của Đức Kitô phục sinh còn phải biểu dương nơi mọi loài, thì Giáo hội là thân thể của Đức Kitô cũng không ngừng vươn lên cho tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô. Giáo hội còn phải “lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Kitô vì Người là Đầu” (Ep, 4, 15). Vươn tới Đức Kitô là Đầu nghĩa là Đức Kitô vươn đến đâu thì Giáo hội là Thân mình sẽ vươn tới đó. Nếu mọi loài sẽ được qui về một đầu là Đức Kitô thì ơn cứu chuộc đã được thực hiện nơi Giáo hội cũng phải vươn tới mọi loài trong trần gian.

Từ đó đặc tính “công giáo” của Giáo hội sẽ mang ý nghĩa phong phú. Ecclesia catholica không phải chỉ là Giáo hội Công giáo Roma, mà còn là cộng đoàn Dân Chúa “phổ quát”: phổ quát về không gian vì ở khắp mọi nơi trên thế giới, phổ quát về thời gian trong suốt dòng lịch sử, không phải chỉ từ khi Đức Giêsu thiết lập Giáo hội trên nền tảng các tông đồ mà còn đi ngược tới Abel người công chính: “Giáo hội được tiên báo bằng hình ảnh biểu trưng ngay từ lúc khởi nguyên thế giới, được chuẩn bị cách diệu kỳ nơi lịch sử dân Israel và Cựu ước, được thiết lập vào thời kỳ sau hết, được tỏ lộ trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống và sẽ được hoàn tất trong vinh quang vào lúc kết tận thời gian. Bấy giờ, như các Giáo phụ nói, tất cả những người công chính từ thời Ađam, “từ Aben, người công chính, tới người được tuyển chọn cuối cùng”, sẽ được quy tụ lại bên Chúa Cha trong Giáo hội phổ quát” (“in Ecclesia universali”) (GH 2).

Hơn nữa, cho tới ngày tận thế, Giáo hội còn vươn ra tới tầm mức “vũ trụ” để trở thành Ecclesia universalisGiáo hội hoàn vũ không chỉ là Giáo hội ở khắp nơi trên trái đất này mà còn là Giáo hội bao gồm toàn thể sinh thái trong vũ trụ vì đó là một phần của thân thể mình. Đức Kitô phục sinh vươn tới tầm mức viên mãn là qui tụ toàn thể vũ trụ, nên trong Đức Kitô, mầu nhiệm Giáo hội cũng vươn tới chiều kích viên mãn để trở thành Giáo hội hoàn vũ.

Chúng ta có thể kết luận với lời của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Chúng ta không thể coi thiên nhiên như cái gì tách biệt khỏi chúng ta hay chỉ như một bối cảnh cho đời sống chúng ta. Chúng ta là một phần của thiên nhiên, được hội nhập trong thiên nhiên và liên tục tương tác với thiên nhiên”(LS 139). Nhưng còn hơn thế nữa, các hoạt động của Giáo hội nhằm gìn giữ sinh thái đặt nền tảng trên nhận thức sâu xa về Giáo hội học. Nhờ sự phục sinh của Đức Kitô, vạn vật muôn loài trở thành anh chị em và là một phần của thân thể Giáo hội, và cùng với Giáo hội được thanh luyện để tiến đến sự thành toàn trong Nước Trời. Gìn giữ ngôi nhà chung rốt cuộc trở thành hành vi đức tin của một Kitô hữu trong Giáo hội.

+ Giuse Nguyễn Năng

Nguồn: tgpsaigon.net

___________

[1] Các chữ viết tắt : GS = Gaudium et Spes, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay; LG = Lumen Gentium, Hiến chế tín lý về Giáo hội; LS = Laudato Sì, Thông điệp về việc chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta.