LP/Delphine Goldsztejn
TẠI SAO TIN VÀO THIÊN CHÚA?
Tác giả: Pierre Durieux
Chuyển ngữ: Tý Linh
Theo: fr.aleteia.org
(04.9.2021)
Tại sao tin vào Thiên
Chúa? Bởi vì có những lý do để tin vào Chúa Giêsu, tác giả cuốn “La Méthode
simple pour commencer à croire” (“Phương
pháp đơn giản để bắt đầu tin”, nxb. Artège) giải thích, một phương pháp với ba
chiều kích: lý trí, tâm hồn và ân sủng. Chính trên nền tảng của tình yêu mà tôi
có thể chọn xây dựng đời mình cách hoàn toàn tự do và ý thức bởi vì tôi đã gặp
được Chúa Kitô trong đời tôi.
Tại sao bạn là một Kitô hữu mà không phải là Do thái, Hồi
giáo, Phật giáo hay vô thần? Nhiều người chờ đợi một chứng tá nhưng vào thời đại
chúng ta, không phải lúc nào chúng ta cũng dành thời gian để “trình bày niềm hy
vọng của mình” và chúng ta thường không nghĩ kỹ đến điều đó. Tuy nhiên, có những
lý do to lớn và mạnh mẽ để chọn Chúa Giêsu. Nói tóm lại, chúng ta, những Kitô hữu,
chúng ta tin vào Chúa Kitô, Đấng mời gọi chúng ta làm chứng cho Ngài. Các Đức
Giáo hoàng đã không ngừng mời gọi chúng ta trở nên những nhà truyền giáo, mời gọi
chúng ta đừng sợ, mời gọi chúng ta trở thành chứng nhân, ra khỏi chính mình.
Trở thành chứng nhân
Thông thường, khi chúng ta mạo hiểm yêu cầu ai đó làm chứng
cho đức tin của họ, chúng ta thường có những câu đúng, nhưng không nhất thiết
giúp chúng ta nhiều, như: “Trước tiên, đó là chứng tá đời sống của mình, trước
tiên cần phải là một người nhất quán, cần phải là người yêu thương, cần phải tốt
lành…” Những điều này hoàn toàn đúng, nhưng, ngày nay, chúng không đủ đối với
nhiều người. Trong nhiều trường hợp, cần phải nói. Quả thế, bản thân đời sống đức
hạnh không đủ dẫn đến Tin Mừng. Một đời sống hiếm gương mẫu đến nỗi tất cả mọi
người đều có thể nhận thấy qua nó động cơ siêu nhiên đang thúc đẩy nó. Thậm chí
trong trường hợp của Chúa Giêsu, Đấng hoàn hảo nhất, chúng ta thấy rằng đời sống
ẩn dật ở Nadarét cách nào đó chỉ là một sự chuẩn bị. Cần phải có lời rao giảng
của Ngài để bắt đầu khơi dậy những cuộc hoán cải.
Tại sao chúng ta tin?
Nhiều người chờ đợi một câu trả lời ít duy lý hơn, ít trí thức
hơn. Điều đó không muốn nói rằng cần phải có những câu trả lời phức tạp; điều
đó muốn nói: chúng ta có khả năng, đơn giản trả lời cho câu hỏi “Tại sao bạn
tin?” không. Thực ra, thánh Phêrô nói: “Anh em hãy luôn sẵn sàng trả lời cho những
ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1 P 3, 15). “Trả lời” hay, tùy bản dịch,
“đưa ra lý lẽ”. Phải nói gì với một người hỏi bạn: “Tại sao bạn tin?” Người
Kitô hữu thường trả lời: “Tôi, tôi tin vào Chúa Giêsu. Ngài đã chết và đã phục
sinh.” Nhưng điều đó không phải là tại
sao bạn tin: đó là những gì bạn
tin. Xã hội – ngay cả khi nó không chia sẻ đức tin của bạn – nói chung vẫn viết
rằng người Kitô hữu tin vào một vị Thiên Chúa, Một Chúa và Ba Ngôi, một Thiên
Chúa đã làm người, một Đấng Mêsia đã chết và họ tin đã phục sinh. Nhưng điều gì
dẫn bạn đến chỗ tán thành tất cả điều đó?
Rốt cục, điều gì khiến cho bạn tin vào Chúa Giêsu-Kitô,
Thiên Chúa thật và là người thật, chết và phục sinh, hơn những người Hy Lạp hay
những người Rôma thời đó đã tin vào thần Zeus và Jupiter? Thực ra, làm thế nào
bạn trả lời cho một câu hỏi mở, đơn giản và chúng ta nhận thấy rằng câu trả lời
(dĩ nhiên, có rất nhiều cách trả lời) không dễ dàng đến trên môi miệng của các
tín hữu.
Tin bằng lý trí, tự
do và tâm hồn mình
Theo định nghĩa cổ điển của thánh Tôma Aquinô, “đức tin là một hành vi của trí khôn, tuân
theo thánh ý của Thiên Chúa nhờ ân sủng”. Như thế, đó là một hành vi dấn
thân toàn thể thân phận con người chúng ta, tức là cả lý trí, tự do và tâm hồn
chúng ta. Thực ra, ba điểm này là ba chiều kích của bản tính con người chúng
ta, nghĩa là đức tin là một hành vi dấn thân toàn bộ nhân tính của chúng ta. Nó
bao hàm tất cả các năng lực trổi vượt của con người chúng ta, cách riêng trí
khôn, ý chí, những gì mà chúng ta có thể coi như là tâm hồn (trái tim), tương
quan của chúng ta với Thiên Chúa.
Khi nói rằng đức tin là “một
hành vi của trí khôn, tuân theo
thánh ý của Thiên Chúa nhờ ân sủng”, thánh Tôma nói lên điều gì đó sâu xa,
theo nghĩa rằng đức tin rõ ràng không chỉ là một hành vi của trí khôn mà thôi,
nếu không nó sẽ là một lối tiếp cận dành cho những kẻ tinh quái và thông minh;
thế nhưng, Chúa Giêsu nói với chúng ta điều ngược lại: “Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều
này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn” (Lc 10, 21). Vì thế, đó
không thể chỉ là một hành vi của trí khôn. Đó cũng không thể chỉ là một hành vi
của ý chí. Khi tôi còn trẻ, có những người bạn nói với tôi: “Bạn tin nếu bạn muốn tin điều đó, và thế là
xong! Bạn chọn nó!” Điều này muốn nói rằng đó sẽ là một hành vi của những
người đức hạnh, của kẻ mạnh, những người đã tập luyện nói vâng… Nhưng đức tin
không dành riêng cho một nhóm tinh hoa có đức hạnh hay sức mạnh (theo nghĩa của
ý chí). Và rồi sau cùng, có những người nói (chẳng hạn nơi một số cộng đoàn được
gọi là “mới” vốn ưu tiên nhiều cho chỗ đứng của tâm hồn): “Tôi tin vào Thiên
Chúa bởi vì tôi cảm nhận được Ngài”. “À, vâng, nhưng tôi, tôi không cảm nhận được
Ngài!” “À, tiếp tục đi! Bạn sẽ cảm nhận được Ngài sau này!”… Chúng ta nhận thấy
rằng tất cả những câu trả lời này nói lên điều gì đó về đức tin, nhưng chúng
không đủ. Thậm chí chúng có thể làm suy yếu phần nào bản tính con người của
chúng ta, theo nghĩa là, nếu quên đi một trong những chiều kích của nó, thì nó
sẽ như bị cắt cụt…
Một sự quân bình
Tùy theo các thời đại, tùy theo các cộng đồng, tùy theo các
linh đạo, người ta đã nhấn mạnh đến khía cạnh này hay khía cạnh kia, nhưng định
nghĩa của thánh Tôma Aquinô tái lập một sự quân bình tốt đẹp. Vâng, đó là một
hành vi của trí khôn vì đức tin, trước tiên đó là trí khôn nói xin vâng với
Thiên Chúa, nhìn nhận rằng Thiên Chúa tồn tại và Thiên Chúa đã tỏ mình ra nơi
Chúa Giêsu. Vì thế, theo quan điểm này, đó là một hành vi của trí khôn, vì tôi
đưa ra một phán đoán: “Thiên Chúa hiện hữu” hay “Thiên Chúa đã tỏ mình ra nơi
Chúa Giêsu”. Thứ hai, đó là một hành vi của ý chí, vì lời phát biểu này không
hiển nhiên, thậm chí nó “không rõ ràng”: tôi không đạt tới đó qua trực giác, hoặc
thông qua một lập luận hay một lý luận. Vì thế, có một thời điểm nào đó mà ý
chí đi đến chỗ thể hiện lập trường, nhưng nó không thể hiện lập trường cách tùy
tiện: nó thể hiện lập trường vì nó thấy sự thiện hảo thoáng được nhận ra trong
chân lý này và trong những điều thiện hảo mà Chúa Giêsu đã hứa. Và rồi quả thật
cuối cùng có một sự xác nhận bằng kinh nghiệm, bằng trái tim và đặc biệt bằng
việc cầu nguyện: việc tìm kiếm đôi khi có chút lo lắng mà tôi đã thực hiện từ
thời niên thiếu đã thực sự được xoa dịu và mãn nguyện trong sự tiếp xúc hằng
ngày với việc cầu nguyện.
Với trí khôn
Trên bình diện trí khôn, các lý do để tin là rất nhiều. Tôi
tóm tắt chúng bằng cách trước tiên gợi lên dấu chỉ lạ thường là những lời tiên
tri, những bản văn mà, trong hàng thập kỷ và hàng thế kỷ, đã loan báo những điều
vốn đã được thực hiện, được sinh lợi, được cụ thể hóa, trong đời sống của một
người và trong trường hợp này là đời sống của Chúa Giêsu. “Hãy tưởng tượng bạn tìm thấy một bản giấy cói (papyrus) cũ trong kim tự
tháp Khéops. Trên bản giấy cói này, người ta nói với bạn rằng bạn sẽ được sinh
hạ ở một nơi như vậy, bạn sẽ kết hôn với một phụ nữ như thế, bạn sẽ có bấy
nhiêu người con, bạn sẽ đến sống trong một thành phố như thế và, khi bạn ở
thành đó, bạn sẽ bị bách hại, bạn sẽ lại rời đi để đi đến một nơi khác như vậy….
Bản giấy cói này đã được viết cách rõ ràng trước bạn hàng trăm hay hàng nghìn
năm và, nếu nó xác nhận tất cả những gì bạn đã sống, thì bạn sẽ tự nhủ: “Có Đấng
nào đó đi trước Lịch sử, có Đấng nào đó tồn tại trước Lịch sử” !» Vì
thế, đó sẽ là lời xác nhận rằng có một sức mạnh vượt quá tự nhiên, nghĩa là có
một sức mạnh siêu nhiên.
Việc ứng nghiệm các lời tiên tri loan báo Đấng Mêsia đến là
một dấu chỉ rõ ràng khác. Nếu một số người Do Thái đã không nhìn nhận Ngài, thì
cứ phải nhớ rằng tất cả các Kitô hữu đầu tiên đều là người Do Thái. Một số người
Do Thái – cách riêng các thánh sử – đã nói rõ Chúa Giêsu đã ứng nghiệm lời Thánh
Kinh đến mức nào. Nhiều lời tiên tri đã được nói rõ trong Tin Mừng: “Chúa Giêsu
đã nói điều đó để lời Thánh Kinh được ứng nghiệm” hay trái lại: “Khi làm thế,
ông đã ứng nghiệm lời Thánh Kinh”. Và rồi, có nhiều lời tiên tri đã được ứng nghiệm mà thậm chí các thánh sử đã không nhận thấy, nhưng chúng ta hiểu được
hàng chục hay hàng trăm năm sau. Người ta nhận thấy những đoạn đối chiếu
gây lúng túng giữa Cựu Ước và Tân Ước. Sự mong đợi của dân Israel, được cưu
mang bởi vô số người và lời tiên tri trong nhiều thế kỷ để loan báo sự xuất hiện
của một Đấng Mêsia sẽ là Đấng Cứu Độ thế giới, bằng cách gợi lên cách huyền nhiệm
sự ra đời, cuộc sống, cái chết, sứ mạng, số phận, mầu nhiệm của Ngài, và thậm
chí ngày Ngài xuất hiện, là một sự kiện độc nhất trên thế giới và không thể chối
cãi về mặt lịch sử.
Thực ra, từ “Évangile” (Phúc Âm, Tin Mừng) là cách chơi chữ
với từ “épangile” (epaggelia) mà,
trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “lời hứa”. Đức Hồng y Barbarin nhấn mạnh rằng
Phúc Âm quả thật là Tin Mừng đáp lại lời hứa, épangile trong tiếng Hy Lạp, cho Israel ! Trong tiếng
Pháp, chúng ta đã mất phần nào khái niệm đó: chúng ta chỉ giữ từ “Phúc Âm” và từ
“Tin Mừng”, nhưng trên thực tế, đối với các Kitô đầu tiên, toàn bộ Tin Mừng là
hình đối xứng của “lời hứa dành cho cha ông chúng ta”, để lấy lại những lời của
Đức Trinh Nữ Maria (Lc 1, 55). Đó là một trong những khía cạnh đầu tiên mà dù
sao có thể khơi dậy câu hỏi của những người đương thời với chúng ta.
Tin với các phép lạ
Cũng có cả phần chìm và siêu nhiên: tất cả các phép lạ, cách
không gián đoạn trong truyền thống của Giáo hội, đã giúp ích cho Giáo hội và
ghi dấu ấn trong lịch sử của chúng ta. Tất nhiên, đó là những phép lạ thời Chúa
Giêsu, nhưng cũng là những phép lạ ngày nay, cho đến những phép lạ ở Lộ Đức, những
lần Đức Mẹ hiện ra, những người được ghi dấu thánh (chẳng hạn, ta có thể gợi
lên ở đây Marthe Robin, Cha Piô và thánh Phanxicô Assidi), với vô số dấu lạ và
điều kỳ diệu đáng kinh ngạc (thi thể còn nguyên vẹn, ở hai nơi cùng một lúc
(phân thân, lưỡng tại), hiện tượng chảy nước mắt, những cuộc chữa lành, những
cuộc can thiệp, hương thơm, hiện tượng nâng cao lên khỏi mặt đất, các phép lạ
Thánh Thể…). Cách chung chung hơn, chính những lời cầu nguyện được nhậm lời
này, được nhậm lời đến nỗi người ta đã cảm thấy nhu cầu phải đặt các tấm đá tạ
ơn lên tường để nói: “Tôi đã cầu xin điều
đó và tôi đã nhận được, điều đó hoàn toàn chưa chắc đã xảy ra ! Vì thế,
tôi muốn mọi người nhớ đến điều này về lâu sau này, vì tôi biết rằng một ngày
nào đó tôi sẽ ra đi. Tôi muốn tấm đá này cho thấy tôi đã hưởng được một ân sủng
rất đặc biệt hay kỳ diệu như thế nào.” Và Blaise Pascal nhấn mạnh: “Có thể
tất cả các phép lạ không phải là thật, đó là khả thể. Nhưng sự kiện một số là
giả chứng minh rằng một số khác là thật”, vì nếu tất cả chúng đều là giả, thì
người ta thậm chí sẽ không có từ “phép lạ”: người ta sẽ nói “sự gian dối”.
Đời sống của các
thánh
Dấu chỉ lớn thứ ba có thể chạm đến trí khôn, đó là đời sống
của các thánh. Dĩ nhiên, không phải tất cả Kitô hữu đều là thánh nhân, các Kitô
hữu có lẽ còn không tốt hơn những người nói chung. Nhưng trong lịch sử nhân loại,
tôi muốn người ta cho tôi thấy những mẫu gương về một cường độ như thế trong bậc
thang của sự cho đi, của sự hy sinh quên mình, của sự dâng hiến bản thân (dĩ
nhiên có rất nhiều vị đại thánh được biết đến và được mọi người yêu mến, như
thánh Phanxicô, thánh Vincent de Paul, Mẹ Têrêxa hay Sơ Emmanuelle), nhưng có lẽ
cách sâu xa hơn những mẫu gương của những người đã chấp nhận chết cho tha
nhân ; tôi nghĩ đến cha Maximilianô Kolbê hay các đan sĩ ở Tibhirine, đến
tất cả những người mà, vào một thời điểm nào đó, đã nói: “Tự đáy lòng, những gì
quan trọng nhất trong đời tôi, tôi dâng tặng nó”. Ở đây, có một dấu chỉ quan trọng
vì, trong bản tính con người, không có gì được làm nên như thế: đúng hơn, người
ta muốn giữ quyền lực, tiền bạc, sự vui thú của mình. Nhưng chết đi cho chính
mình là một dấu chỉ chạm đến trí khôn, từ khi sự sống được cho đi vì sự sống…
Đời sống của các thánh là một mầu nhiệm lớn lao vì đó chính
là phản ảnh của đời sống của Chúa Kitô. Câu nói của Charles Péguy tóm tắt rất tốt
ý tưởng này: người ta có thể nói rằng Thiên Chúa đã tiên báo về Con của Ngài qua các ngôn sứ, Ngài đã nói mọi sự trong Con của Ngài và
Ngài lặp lại mọi sự qua đời
sống của các thánh. Có cả một sự chuẩn bị, một sự hiện tại hóa và một xác nhận
vừa bằng các phép lạ vừa bằng đời sống của các thánh. Các vị tuẫn đạo của Giáo
hội sơ khai, những người đã hiến dâng mạng sống mình để làm chứng cho sự thật
mà không có bất kỳ bạo lực nào, đã mang lại một chứng tá mạnh mẽ đến nỗi cuối
cùng họ sẽ thành công trong việc làm cho Đế quốc Rôma hoán cải.
Sự thiện và sự dữ
Sự dâng hiến của nhiều người cho Chúa Kitô qua các thế kỷ
cũng là một dấu chỉ hùng hồn. Những lời được nói trong ba năm bởi một Người thợ
mộc trẻ, đến từ một tỉnh ít người biết đến ở Palestin, ở biên giới Đế chế Rôma,
sẽ trở thành cuốn sách bán chạy nhất mọi thời đại, như lời Ngài đã tiên báo:
“Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Lc 21, 33). Tiếp đến,
trong suốt dòng lịch sử, sứ điệp này của Chúa Giêsu Kitô đã không ngừng thu hút
nhiều người nam và người nữ chọn bước theo Ngài bằng cách dâng hiến đời mình
cho Ngài trên con đường đầy đòi hỏi, triệt để, không muốn nói là bất khả thi.
Trái lại, một dấu chỉ khác rất tác động đến trí khôn của người
tin là sự hiện diện của Sự Dữ mà tự nó chứng thực Sự Thiện. Nói cách khác, các
hiện tượng rõ ràng siêu nhiên gắn liền với sự hiện diện của ma quỷ, với các
lang băm, các pháp sư – bất kể nội dung của chúng là gì – đều cho thấy rằng
không tin vào Thiên Chúa vì người ta không thấy Ngài, nhiều người đã tin vào sự
hiện diện của ma quỷ vốn vượt quá phạm vi vật chất và tự nhiên. Và tôi nghĩ rằng
phạm vi tiêu cực, xấu xa, đôi khi rõ rệt này, chứng minh sự tồn tại của một vị
Thiên Chúa. Nhiều người nói rằng, nếu có Sự Dữ, thì không có Sự Thiện ;
nhưng có vẻ lôgíc hơn khi nói rằng tất cả những sự hiện diện đó đều chứng thực
một cách nghịch lý sự hiện diện của Thiên Chúa.
Tin với ý chí của
mình
Một câu hỏi lớn cuối cùng được đặt ra cho con người, và phục
tùng trí khôn của con người: “Và bạn, bạn muốn yêu thương?” Dấu chỉ cuối cùng
được nói với trí khôn cuối cùng không phải là một dấu chỉ, đó là một câu hỏi. Về
cơ bản, đâu là sứ điệp chính yếu của Tin Mừng? Thay vì lý luận dài dòng, tốt
hơn hãy dành lời cho Chúa Kitô. Khi người ta hỏi Ngài: “Nhưng điều gì quan trọng
nhất?”, Ngài trả lời cách rõ ràng: “tình yêu”. Ngài trả lời bằng những cách
khác nhau, nhưng đó luôn là tình yêu: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết
tâm hồn, hết trí khôn, hết sức lực ngươi”, “Ngươi hãy yêu thương tha nhân như
chính mình”, “Các con hãy yêu thương nhau”, “Không có tình yêu nào cao cả hơn…”
Đó luôn là đường hướng căn bản của sứ điệp của Ngài. Vì thế, câu hỏi lớn được đặt
ra cho con người là: “Và bạn, bạn muốn yêu thương không? Bạn muốn để mình được
yêu thương không? Bạn có chấp nhận yêu thương người anh em của bạn không? Các bạn
có chấp nhận yêu thương nhau không?”
Đó không phải là một dấu chỉ, nhưng là một câu hỏi được đặt
ra cho mỗi lương tâm con người: bạn muốn xây dựng đời bạn trên điều gì? Tình
yêu chẳng phải là nền tảng có giá trị duy nhất? Mỗi lương tâm đều được đưa đến
chỗ bày tỏ lập trường, dù tin hay không tin. Vào một lúc nào đó, nó được mời gọi
nói lên: “Tôi có tin vào tình yêu hay không? Tôi muốn xây dựng đời tôi trên
tình yêu hay không? Có phải tôi có những nền tảng khác cho phép tôi tiến tới?”
Các nền triết lý khác trong lịch sử nhân loại đã tìm thấy những nền tảng khác,
đó là điều hiển nhiên, và vì thế ở đây có một vấn đề cần phải thể hiện lập trường,
theo đó mỗi người được mời gọi đáp lại trong bí mật của tâm hồn mình. Đó là một
câu hỏi được đặt ra cho lương tâm con người. Thông thường, mọi người đáp lại nó
bằng cách gợi những giá trị vốn là, trực tiếp hay gián tiếp, những giá trị bắt
nguồn từ Kitô giáo, bằng đầu bằng tình huynh đệ, tự do và, ít hay nhiều, người
ta lại quay về với tình yêu.
“Bạn muốn gì?”
Câu hỏi thứ hai được đặt ra cho sự tự do và do đó cho ý chí:
“Bạn muốn làm gì? Bạn muốn bước vào lôgíc của tình yêu này không?” Khi người ta
có một ý tưởng trên bình diện trí khôn về việc người ta được tạo nên cho điều
gì, thì tiếp đến được đặt ra câu hỏi về quyết định tự do và về ý chí: “Bạn muốn
gì?” Bạn muốn bước vào lôgíc của tình yêu này không? Thực ra, trái với một số
nhãn quan đến từ Kant hay từ đạo Tin Lành, Chúa Giêsu đã không loan báo cho
chúng ta một sứ điệp bằng cách nói: “Bạn chọn lựa” và thế là xong. Ngài nói với
chúng ta: “Nếu bạn chọn điều đó, thì bạn sẽ thấy, bạn sẽ hạnh phúc và bạn sẽ có
sự sống đời đời”. Tức là có một số lời hứa liên kết với sứ điệp của Ngài. Một
cách nào đó, đó là những lý do đích thực để tin ! Câu hỏi trở thành như
sau: tôi có thể chứng thực rằng những lời hứa này có được thực hiện trong đời sống
của tôi không? Có phải tự sâu xa, tôi cảm nghiệm được hạnh phúc khi tin hay khi
bước theo một số phương hướng không? Thứ hai, những lời hứa này có phù hợp với
bản tính con người của tôi không? Đối với tôi, đó là một câu hỏi đích thực.
Sự mong đợi của bản
tính con người
Lý tưởng Kitô giáo dựa trên nhãn quan về tình yêu thực sự
phù hợp với mong đợi của bản tính con người. Chẳng hạn: sự sống đời đời theo
nhãn quan Kitô giáo là gì? Chính xác, đó là sự phúc kiến, nghĩa là sự kiện nhìn
Đấng Vô Tận, Tình Yêu tuyệt đối, diện đối diện: có phải đó là điều phù hợp với
bản tính của tôi không? Vâng, vì người ta thấy rõ rằng, trong tất cả các ngày sống
của chúng ta, cái nhìn chiếm 95% thời gian thức tỉnh, và ngay cả khi ngủ: tôi
được đưa đến nhìn vào màn hình, điện thoại, một đứa bé đang ngủ, một phong cảnh…
Ngay cả giấc mơ cũng dựa vào các hình ảnh. Thực ra, nếu con người không có gì để
làm, thì nó có thể từ bỏ suy nghĩ nhưng nó sẽ không từ bỏ việc nhìn xem, như sức
mạnh thôi miên đáng kinh ngạc của truyền hình xác nhận. Rõ ràng, trong cái nhìn
này, tự sâu xa, chúng ta trải qua toàn bộ cuộc sống của chúng ta để hy vọng những
điều vốn phần nào vượt xa những vẻ bề ngoài – đó chính là nguyên lý của trí
khôn: intelligere, “đọc từ bên
trong”.
Kitô giáo nói với chúng ta: “Vâng, trên thực tế, bạn sẽ trải
qua cả đời mình để nhìn ngắm». Bạn
sẽ thấy tất cả vẻ đẹp và tất cả sự vô biên của Thiên Chúa và bạn sẽ được hiệp
thông trọn vẹn với Ngài. Các tôn giáo khác hứa hẹn cho chúng ta những hình thức
phần thưởng khác, đặc biệt là về thể xác, điều vốn không phải là trường hợp của
Kitô giáo (cho dù, trong đức tin Kitô giáo, chúng ta tin vào sự sống lại của
thân xác). Trước tiên, chúng ta được tạo dựng để ngắm nhìn Đấng Vô Tận và được
Ngài biến đổi: từ khi tôi nhìn ngắm Ngài, điều đó sẽ biến đổi tôi từ bên trong.
Đó là câu nói nổi tiếng của thánh Gioan: “Chúng ta sẽ nên giống như Ngài bởi vì
chúng ta sẽ nhìn thấy Ngài như Ngài là”. Đó là một tổng hợp tốt đẹp về câu hỏi
tối hậu và, đối với tôi, thực sự phù hợp với bản tính con người của chúng ta.
Trong đời sống thường
ngày của chúng ta
Chân lý của Kitô giáo
cũng được cảm nghiệm trong cuộc sống thường này của chúng ta. Ngoài hạnh
phúc đời đời được hứa ban cho chúng ta này, còn có hạnh phúc mà Thiên Chúa hứa
ban cho thời gian hiện tại, cho dù Chúa không chỉ hứa điều đó: thật không may,
cũng có những loan báo về những cuộc bách hại, những rắc rối, những cuộc chiến
đấu thiêng liêng, nhưng vẫn có một số lời hứa được đưa ra: chúng ta có thể lấy
ví dụ về việc rửa chân vốn thường được dạy như vậy. Thực ra, Chúa Giêsu nói: “Cả
bạn nữa, hãy làm như thế và bạn sẽ hạnh phúc”. Quả thật, khi rửa chân cho nhau,
có một hạnh phúc rất đặc biệt. Thật khó để giải thích, đó là điều gì đó phải cảm
nghiệm, phải sống. Chúng ta nhận thấy rằng lời hứa đó được ứng nghiệm rất dễ
dàng: chồng rửa chân cho vợ, vợ rửa chân cho con cái, một nhóm mà suy nghĩ và,
sau khi suy nghĩ, rửa chân cho nhau, sẽ cảm nghiệm một niềm vui rất đặc biệt.
Chúng ta đang nói về ý chí, nhưng thực ra, dừng lại ở ý chí, cách nào đó sẽ dừng
lại ở một tiếp cận của trí khôn. Có một thiện ích nào đó, có một thiện ích rất
lớn, thậm chí có một thiện ích vô tận khi cảm nghiệm sứ điệp của Tin Mừng và hy
vọng vào điều thiện hảo của Thiên Đàng vốn là số phận tối hậu và là ơn gọi cuối
cùng của chúng ta.
Kinh nghiệm về sự gặp
gỡ
Thế nhưng, trí khôn và ý chí mà thôi thì không đủ, vì thực tại
của con người cũng được thể hiện trong sự gặp gỡ và tương quan với Thiên Chúa.
Trí khôn và ý chí vẫn là những sức mạnh của trí tuệ và chúng không phải là khởi
nguyên (alpha) và cùng tận (oméga) của con người. Chúng ta thấy rõ rằng có một
chiều kích vượt quá các chiều kích này: đức tin Kitô giáo, trước tiên, đó là lịch
sử của một cuộc gặp gỡ: giữa Thiên Chúa và tôi. Và cuộc gặp gỡ này, khi nó
không thực sự được cảm nghiệm, có thể vẫn dừng lại ở sự do dự, sự mò mẫm…Dĩ
nhiên, có những lý do để tin, có những lý do để muốn điều đó, nhưng thực ra, tất
cả điều đó có thể xem ra khá yếu.
Thật sự, tất cả những lập luận đó đều có thể được nói ngược
lại và có lẽ thậm chí được so sánh với các tôn giáo khác vốn có thể đưa đến những
lập luận nếu không tương tự, thì ít là có thể đi theo khía cạnh này hay khía cạnh
kia của những gì chúng ta vừa khơi lên.
Nhiều chứng tá
Đức tin Kitô giáo cũng độc đáo ở những gì liên quan đến chứng
tá của rất nhiều người, vốn chứng thực: “Thiên Chúa tồn tại, tôi đã gặp
Ngài !” Cần phải lưu ý đến câu nói rất độc đáo này, được thốt ra bởi nhiều
người ở mỗi thế kỷ: “Tôi, tôi đã gặp được Thiên Chúa. Tôi đã gặp được Chúa
Giêsu-Kitô”. Điều đó đi từ thánh Phaolô thành Tarsô cho đến Claudel ngang qua rất
nhiều mẫu gương nổi tiếng. Và rồi, có tất cả những người này vốn không nhất thiết
được biết đến và đang nói với chúng ta, bằng cách thức đơn giản hơn nhiều, là
đã trải qua những kinh nghiệm tương tự, tất cả những cuộc hoán cải này…chứ không
chỉ trong các cộng đoàn mới. Đó là những người đã có một kinh nghiệm về Thiên
Chúa. Một trong những người bạn của tôi đã nói với tôi: “Tôi không thích cuốn
sách của bạn, vì tôi không cần tất cả điều đó để tin”. Anh đã nói với tôi: “Một
ngày nọ tôi nằm trên giường và tôi đã bị chiếm lấy bởi bằng chứng về một Hữu Thể
vô hạn, Đấng hoàn toàn yêu thương tôi, và tôi chưa bao giờ có thể rũ bỏ niềm
xác tín đó”: đó đã là nền tảng của đức tin Kitô giáo của anh. Anh đã có một loại
mạc khải. Không phải tất cả mọi người đều được mời gọi có những cuộc gặp gỡ phi
thường này, nhưng mỗi người được mời gọi tìm kiếm cuộc gặp gỡ này với Chúa
Giêsu, Đấng đã hứa rằng ai tìm thì sẽ gặp (Lc 11, 10). Cha Caffarel đã nói: “Trong việc cầu nguyện, Thiên Chúa trở nên ít
lờ mờ hơn”, và trong đời sống bí tích, sự hiện và hoạt động của Thiên Chúa
cũng được cảm nghiệm bằng nhiều cách thức.
“Ai tìm sẽ gặp”
Đây có lẽ là câu hỏi quyết định nhất của “phương pháp đơn giản để bắt đầu tin”,
câu hỏi mà tôi coi trọng nhất: “Tôi có các phương tiện để sống cuộc gặp gỡ này
với Thiên Chúa không?” Trước hết, những phương tiện này đầu tiên dựa vào cầu
nguyện: bạn có chấp nhận, vào một thời điểm nào đó, giữ thinh lặng, lắng nghe một
lời trong Tin Mừng, xem, tự sâu xa, lời đó nói gì với bạn và liệu nó vang vọng
nơi bạn không? Tôi không thể nói tốt hơn. Thực ra, nó khá nghèo nàn về mặt ngôn
từ, nhưng tự sâu xa, lời Tin Mừng này mà tôi đã đọc đi, đọc lại, hòa nhập, ghi
nhớ, có tỏa sáng không? Nó có nói với tôi điều gì đặc biệt về cuộc sống của
tôi, về số phận của tôi, về những gì tôi là, về nơi đâu tôi đến, về Thiên Chúa
là ai và những gì Thiên Chúa chờ đợi nơi tôi không? Trong đời sống cá nhân của
tôi, đã có một sự chuyển đổi, bởi vì sau một chút lo lắng tìm kiếm, đã có ở đó,
trong lời cầu nguyện, như là một sự xác nhận nội tâm.
Cha Caffarel đã nói: “Trong việc cầu nguyện, Thiên Chúa trở
nên ít lờ mờ hơn”. Tôi rất gắn bó với câu nói này: tự sâu xa, chúng ta có thể
suy nghĩ trong nhiều năm, và thậm chí hàng chục năm về những lý thuyết vĩ đại
nhưng, trong việc cầu nguyện, cách sâu xa hơn, Lời này đang nói. Tôi không biết
mô tả kinh nghiệm sống này như thế nào: nó tỏa ra một ánh sáng, thậm chí là một
hơi nóng ; tôi sẽ định vị nó hầu như ngang lồng ngực. Lời sự sống này có một
tương quan với hơi thở, như một hình thức hít thở nội tâm. Để giải thích điều
này, chúng ta có những từ ngữ hơi quá nặng nề về xác thịt, cứ nói lên điều gì
đó thuộc trật tự của một cuộc gặp gỡ vốn chạm đến một phần sâu thẳm hơn một
chút của hữu thể, mà Thánh Kinh gọi là tâm hồn, mà nhiều triết gia đã gọi là
con tim, bao gồm cả Pascal, người đã nói: “Chính con tim cảm nhận Thiên Chúa”.
Đời sống bí tích cũng
là một nơi quan trọng
Nơi thứ hai của cuộc gặp gỡ để cảm nghiệm Thiên Chúa, rõ
ràng là rất thường xuyên, đó là đời sống bí tích, với cuộc gặp gỡ đặc biệt với
bí tích Thánh Thể, và cả với bí tích Giải tội. Khi ra khỏi bí tích Hòa giải,
nhiều tín hữu đã cảm nghiệm họ hạnh phúc đến mức nào ! Có điều gì đó thuộc
trật tự giải thoát – có lẽ hơi theo nghĩa tâm lý – về việc có thể trút bỏ một tội
quá nặng nề. Nhưng cũng có một sự giải thoát sâu xa hơn. Điều đó có thể là một
kinh nghiệm đích thực: “Vâng, tôi đã nói chuyện với một linh mục mà, nhân danh
Chúa Kitô, đã tha thứ tất cả các tội lỗi của tôi…Chính Chúa Kitô đã tha thứ cho
tôi và, trong cuộc gặp gỡ này, đã giải thoát tôi khỏi một gánh nặng”. Đó là một
kinh nghiệm mà nhiều người có thể làm chứng.
Thánh Thể thực sự là đỉnh cao: Thiên Chúa đến trong tôi,
cách đầy đủ, hoàn toàn, trọn vẹn, dưới hình thức một tấm bánh nhỏ và một vài giọt
rượu ! Chúng ta tự nhiên có khuynh hướng nhấn mạnh đến bí tích Thánh Thể,
nhưng tất cả các bí tích, theo cách của chúng, đều có thể là đối tượng của một
kinh nghiệm như thế. Kinh nghiệm này, ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần
khác, tháng này qua tháng khác, có nuôi dưỡng tôi không? Ở đây, có một câu nói
rất hay của Claudel: “Bằng chứng của tấm bánh, đó là nó nuôi dưỡng”. Bạn tìm kiếm
các bằng chứng và có lẽ bạn có lý, vì người ta không yêu cầu bạn có một đức tin
mù quáng. “Bằng chứng của tấm bạnh, đó là nó nuôi dưỡng”, nghĩa là: tự sâu xa,
bạn có được nuôi dưỡng bằng lời mà bạn suy niệm, bằng tấm bánh mà bạn ăn, bằng
sự tha thứ mà bạn nhận lãnh không? Nó có phải là điều nuôi dưỡng bạn không? Điều
đó có làm cho bạn lớn lên không? Khi bạn nhìn vào gương chiếu hậu, bạn có nghĩ
rằng bạn đã lớn lên không? Có lẽ chúng ta có thể nói “không đủ” hay “không nhiều”
nhưng, tự sâu xa, vẫn có điều gì đó: điều đó đã nuôi dưỡng tôi không? Điều đó
có cho phép tôi băng qua một khoảng cách nào đó không? Để ra khỏi đó được lớn
lên (có thể chúng ta cũng thoát khỏi đó, cách nào đó, bị thu hẹp lại), dù sao
đi nữa, tôi có thoát khỏi đó được no thỏa không?
Đào sâu ba chiều kích
Ba chiều kích lý trí, tâm hồn
và ân sủng này không đối kháng nhau: thực ra, chúng chồng chéo nhau, làm phong
phú cho nhau. Đối với tôi, không cần phải dành ưu tiên cho chiều kích này hơn
chiều kích kia ngay cả khi, cuối cùng, chiều kích quan trọng nhất là chiều kích
tâm hồn, vì chúng ta có thể nói rằng chính chiều kích này sẽ tồn tại cho đến
muôn đời. Một ngày nào đó, trí khôn sẽ ngưng đặt vấn đề: nó sẽ nhìn thấy. Một
ngày nào đó, ý chí sẽ ngưng chọn lựa hay không chọn lựa: nó sẽ được chiếm lấy.
Tâm hồn, trong cuộc gặp gỡ cuối cùng này, vẫn sẽ là nơi của đức ái: “Đức ái sẽ
không bao giờ qua đi !” (1Cr 13, 1-13).