SỰ TIẾN TRIỂN TRONG 50 NĂM QUA CỦA
CÁC GIÁO HUẤN LUÂN LÝ CÔNG GIÁO CHÍNH THỨC VỀ HÔN NHÂN
Tác giả: Fr.
Vimal Tirimanna, CSsR.
Dịch giả: Lm. FX
Nguyễn Văn Thượng
WHĐ (22.9.2020) –
Trên phạm vi
toàn cầu, Công Đồng Vatican II được thừa nhận chính là một bước ngoặt trong
công cuộc canh tân đời sống Công giáo. Mặc dù đã có những cuộc tranh luận khác
nhau liên quan đến việc giải thích những giáo huấn của Công đồng trong 50 năm
qua[1],
nhưng rõ ràng là đã có những tiến triển ấn tượng trong giáo huấn chính thức
liên quan đến giáo lý Công giáo, thường dựa trên chính những giáo huấn của Công
đồng. Ví dụ, Margaret Farley trình bày những thay đổi căn cơ trong nhận thức của
Giáo hội về tính dục con người bằng ngôn ngữ sinh động khi bà viết rằng:
Trong các thế kỷ
hai mươi và hai mươi mốt, các nền tảng này về đạo đức tính dục đã bắt đầu bị đặt
thành vấn đề. Các nghiên cứu mới về kinh thánh, thần học và lịch sử về những cội
rễ của các chuẩn mực luân lý, những nhận thức mới về chính tính dục và những
thay đổi mới mẻ trong đời sống kinh tế và xã hội, tất cả góp phần làm nên những
bước phát triển lớn ngay cả trong lĩnh vực luân lý Công giáo. Các mô-típ lịch sử
từng thống lĩnh đều phải trải qua những thay đổi đáng kể. Ý tưởng cho rằng việc
sinh sản là biện minh duy nhất cho hoạt động tình dục đã biến mất (sự thay đổi
có thể nhìn thấy trong các văn kiện của Vatican II, trong Humanae Vitae và giáo huấn trong Giáo hội sau này). Quan niệm về hoạt
động tính dục như thể rối loạn tự nền tảng đã ít nhiều không còn trong suy tư
Công giáo. Mặc dù các nhà thần học luân lý vẫn lưu tâm đặc biệt đến khả năng ẩn
tàng của tính dục theo khuynh hướng tội lỗi (như lạm dụng tình dục, hãm hiếp,
khai thác tính dục, ngoại tình ...), nhưng mối bận tâm về sức hủy diệt của nó vốn
thường chi phối diễn luận Công giáo về tính dục đã được điều chỉnh cách nghiêm
cẩn.[2]
Vì hôn nhân là
khuôn khổ cơ bản và cần thiết trong đó các hoạt động tình dục của con người được
thể hiện một cách hợp pháp, nên khi nhìn vào các thay đổi vừa đề cập bên trên
trong nhận thức của Giáo hội về tính dục của con người, điều quan trọng cần lưu
ý là cả sự hiểu biết về khái niệm hôn nhân, cũng đã trải qua những tiến bộ
trong mấy thập kỷ gần đây. Để làm nổi bật các thay đổi căn bản mà ý niệm về hôn
nhân cách tổng quát đã trải qua trong truyền thống Công giáo 50 năm qua, chỉ cần
xem xét việc mô tả hôn nhân ở một trong những Cẩm Nang Luân Lý đã được sử dụng
trong các chủng viện để dạy thần học luân lý cho các linh mục tương lai, ngay
trước Vatican II:
Hôn nhân là khế ước
hợp luật giữa người nam và người nữ theo đó hôn nhân được trao tặng và chấp thuận
quyền độc hữu và vĩnh viễn trên cơ năng thể lý lẫn nhau vốn tự nhiên tương
thích với việc truyền sinh. Mục đích chính của khế ước hôn nhân là tạo sinh và
giáo dục con cái; mục đích thứ cấp của nó là sự tương trợ và xoa dịu dục vọng
cho nhau (x. Gl. đ.1031, kh.I). Khi (đôi hôn phối - ND) đã chịu Phép Rửa gia nhập
Ki-tô giáo, thì cuộc hôn nhân trở thành khế ước mang tính Bí tích, vì khế ước
đã được Đức Kitô nâng lên phẩm giá một Bí tích.[3]
Có thể sánh định
nghĩa chỉ dẫn về hôn nhân trước Vatican II này với định nghĩa hôn nhân trong Hiến
chế Gaudium et Spes - Vui Mừng và Hy Vọng,
các số từ 47- 51. Mặc dù người ta không tìm thấy một định nghĩa rõ ràng dứt
khoát như thế về hôn nhân trong Gaudium
et Spes, nhưng định nghĩa đó vẫn hàm chứa trong Hiến chế qua một loạt các cụm
từ mang âm hưởng Kinh Thánh và thuyết Nhân vị (dựa trên các khoa nhân học hiện
đại), chẳng hạn như: một “cộng đoàn ấm cúng (consortium)[4] của
tình yêu và sự sống”, “sự ưng thuận cá nhân chắc chắn”, “mối hiệp nhất thân mật”,
“một tình nghĩa son sắt thủy chung”,... Một số thay đổi căn bản nổi bật trong Gaudium et Spes (trong tương quan so
sánh với khái niệm hôn nhân trước Vatican II là[5]:
* Việc sử dụng
các thuật ngữ Nhân Vị học và Kinh thánh để mô tả hôn nhân, thay vì các thuật ngữ
pháp lý biệt vị.
* Việc sử dụng từ
ngữ ‘giao ước' (foedus) trong Kinh Thánh để mô tả Hôn nhân thay vì ‘khế ước' (contractus) pháp lý biệt vị.
* Gaudium et Spes không đề cập mức ưu tiên
thứ bậc trong mục đích của hôn nhân. Thay vào đó, mối liên kết keo sơn giữa hai
mục đích này được đặc biệt lưu tâm: “Tự bản chất, hôn nhân và tình yêu vợ chồng
quy hướng về việc sinh sản và giáo dục con cái” (Số 48, 50). Trước kia, chúng
chỉ như hai mục tiêu ‘biệt lập' tồn tại độc lập với nhau; trên thực tế, Gaudium et Spes gọi hôn nhân là “sự hiệp
thông của tình yêu và sự sống” (Số 48).
* Sự phục hồi giá
trị cho phẩm giá của niềm vui tính dục trong hôn nhân, đây là một cuộc trở về
nguồn mạch Kinh Thánh. Xét cho cùng, niềm vui tính dục được tạo ra bởi Thiên
Chúa và Ngài đã thấy tất cả công trình sáng tạo của Ngài “tốt đẹp”.
Trong các văn kiện
chính thức hậu Vatican II (trừ Bộ Giáo luật năm 1983), người ta lưu ý rằng tất
cả những giáo huấn chính thức của Công đồng vẫn đang được tiếp nối và phát triển
sâu xa hơn. Vì vậy, trong thông điệp nổi tiếng và gây tranh cãi là Humanae Vitae (1968), Đức Giáo Hoàng
Phaolô VI đưa ra một trong những mô tả tuyệt hảo nhất về bản chất hôn nhân:
Hôn nhân không thể
nào là hệ quả của may rủi hay kết quả sự tiến hoá mù lòa của những sức mạnh tự
nhiên. Hôn nhân thực sự là thiết định khôn ngoan và quan phòng của Thiên Chúa Tạo
Hóa, ý định của Ngài là hoạt hóa trong con người kế hoạch yêu thương của Ngài.
Kết quả là, vợ chồng, qua tặng ân dành cho nhau, tặng ân đặc thù và cá biệt
riêng giữa họ mà thôi, tăng trưởng mối hiệp thông nhân vị trong đó họ giúp nhau
nên hoàn thiện, cộng tác với Thiên Chúa trong việc truyền sinh và nuôi dưỡng sự
sống mới.[6]
Văn kiện Persona Humana (1975) do Bộ Giáo lý Đức
Tin ban hành cũng đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển giáo lý của Giáo
hội về hôn nhân. Căn cứ vững vàng trên tầm nhìn nhân vị học của Gaudium et Spes về hoạt động tính dục của
con người và sự hiểu biết ngày càng tăng về nhân vị và hoạt động tính dục con
người từ các ngành khoa học về con người, như nhân chủng học, tâm lý học và xã
hội học, Persona Humana lần đầu tiên cung cấp một khung giáo lý chính thức thực
sự có thể được gọi là liên ngành. Những văn kiện lớn chính thức sau này, như
tông huấn Familiaris Consortio (1981)
và Giáo lý Hội thánh Công giáo (1992)
sẽ tiếp tục xác lập tổng quát giáo huấn theo những chỉ dẫn của Gaudium et Spes,
Humanae và Persona Humana, vì vậy, vẫn theo những lối tiếp cận bao trùm các văn
kiện này về mặt Kinh Thánh, Nhân vị học và liên ngành. Ví dụ, tất cả những văn
kiện này tiếp tục gọi hôn nhân là ‘giao ước', mặc dù Bộ Giáo luật (1983) thực hiện một nỗ lực mong manh, bề nổi để theo
sát Gaudium et Spes bằng cách gọi hôn
nhân là ‘giao ước' chỉ trong phần nhập đề về hôn nhân (Số 1055), nhưng ngay lập
tức khuất phục trước khái niệm “khế ước” trước Vatican II trong phần sau của Bộ
luật “hơn bốn mươi lần”[7].
Theo Orsy, điều này chủ yếu là bởi vì mặc dù phẩm giá của nhân vị được đề xuất
bởi Vatican II đã xâm nhập mạnh mẽ vào truyền thống giáo luật, các khuynh hướng
đề cao ưu thế của Giáo hội như thể chế vẫn còn trong Bộ Giáo luật 1983.[8]
Sau đây, chúng
tôi sẽ nêu bật một số tiến triển cụ thể nổi trội trong các giáo huấn chính thức
về hôn nhân trong 50 năm qua, những tiến triển nảy sinh từ những thay đổi căn bản
về tầm nhìn của Vatican II về hoạt động tính dục và hôn nhân của con người nói
chung, dưới những tiểu đề sau đây:
Một vài tiến triển đặc biệt trong các giáo huấn
Công giáo chính thức về Hôn nhân
1. Việc công nhận biện pháp kế hoạch hoá gia đình
(theo phương pháp) tự nhiên
Chúng ta sẽ mở đầu
với quá trình tiệm tiến mà trong đó Giáo hội chấp thuận cách chính thức đầy đủ
về biện pháp kế hoạch hóa gia đình tự nhiên đã mang lại hoa trái trong Humanae Vitae. Với hệ quả trực tiếp của
việc khám phá những giai đoạn tại sinh (fertile) và ngoại sinh (infertile)
trong chu kỳ sinh sản của người phụ nữ vào những năm 1920[9], Đức Giáo
Hoàng Piô XI đã thận trọng và ngầm đồng thuận với cái được biết đến ngày nay là
“kế hoạch hóa gia đình tự nhiên”, lần đầu tiên trong thông điệp Casti Connubii của ngài năm 1930 khi viết:
Những người phối
ngẫu không được coi là hành động chống lại tự nhiên khi trong tình trạng kết
hôn, họ sử dụng quyền của họ một cách thích hợp và tự nhiên, ngay cả do các
nguyên nhân tự nhiên, hoặc tại thời điểm hoặc vì một vài khiếm khuyết, không
hình thành nên sự sống mới. Vì trong hôn nhân cũng như trong việc sử dụng các
quyền của hôn nhân, cũng có các mục tiêu thứ cấp, chẳng hạn như sự hỗ trợ lẫn
nhau, nuôi dưỡng tình yêu cho nhau và giải toả dục vọng mà vợ chồng không bị cấm
đoán, miễn là chúng được vận dụng để bổ túc cho mục tiêu chính yếu cũng như cho
bản chất nội tại của hành vi vốn cần được tôn trọng.[10]
Khi Đức Giáo
Hoàng Piô XII chấp thuận một cách rõ ràng trong Diễn văn của ngài với các hộ
sinh người Ý vào năm 1951,[11] thì
những giáo huấn chính thức của Giáo hội chắc chắn đã trải qua bước tiến bộ, nếu
không nói là một cuộc thay đổi tận căn, đối với những lời giảng dạy của thánh
Augustinô vốn từng chi phối Giáo hội cho đến thời Công đồng Vatican II.
Đối với thánh
Augustinô, mọi hành vi quan hệ tình dục phải có ý định hiển nhiên là tạo sinh,
còn với cả Đức Piô XI lẫn Đức Piô XII, giáo huấn này dần dần bị đảo lộn: một cặp
vợ chồng có thể sử dụng phương pháp tránh thai dựa trên chu kỳ kinh nguyệt người
nữ, có nghĩa là họ không cần đến ý hướng minh nhiên, kể cả mặc nhiên, về sinh sản
khi họ ăn ở với nhau[12]. Humanae Vitae là văn kiện hậu Vatican II
đầu tiên không chỉ chính thức và công khai chấp nhận việc sử dụng phương pháp
theo chu kỳ trong hành vi vợ chồng, mà còn đề nghị với hành vì ấy tinh thần
trách nhiệm làm cha mẹ, đó là bước tiến bộ rõ rệt trong giáo huấn chính thức[13].
Theo đó, “những người phối ngẫu có thể tận dụng chu kỳ tự nhiên của hệ sinh dục
và thực hiện hành vi vợ chồng trong những thời điểm ngoại sinh (infertile)”, Đức
Giáo hoàng Phao-lô VI nói. Giáo huấn này được lặp lại nhất quán trong các giáo
huấn chính thức sau này.[14]
2. Trách nhiệm làm
Cha Mẹ
Gaudium et Spes đã đề cập đến việc “truyền sinh với tinh thần trách nhiệm” liên quan
đến những người phối ngẫu (Các số 51, 87). Trong văn kiện Humanae Vitae, Đức Phaolô VI nhấn mạnh hơn thuật ngữ này và nói về
“tinh thần làm cha mẹ có trách nhiệm:
Lưu tâm đến các
điều kiện về thể chất, kinh tế, tâm lý và xã hội, trách nhiệm làm cha mẹ được
thực hiện bởi những người thận trọng và quảng đại đưa ra quyết định sinh nhiều
con cái hơn, và bởi những ai, vì những nguyên do hệ trọng và tinh thần thượng
tôn các nguyên tắc luân lý, quyết định không có thêm con trong một khoảng thời
gian nhất định hoặc không xác định.”[15]
Vào năm trước đó
(tức năm 1967), Đức Phaolô VI đã sử dụng khái niệm này khi đề cập đến việc dân
số thế giới ngày càng tăng trong thông điệp nổi tiếng của ngài là Populorum Progressio khi viết:
Cuối cùng, chính
các bậc cha mẹ là người phải nhìn kỹ vấn đề và quyết định số con cái của họ.
Đây là nghĩa vụ mà họ tự mình đảm đương, trước con cái mình đã sinh thành, và
trước cộng đoàn trực tiếp của họ - trong khi tuân theo các mệnh lệnh lương tâm
của chính mình được soi dẫn bởi luật Chúa được giải thích cách chân thực, và được
củng cố bằng lòng tín thác vào Chúa.[16]
Như thế, trách
nhiệm làm cha mẹ không chỉ đơn thuần là việc giảm số lượng con cái mà một cặp vợ
chồng có thể có mà còn là khoảng cách những lần sinh con, nhưng luôn tuân theo
các phương thức hợp pháp được Giáo hội ủng hộ, cụ thể là các phương pháp kế hoạch
hóa gia đình tự nhiên vào thời kỳ tại sinh (fertile) trong chu kỳ của người nữ,
theo lương tâm được đào luyện đúng đắn của một người. Mười ba năm sau, Đức
Gioan Phaolô II đề cập đến khái niệm tương tự, khi ngài nói về việc sử dụng các
biện pháp ngừa thai trên chu kỳ tự nhiên, theo đó một đôi vợ chồng chia sẻ
trách nhiệm đối với con cái của họ (Familiaris
Consortio, 32). Sách Giáo Lý Hội
Thánh Công Giáo (1992) cũng đề cập đến khái niệm về việc làm cha mẹ có trách
nhiệm trong các số 2367 và 2368.
3. ‘Những mục đích'
trở thành ‘ý nghĩa' của Hôn Nhân
Trong khi cảnh
báo rằng tinh thần “làm cha mẹ có trách nhiệm” này phải thường xuyên đối thoại
với trật tự luân lý khách quan (Số 10), Humanae
Vitae tuyên bố rõ ràng rằng chỉ có các phương pháp kế hoạch hóa gia đình tự
nhiên mới được sử dụng trong việc thực hiện trách nhiệm này của vợ chồng (Số
16). Tất cả các phương pháp điều hoà sinh sản nhân tạo đều bị lên án (Số 14),
và việc lên án này dựa trên một lập luận nguyên mẫu mà Đức Phaolô VI đưa vào
giáo huấn của Huấn quyền: trước hết, ngài gọi ‘các mục đích'' truyền thống của
hôn nhân bằng một thuật ngữ mới, ‘những ý nghĩa'. Theo đó, có hai ‘ý nghĩa' của
hôn nhân: ‘nên một' và ‘tạo sinh'. Sau đó (sử dụng những gì Gaudium et Spes đã nói về mối liên kết
keo sơn giữa tình yêu tương thuộc của vợ chồng và việc tạo sinh), ngài tiếp tục
lập luận rằng hai ý nghĩa này được Thiên Chúa kết hợp bất khả phân ly, và rằng
mối liên kết đó không thể bị phá vỡ bởi con người[17]. Tất cả
các văn kiện huấn quyền sau này đã liên tục sử dụng lập luận vững chắc này của
Đức Phaolô VI để cho thấy tính phi luân của việc sử dụng biện pháp tránh thai
nhân tạo.[18]
Theo thiển ý của
chúng tôi trong bài viết này, người ta cần chú ý tới không chỉ lập luận mới này
chống lại các biện pháp tránh thai nhân tạo, mà còn tới sự tiến hóa độc đáo của
thuật ngữ ‘ý nghĩa'. Đầu tiên, Thánh Augustinô đã nói về ba <thiện ích> của
hôn nhân[19], và
sau đó, Thánh Tôma nói về thứ tự phân cấp của hai “mục đích” trong hôn nhân: tạo
sinh là “mục đích'' trên hết và tình yêu tương thuộc là mục tiêu “thứ cấp”.
Vatican II tiếp tục nói về “các mục đích” của hôn nhân, nhưng không đề cập thứ
tự thứ bậc nào của chúng. Và ở đây, Humanae
Vitae đánh dấu một giai đoạn khác trong sự tiến hóa của những thuật ngữ này
khi gọi các “mục đích” là “các ý nghĩa” của hôn nhân. Trong Familiaris Consortio, Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II cũng tiếp tục sử dụng thuật ngữ “các ý nghĩa” để chỉ “các mục
đích” truyền thống, do đó xác nhận một sự tiến bộ rõ rệt trong giáo huấn chính
thức của Giáo hội.[20] Bộ Giáo luật (1983), có hiệu lực hai năm
sau đó, hoàn toàn hài hòa với việc tỉnh lược của giáo huấn hậu Vatican II liên
hệ tới khái niệm phân cấp thứ bậc trong mục đích của hôn nhân trước Vatican II;
thật vậy, Giáo luật hiện nay lưu ý là “thiện ích của đôi hôn phối” đi trước “việc
tạo sinh và dưỡng dục con cái” (Giáo Luật. đ.1055).
4. Mối liên kết nội tại giữa Tình yêu (tình yêu tương thuộc) và Sự sống (việc
tạo sinh)
Trong Humanae Vitae, luận giải của Đức Phaolô
VI về tình yêu hôn nhân hoàn toàn hài hoà với những gì Gaudium et Spes đã dạy ba năm trước, khi ngài nói: “Tình yêu này
trước hết mang ý nghĩa hoàn toàn nhân văn, một hiệp thể xúc cảm và tinh thần”
(Số 9). Khi gọi tình yêu là một “hình thái rất đặc biệt của tình bằng hữu cá vị”,
ngài cho rằng tình yêu này cũng mang tính “phong nhiêu” (Số 9), do đó, làm nổi
bật mối liên hệ nội tại giữa tình yêu hôn nhân và sự sống được tạo ra. Việc làm
nổi bật mối liên kết nội tại giữa hai “mục đích” (mà từ giờ trở thành “ý nghĩa”
trong Humanae Vitae) và đưa mối liên
kết đó về với chính Thiên Chúa, việc đó tự nó đã là bước tiến bộ trong giáo
thuyết, theo nghĩa, trong thời kỳ tiền Vatican II, hai mục đích này đã không được
kết nối cách rõ ràng. Đúng hơn, hai mục đích đó được coi như hai mục đích xếp
theo thứ tự phẩm trật, biệt lập với nhau, mỗi mục đích xem ra có thể hiện hữu độc
lập với nhau, ở trên hay dưới theo phẩm trật.
Trong Familiaris Consortio, Đức Gioan Phao-lô
II cũng đề cập đến liên kết nội tại này khi viết: “Cặp vợ chồng, trong khi trao
hiến cho nhau, họ không chỉ trao ban chính mình nhưng còn trao ban thực tại con
cái, vốn là một phản ảnh sống động tình yêu của họ, là dấu hiệu thường hằng của
sự thông hiệp vợ chồng, và là một tổng hợp sống động, không thể tách rời của
thiên chức làm cha mẹ” (Số 14). Ngài tiếp tục xây dựng điểm này thêm:
Sinh sản là hoa
trái và dấu chỉ của tình yêu vợ chồng, chứng từ sống động của sự trao ban trọn
vẹn cho nhau của đôi hôn nhân. “Trong khi không làm cho các mục đích khác của
hôn nhân bị giảm giá trị, việc thực hành đúng nghĩa hành vi vợ chồng và toàn bộ
ý nghĩa của đời sống gia đình khởi đi từ đó, đều nhắm đến mục đích này, đó là
các cặp vợ chồng đã sẵn sàng với con tim quả cảm hợp tác với tình yêu của Đấng
Tạo Hóa và Đấng Cứu Rỗi, Đấng qua họ sẽ mở rộng và làm phong phú thêm gia đình
của chính Ngài từng ngày”. (FC 28).
Vọng vang giáo huấn
căn bản của GS số 50: hôn nhân không được thiết định chỉ để sinh sản”, và để
phát triển ý niệm xa hơn, Familiaris
Consortio nói: “Tuy nhiên, hoa trái của tình yêu vợ chồng không chỉ hạn chế
trong việc sinh sản con cái, kể cả nếu hiểu theo chiều kích nhân văn đặc thù”
(Số 28). Với lịch sử trải dài khoảng 1.600 năm kể từ Thánh Augustinô, trong thời
gian đó Giáo hội đã dạy một cách nhất quán rằng mục đích chính của hôn nhân là
tạo sinh (đôi khi thậm chí ngụ ý rằng đó là mục đích duy nhất của hôn nhân),[21] chắc
chắn đây là một tiến bộ hiển nhiên trong giáo thuyết.
5. Tình Yêu Hôn Nhân như thể một phản ánh của chính Tình Yêu Thiên Chúa
Trong một bài báo
gần đây ngay sau khi kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục Ngoại thường, Antonio
Spadaro bắt đầu với câu: “Tình yêu giữa một người nam và một người nữ là hình ảnh
của tình yêu của Thiên Chúa”.[22] Một
tuyên bố như vậy sẽ gây sốc cho bất kỳ giáo sư hay sinh viên thần học luân lý
nào ngay trước Công đồng Vatican II. Do mối ngờ vực nền tảng về hành vi tình dục
con người mà truyền thống Công giáo được kế thừa từ thời các Giáo Phụ, tình yêu
tính dục của con người, kể cả trong những năm trước Công đồng, không mang tính
tích cực trong thần học luân lý Công giáo. Tình yêu giữa một người nam và một
người nữ (eros) đã bị nhìn với sự
nghi ngờ như cái gì đó xô đẩy con người xa rời Thiên Chúa.[23] Và điều
này bất chấp quan điểm phong phú của Kinh Thánh về tình yêu, đặc biệt là trong
sách Diễm Ca. Trong thời kỳ tiền Vatican II, điều cần thiết nhất là khế ước hôn
nhân đã được ký kết hữu hiệu, và hôn nhân được nhìn trong khuôn khổ thuần pháp
lý như thế, đến nỗi “người ta có thể được miễn chước với giả định rằng một người
nam và một người nữ không hề yêu nhau vẫn có thể kết hôn được, miễn là mỗi bên
trao cho bên kia quyền trên thể xác mình”![24] Tuy
nhiên, với Vatican II bao điều đã thay đổi tận căn. Do đó, số 48 của Gaudium et Spes bắt đầu bằng việc xác định
hôn nhân như là một “mối hiệp thông mật thiết của sự sống và tình yêu vợ chồng”(intima communitas vitae et amoris coniugalis).Trong
các số 48 đến 51, chúng ta nhận thấy sự hiệp thông hôn nhân này được mô tả bằng
những thuật ngữ cá vị và mật thiết. Bản chất của sự hiệp thông này được hiểu là
hành vi vợ chồng, và được diễn tả trong số 48 như là “hành vi nhân linh do mỗi
bên trao hiến và đón nhận với nhau. Trong số 49, chúng ta đọc thấy:
Qua việc trao ban
đặc biệt ân sủng và tình yêu, Chúa đã đoái thương chữa trị, hoàn thiện và nâng
cao tình yêu ấy. Một tình yêu kết hợp yếu tố nhân loại với yếu tố thần linh như
thế phải thấm nhuần cả đời sống, và hướng dẫn đôi vợ chồng biết tự do trao hiến
cho nhau qua những tâm tình và cử chỉ trìu mến; hơn nữa, chính nhờ những hành
vi quảng đại của đôi vợ chồng mà tình yêu giữa hai người được hoàn thiện và
tăng trưởng. Do đó, tình yêu vợ chồng thật khác xa với sự hấp dẫn phái tính thuần
túy nhục dục, một sự hấp dẫn, nếu được thực hiện cách ích kỷ, sẽ mau chóng tan
biến và đưa tới những hậu quả thảm hại.
Kể từ khi hiến chế
Gaudium et Spes phục hồi tình yêu hôn
nhân trở lại đúng vị trí của nó trong truyền thống Công giáo, tất cả các tài liệu
huấn quyền đã rất tích cực khi nói về tình yêu hôn nhân. Sự phục hồi của Công Đồng
cho tình yêu hôn nhân trở về đúng nguyên vị và trong mối liên kết với Thiên
Chúa đã chạm đến tột đỉnh của nó trong các giáo huấn chính thức với phát biểu của
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI trong thông điệp Deus Caritas Est (2005): “Đúng thế, eros muốn đưa chúng ta ‘trong cơn xuất thần' hướng về Thiên Chúa, dẫn
dắt chúng ta vượt lên chính mình; nhưng vì lý do này nó đòi hỏi một con đường
đi lên, từ bỏ, thánh tẩy và chữa lành ”.[25] Đức Giáo
Hoàng tiếp tục nhấn mạnh rằng tình yêu hiến trao hoặc tự hạ (agape) trao cho nhau như Chúa Giêsu đã dạy
và tình yêu giữa một người nam và một người nữ (eros) “không bao giờ có thể hoàn toàn tách rời”.[26] Vì
vậy, ngài rõ ràng phủ nhận sự đối chọi giữa agape
và eros vốn phổ biến trong phạm vi
Giáo hội trong vài năm trước Công Đồng. Đúng hơn, một tình yêu toàn diện và bao
quát như trong việc trao hiến cho nhau trong hành vi hôn nhân vượt qua chân trời
của tình yêu con người (eros) và sẵn
sàng tham phần vào tình yêu thần linh (agape).
6. Những kiểu thức khác của Tương giao tính dục khác
giới không đáp ứng đầy đủ đặc tính Hôn nhân Công giáo lý tưởng (Khoảng thời gian) giữa Công Đồng Vatican II (kết
thúc vào năm 1965) và Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới về gia đình năm 1980,
đã có rất nhiều thay đổi triệt để trong nhận thức và thực tế sống động về tính
dục con người và hôn nhân trong thế giới thế tục đương đại. Trong một khoảng thời
gian ngắn chỉ 15 năm, một loạt các dạng tương giao tính dục khác giới như hôn
nhân thử nghiệm, “hôn nhân defacto” (thường được gọi là “sống thử”), hôn nhân
dân sự rồi ly hôn và tái hôn, ngày càng đông đảo.[27]
Những giáo huấn
luân lý của Giáo hội được hiểu là để phục vụ con người, vốn luôn thay đổi không
chỉ trong sự hiểu biết của họ về chính hiện hữu nhân sinh mà còn về sự ứng xử nữa.
Vì vậy, liên quan đến hôn nhân, ngày nay, không chỉ có các hình thức mới trong
kết hợp tính dục khác giới, mà còn có cả các kết hợp tính dục đồng giới công
khai, họ thậm chí còn yêu cầu những mối tương giao (tính dục) đó phải được công
nhận là “hôn nhân”! Giáo huấn của Giáo hội (thậm chí miễn cưỡng) đã bàn đến các
nhóm như vậy ít nhất là một cách tuần tự, mặc dù Giáo hội tiếp tục trung thành
duy trì một hôn nhân đơn nhất, dị tính, bí tích như là hình thức hôn nhân lý tưởng.
Đó là lý do tại sao một văn kiện chính thức của Giáo hội như Familiaris Consortio cố gắng bàn đến các
nhóm này từ một quan điểm mục vụ, lần đầu tiên trong lịch sử của Giáo hội (các
số từ 79 đến 84).[28] Điều
đáng quan tâm là người ta có thể nhận ra hình thức tiến hóa nào đã diễn ra
trong chính khái niệm về hôn nhân trong thực tế sống của con người, bởi thực tế
là những giáo huấn của Vatican II không có bất kỳ nhóm nào trong số này thậm
chí được đề cập, trong khoảng 50 năm trước.”[29]
7. Người Công giáo
Ly dị và Tái hôn
Trong nhiều thế kỷ,
Giáo hội đã luôn nhất quán trong giảng dạy rằng những người Công giáo đã ly hôn
và tái hôn “đang sống trong tội lỗi”, nói cách chính xác hơn, là đang sống
trong tội ngoại tình. Các văn kiện huấn quyền trong suốt 50 năm qua cũng tiếp nối
trình bày cách trung thành và hùng hồn giáo lý Công giáo về tính bất khả phân
ly của hôn nhân, như giáo huấn do chính Chúa Giêsu đã dạy. Tuy nhiên, đối với
việc chữa trị mục vụ cho những người Công giáo đã ly dị và tái hôn, có một số
bước phát triển căn bản trong các giáo huấn chính thức. Để nắm bắt ý tưởng về
cách hiểu trong Giáo hội thời tiền Công Đồng về người ly dị và tái hôn, chúng
ta chỉ cần trưng dẫn cách hiểu của Bộ Giáo luật năm 1917 về họ:
Những người sống
trong tình trạng trùng hôn (bigamists), đó là, những người, tuy đã có một giao
ước hôn nhân, cố tình nhập cuộc hôn nhân khác, ngay cả chỉ là hôn nhân dân sự
như họ nói, những người đó sống không đúng đắn; và nếu, bất kể khuyến cáo của Đấng
Bản quyền, vẫn ở lại trong mối quan hệ bất chính, họ bị tuyệt thông theo mức trầm
trọng của hành vi hay phạt vạ cấm chế cá chân.[30]
Tuy nhiên, Bộ
Giáo luật năm 1983, không còn gọi cách miệt thị người ly hôn và tái hôn là “đối
tượng trùng hôn”; Bộ luật cũng không chứa đựng các mối đe dọa trừng phạt hay một
vạ tuyệt thông theo mức độ nặng của hành vi. Bộ luật chỉ đơn giản nói rằng:
“Ngăn trở công hạnh phát sinh từ một cuộc hôn nhân bất thành sau khi đã sống
chung do tư hôn công khai hay hiển nhiên” (ND- bản dịch tiếng Việt của HĐGMVN).[31] Ở
đây, chúng ta nhận thấy một bước phát triển rõ ràng trong thực hành theo Giáo luật
của Giáo hội đối với việc ly hôn và tái hôn.
Hơn nữa, vào năm
1977, Ủy ban Thần học Quốc tế trong khi duy trì các lập luận Công giáo truyền
thống chống lại việc những người đã ly hôn và tái hôn được lãnh nhận Bí tích
Thánh Thể, tuy nhiên, đã đưa ra một gợi ý mục vụ mềm dẻo nhắc tới những trách
nhiệm phát sinh từ việc lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, khi nói rằng:
Họ không được miễn
trừ từ nhiều nghĩa vụ xuất phát từ phép rửa tội, đặc biệt là nhiệm vụ tạo điều
kiện cho con cái họ được hấp thụ nền giáo dục Kitô giáo. Những nẻo đường cầu
nguyện Kitô giáo, cả công khai và riêng tư, việc sám hối, và các hoạt động tông
đồ nào đó vẫn mở ra cho họ.[32]
Việc mở các kênh
liên đới mới cho người ly dị và tái hôn hòa nhập vào cộng đồng Giáo hội đã được
tăng cường thêm bốn năm sau đó bởi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khi ngài viết:
Giáo hội, vốn được
thành lập để đưa muôn dân đến với ơn cứu độ cách riêng là những người đã được rửa
tội, không thể bỏ mặc họ là những người trước đây bị ràng buộc bởi Bí tích Hôn
nhân trước và đã cố tình xây dựng cuộc hôn nhân thứ hai. Giáo hội do đó nỗ lực
không mệt mỏi để đem lại cho họ các phương tiện mang lại ơn cứu rỗi. (FC 84)
Sau đó, dưới cùng
một tiêu đề “Những Người ly dị đã tái hôn”, Đức Giáo Hoàng liệt kê cách thế để
những người như vậy có thể được xem xét, để họ không bị tách rời khỏi Giáo hội,
nhưng hơn nữa là họ “chia sẻ đời sống Giáo hội”: khuyến khích họ lắng nghe Lời
Chúa, dự phần Hy Tế Thánh Lễ, kiên trì cầu nguyện, đóng góp cho các công việc từ
thiện và các nỗ lực cộng đồng bênh vực công lý, nuôi dạy con cái của họ trong đức
tin Kitô giáo, đào luyện tâm hồn và thực hành việc sám hối rồi ngày lại ngày khẩn
cầu ân sủng Chúa (FC, số 84). Đức Giáo Hoàng kêu gọi Giáo hội cầu nguyện cho họ,
để khuyến khích họ và cho thấy Giáo hội là một người mẹ từ bi, và do đó, duy
trì họ trong đức tin và hy vọng (FC, số 84).
Nhắc đến Tuyên bố
đã đề cập bên trên của Ủy ban Thần học Quốc tế năm 1977, và về những gì Đức
Giáo hoàng Gioan Phaolô II dạy trong Familiaris
Consortio, Orsy nói rằng “từ quan điểm thần học cả hai văn kiện đều xem người
ly dị và tái hôn như là một nhóm đặc biệt trong Giáo hội, với tình trạng được
xác định rõ ràng”, theo nghĩa là họ không bị tách rời khỏi Giáo hội như trong
nhận thức trước đây về họ, tỷ dụ, theo Bộ Giáo luật năm 1917[33], mà
bây giờ họ được coi là hiệp thông với Giáo hội. Orsy tiếp tục bình luận:
Rõ ràng là, hai
văn kiện chứng thực rằng Giáo hội đang rời khỏi một lập trường nghiêm khắc và cứng
nhắc, khi phán xét người ly dị và tái hôn như những kẻ phạm tội công khai, và đang
hướng tới trân trọng họ, với điều kiện họ mang trong lòng con tim thống hối,
cũng như tâm tình những người biết đón nhận ân sủng Thiên Chúa. Nội dung của
các văn kiện chỉ ra rằng chúng ta đang ở giữa một giai đoạn phát triển chưa đạt
được mục tiêu tối hậu.[34]
Tuy nhiên, thật
đáng ngạc nhiên khi sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo (GLHTCG) được ban hành vào
năm 1992, nói rằng những người như vậy đang sống trong “một tình trạng ngoại
tình công khai và vĩnh viễn”.[35]
Không có tài liệu huấn quyền nào khác, theo hiểu biết của chúng tôi, đã sử dụng
ngôn ngữ mạnh mẽ như vậy chống lại người Công giáo đã ly dị và tái hôn trong thời
kỳ hậu Vatican II. Sự kiện GLHTCG đứng trên lập trường cứng rắn đối với người
Công giáo tái hôn hơn là Tông huấn Familiaris
Consortio có thể dễ dàng hiểu được nếu so sánh số 84 của FC với số 1650
trong GLHTCG. Không chỉ “mối bận tâm từ mẫu” của Giáo hội mà còn nhiều lĩnh vực
mà những người Công Giáo có thể tham gia vào đời sống Giáo hội như đã được Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề cập không có trong GLHTCG. Tuy vậy, khoảng 15 năm
sau, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã lặp lại điều Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô
II đã từng nói, cụ thể là, những người Công giáo đã tái hôn vẫn thuộc về Giáo hội,
và lời mời gọi đề nghị cho họ tham gia vào đời sống Giáo hội ngoại trừ việc
lãnh nhận các bí tích.[36] Sự
bảo đảm này đối với những người Công giáo đã tái hôn xác định họ vẫn thuộc về
Giáo hội và mời gọi họ tham dự vào đời sống Giáo hội (đến từ cả hai Đức Giáo
hoàng), mà theo Đức Hồng y Kasper là “một cung điệu mới”.[37]
Khi đề cập đến những
người Công giáo đã tái hôn, Bản Đúc Kết của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới
Ngoại thường gần đây về Gia đình đã sử dụng các thuật ngữ mang tính nhân văn và
tâm tình hơn khi ghi nhận, “Giáo hội có trách nhiệm giúp họ hiểu được phương
pháp sư phạm thiêng liêng về ân sủng trong cuộc sống của họ và cung cấp cho họ
sự giúp đỡ để họ có thể đạt tới sự trọn lành trong kế hoạch mà Thiên Chúa dành
cho họ ”.[38] Hơn
nữa, còn kêu gọi hãy “khuyến khích họ tham gia vào đời sống cộng đoàn” (Số 51).
Bản văn này không hề đề cập đến sự chống đối trong truyền thống Công giáo về
“tai tiếng” có khả năng xảy ra nếu người ly dị tái hôn được đón nhận vào thông
hiệp, thay vào đó, đã kêu gọi nhìn trong quan điểm tích cực hướng đến một tiếp
cận mục vụ tương ứng: “Việc chăm sóc của cộng đoàn Kitô hữu dành cho những người
như vậy chẳng những không được coi như làm suy yếu đức tin cộng đoàn và chứng
tá cho tính bất khả phân ly của hôn nhân, nhưng, chính xác hơn theo cách này, cộng
đoàn càng bày tỏ hiển đức ái hơn”. (Số 51) Điều này, chắc chắn là một nhịp đệm
cho một bước phát triển mới.
8. Hôn Nhân Hỗn Hợp
Thuật ngữ “hôn
nhân hỗn hợp” theo cách nói thông thường, cũng như theo một nghĩa rộng trong Bộ
Giáo luật, đề cập đến hôn nhân giữa người Công giáo và người không chịu phép rửa
tội (hôn nhân dị giáo) và giữa người Công giáo và người không công giáo - (đã
được rửa tội trong một Giáo hội Kitô ngoài Công giáo - ND) (hôn nhân hỗn hợp).[39] Nhận
xét về loại thứ hai, Siegle gợi lại một bức tranh sinh động về thái độ Công
giáo trước đó đối với những cuộc hôn nhân như vậy:
Qua nhiều năm, có
nhiều quyết nghị tiến bộ có liên quan đến hôn nhân hỗn hợp. Các điều khoản miễn
chuẩn đã từng được ban cấp trước đây cho việc hợp thức hóa những cuộc hôn nhân
như thế phải chứng hôn trong nhà xứ hoặc phòng thánh trong phạm vi nhà thờ xứ;
những tiến bộ sau đó đã cho phép các cuộc hôn nhân ấy có thể được chứng hôn
trong nhà thờ nhưng bên ngoài bàn thờ, và trong một số giáo phận không có hoa
trên bàn thờ, không có âm nhạc và không có nến thắp sáng. Theo thời gian, được
phép chứng hôn trong phạm vi cung thánh có âm nhạc (không lời ca) và cho phép cắm
hoa bàn thờ. Các điều khoản mới giờ đây đã cho phép cử hành thánh lễ hôn phối
trong nhà thờ và bên Công giáo được rước lễ.[40]
Một phân tích về
cách hành xử theo Giáo luật trước và sau Vatican II cho thấy một sự phát triển
rõ rệt trong truyền thống về những cuộc hôn nhân như thế. Ví dụ, Bộ Giáo luật
năm 1917 đề cập đến những gì được gọi là “hôn nhân hỗn hợp” như sau:
Giáo hội thực sự
hết sức nghiêm cấm chứng hôn cho hai người đã chịu phép rửa, với một bên là
Công giáo, và người kia thuộc về một giáo phái dị giáo hoặc ly giáo: thực sự, nếu
có nguy cơ bị ngược đãi với vợ / chồng và con cái Công giáo, hôn nhân đó bị cấm
thậm chí do thiên luật.[41]
Ngay cả một so
sánh rất bề ngoài của trường hợp nêu trên tham chiếu với trường hợp trong Bộ
Giáo luật năm 1983 cho thấy tính mềm dẻo trong ngôn từ và giọng điệu sử dụng:
Nếu không có phép
minh nhiên của thẩm quyền, cấm kết hôn giữa hai người đã được Rửa Tội, mà một
người đã được Rửa Tội trong Giáo hội Công giáo hoặc đã được nhận vào Giáo hội
Công giáo sau khi Rửa Tội, và đã không bỏ Giáo hội ấy bằng một hành vi dứt
khoát, còn người kia đã gia nhập vào một Giáo hội hoặc một cộng đoàn Giáo hội
không thông hiệp trọn vẹn với Giáo hội Công giáo (bản dịch tiếng Việt của
HĐGMVN - ND).[42]
Hơn nữa, trong Bộ
luật năm 1917, đó là bên không Công giáo (dù đã chịu phép rửa hay không) phải
cam đoan (và bằng văn bản) “để loại bỏ nguy cơ bị ngược đãi từ người phối ngẫu
Công giáo”, và rửa tội cho tất cả con cái sinh ra và dưỡng dục trong đức tin
Công giáo, để xin phép (trong trường hợp chuẩn hôn nhân hỗn hợp) hoặc một sự miễn
chuẩn (trong trường hợp có hôn nhân dị giáo)[43]. Nhưng Bộ
luật năm 1983 đã thay đổi lập trường Giáo luật này một cách triệt để, và vì vậy,
bây giờ chính bên Công giáo phải đoan hứa rằng họ sẽ làm mọi thứ có thể không
gây nguy hiểm cho đức tin Công giáo của mình, và làm hết sức để con cái sau này
được rửa tội và lớn lên trong đức tin Công giáo.[44] Doyle bàn
luận về thay đổi diễn ra như thành quả của Vatican II liên quan đến các điều kiện
để ban cấp phép miễn chuẩn cho các cuộc hôn nhân như vậy:
Bên không Công
giáo không còn cần phải thực hiện bất kỳ lời hứa nào. Thay vào đó, bên Công
giáo phải tuyên bố rằng họ sẵn sàng loại bỏ mọi nguy cơ rời khỏi đức tin và hứa
sẽ làm hết sức mình để mọi đứa con sau này đều được lãnh Bí tích Thánh tẩy và
trưởng thành trong đức tin Công giáo. Trách nhiệm trung thành với Giáo hội thuộc
về bên Công giáo chứ không phải bên vợ / chồng không Công giáo, mặc dù bên
không Công giáo cũng buộc phải tôn trọng bối cảnh Công giáo.[45]
Orsy tin rằng
Tuyên ngôn về Tự do tôn giáo (Dignitatis
humanae) của Vatican II “nhấn mạnh quyền của tất cả mọi người theo lương
tâm của họ và quyền công khai thực hành niềm tin tôn giáo của họ” có một vai
trò trong sự thay đổi này.[46]
Như chúng ta đã
biết, những cuộc hôn nhân dị giáo mà bây giờ được gọi bằng hạn từ “hôn nhân
liên tôn” (theo cách gọi trong một tài liệu của UBMVGĐ trực thuộc HĐGMVN - ND)
đang gia tăng một cách phi thường trong những thập kỷ gần đây, không chỉ trong
miền đất được gọi là các khu vực không Kitô hữu, nhưng còn ở những nơi khác nữa.
Familiaris Consortio diễn tả những cuộc
hôn nhân ấy ngay sau khi nói về cuộc hôn nhân hỗn hợp trong số 78 rằng:
Ngày nay, tại nhiều
nơi trên thế giới những cuộc hôn nhân giữa người Công giáo và những người không
rửa tội đang ngày càng tăng về số lượng. Trong nhiều cuộc hôn nhân như vậy, bên
không chịu phép rửa thực hành tôn giáo khác, và niềm tin của họ phải được tôn
trọng, phù hợp với các nguyên tắc được đưa ra trong Tuyên ngôn Nostra Aetate của Công Đồng Vatican II về
các mối quan hệ với các tôn giáo không phải Kitô giáo. Nhưng trong nhiều cuộc
hôn nhân như vậy, đặc biệt là trong các xã hội thế tục, người không chịu phép rửa
cũng không theo tôn giáo nào cả, trong những cuộc hôn nhân này cần được các Hội
Đồng Giám Mục và cá nhân các Đức Giám mục đoan chắc rằng sẽ có những biện pháp
mục vụ phù hợp để bảo vệ đức tin của bên Công giáo và cho việc tự do thực hành
đức tin, trên hết là nghĩa vụ phải làm hết sức mình để những đứa trẻ sinh ra được
lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy và hấp thụ nền giáo dục Công giáo. Tương tự như vậy,
người Công giáo phải được hỗ trợ theo mọi cách có thể để đem đến trong gia đình
mình một chứng tá đích thực cho đức tin Công giáo và đời sống Công giáo.
Điều đáng ngạc
nhiên là, theo một khuynh hướng thần học khác, GLHTCG bày tỏ mong muốn nhiệt
thành cho cuộc trở lại cuối cùng của bên không Công giáo về với Đạo Công giáo.[47]
Kết luận
Như chúng ta đã
thấy ở trên, nhận thức về hôn nhân và những phức tạp của nó trong đời sống thực
tế chắc chắn đã trải qua những tiến triển căn bản, trong 50 năm qua, trong giáo
huấn chính thức của Giáo hội. Chỉ có cơ thể sống mới có thể tăng trưởng (hay
phát triển), và sự tăng trưởng luôn bao hàm sự biến đổi. Có thể nói rằng truyền
thống luân lý Công giáo thực sự là một cơ thể sống động luôn phát triển.[48]
Bình luận về những phát triển như vậy trong giáo huấn luân lý Công giáo chính
thức, không chỉ liên quan đến hôn nhân mà còn liên quan đến các vấn đề luân lý
khác, nhà sử học nổi tiếng Noonan cảm nhận Giáo hội Công giáo là tổng thể hữu
cơ sung mãn đầy sinh lực giải quyết các vấn đề mới với các giải pháp mới, và tăng
cường khả năng tín hữu lĩnh hội thông qua kinh nghiệm và cảm thông mà tình yêu
đòi buộc. Ông cho rằng động lực thay đổi đến từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm
cầu nguyện, suy gẫm Kinh Thánh, những hiểu biết và phân tích thần học mới, sự
tiến hóa của các thể chế của con người, và những tấm gương và lời dẫn dạy của
những người thành tâm thiện chí.[49]
Những thay đổi như vậy không là gì khác hơn tình trạng aggiornamento - cập nhật, một sự canh
tân đổi mới, một hồi đáp cho các “dấu chỉ của thời đại” trong lịch sử. Những
thay đổi đó không phải là sự lệch đường hoặc đánh loãng truyền thống; đúng hơn,
thông thường nếu không nói là luôn luôn, những thay đổi ấy đánh dấu sự trở về
nguồn cội của truyền thống, đặc biệt là giáo huấn Kinh Thánh và đời sống Giáo hội
ban đầu (tức là sự về nguồn), như các
nhà thần học Pháp hàng đầu Henri de Lubac, Jean Daniélou, Yves Congar,
Marie-Dominique Chenu, v.v đã nhắm tới trong các nghiên cứu riêng của họ trước
Vatican II. Bao lâu Chúa Thánh Thần mà Đức Kitô hứa ban đang hiện diện trong
Giáo hội, Người sẽ từng bước làm cho Giáo hội hiểu mặc khải của Thiên Chúa tốt
hơn[50].
Nói cách khác, sự hiểu biết của Giáo hội về giáo lý của chính mình sẽ tiếp tục
phát triển, nhờ cũng một Thánh Thần.
(*) Dịch từ bản tiếng Anh Theological Reflections on the Family in the Lead up to the 14th
Ordinary General Assembly of the Synod of Bishops on the Family,
“Development of Official Catholic Moral Teachings on Marriage during the Past
50 Years”, FABC Papers no. 145.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 108 (Tháng 9 & 10 năm 2018)
[3] Henry Davis, Moral and Pastoral Theology, Vol. IV, Eighth Edition (Revised and
Enlarged), London: Sheed and Ward, 1959, 53.
[4] Thật khó chọn lựa một từ ngữ chính xác tương đương với từ Latinh này trong nguyên bản của GS.
[5] Cfr. Vimal Tirimana, “Vatican II's Teaching on Marriage: An Antidote to Contemporary Problems”, Vidyajyoti Journal of Theological Reflections, 77:7 (July 2013).
[7] Ladislas Orsy, Marriage in Canon Law: Texts and Comments, Reflections and Questions,
Wilmington: Michael Glazier, 1986, 47.
[9] Cfr. Karl H. Peschke, Christian Ethics: Moral Theology in the
Light of Vatican II, Vol. II (Revised Edition), Bangalore: Theological
Publications in India, 1992, 502: John T. Noonan, Jr., Contraception: A History of its Treatment by the Catholic Theologians
and Canonist (Enlarged Edition), Cambridge: Havard , University Press,
1986, 442-443.
[10] Đức Giáo Hoàng Piô XI, Thông Điệp Casti Connubii (1930), như đã trích
trong cuốn sách của Joseph A. Selling, “Magisterial Teaching on Marriage 1880 -
1968: Historical Constancy or Radical Change?” in Réal Tremblay and Dennis J.
Billy (Eds), Historia: Memoria Futuri,
Melanges Louis Vereecke, Roma: Edizione Academiae Alphonsianae, 1991, 375
[12] Theo Thánh Augustinô (mà các giáo huấn
của ngài về hôn nhân vốn chi phối trong thời tiền Vatican II, mỗi hành vi trong
đời sống vợ chồng phải minh định ý hướng truyền sinh.
[18] Cfr., FC, No:32, CCC No: 2366. Luận điểm
nguyên mẫu của Đức Phaolô VI cũng được sử dụng trong giáo huấn Giáo hội nhằm
ngăn cấm sử dụng
những kỹ thuật nhân bản tân tiến nhất.
[19] Theo Thánh Augustinô, ba thiện ích là:
con cái, lòng trung tín trong hôn nhân và tính bất khả phân ly của hôn nhân.
[21] Theo Thánh Augustinô, mỗi hành vi tính
dục đều phải mang một ý định hiển nhiên là truyền sinh, trong khi đó Thánh
Thomas và giáo huấn Công giáo sau đó trước Vatican II, mục tiêu tối thượng của
hôn nhân từng là truyền sinh.
[22] Antonio Spadaro, “Una Chiesa in Cammino
Sinodale: Le Sfide Pastorali sulla Famiglia”, La Civilta Cattolica, 165, (1 Novembre, 2014), 213.
[23] Để nghiên cứu chi tiết về hoan lạc tính
dục được giải thích trong Truyền thống Công giáo, xin xem cuốn sách của Shaji
George Kochuthara, The Concept of Sexual
Pleasure in the Catholic Moral Tradition, Roma: Editrice Pontificia
Universita Gregoriana, 2007.
[24] Michael G. Lawler, Marriage and Sacrament: A Theology of
Christian Marriage,
Collegeville: The Liturgical Press, 1993, tr,. 19.
[27] Tất nhiên, người ta có thể có quyền đóng
góp cho những thay đổi quyết liệt cho cái gọi là “cuộc cách mạng tính dục” vào
thập niên 1960, trong những yếu tố và nguyên nhân lịch sử - xã hội.
[28] THĐGM TG Ngoại thường kết thúc gần đây đã
dành rất nhiều sự chú ý không chỉ cho các hình thức đa dạng của tương quan tính
dục khác giới mà còn cho các tương quan tính dục đồng giới, cho thấy một sự
phát triển căn bản khác trong Truyền thống.
[29] Ngay cả thực tế của việc ly dị và tái hôn
được nhắc đến một cách hiếm hoi trong GS, đơn giản bởi vì nó không phải là một
hiện tượng phổ biến như bây giờ.
[30] Bộ Giáo luật năm 1917, đ. 2356 cũng tái
xuất hiện trong cuốn sách của Edward N. Peters (Curator), The 1917 Pio-Benedictine Code of Canon Law: In English Translation with
Extensive Scholarly Apparatus, San Francisco: Ignatio Press 2001, tr. 748.
Tất cả những tham chiếu đến sau trong Bộ Giáo luật 1917 được trích dẫn từ các
Vị Kế nhiệm Thánh Phêrô.
[31] Bộ Giáo luật 1983, đ. 1093. Cũng có thể
tham khảo Cardinal Walter Kasper, The
Gospel of the Family, New York: Pauline Press, 2014, tr. 27.
[36] Đức
GH Bênêđictô XVI, Tông huấn Sacramentum
Caritatis (2007), Số 29. Lập trường chắc chắn đến ngạc nhiên của GLHTCG chưa hề thấy
có trong các tài liệu huấn quyền khác về vấn đề này.
[38] Bản Đúc Kết của THĐGM TG Ngoại thường về
Gia đình (tháng Mười năm 2014), số 25, cũng như tái xuất hiện trong cuốn Origins, 44:24 (13 tháng Mười Một,
2014), tr. 399. Khi quá trình suy tư lâu dài và đi đến quyết định Thượng Hội
Đồng Giám Mục về Gia đình kết thúc với Tông Huấn hậu THĐGM TG sẽ ban hành sau
THĐGM TG Thường lệ vào tháng Mười 2015, người ta có thể lạc quan về những tiến
bộ liên quan đến các giáo huấn chính thức về đề tài này.
[39] Cfr., Thomas P. Doyle, “Title: VII,
Marriage” in James A Coriden et.al. (Eds), The
Code of Canon Law: A Text and Commentary, New York: Paulist Press, 1985,
800. Một số tác giả sử dụng thuật ngữ này duy nhất cho những cuộc hôn nhân giữa
người Công giáo và người không Công giáo đã rửa tội trong các Giáo hội Kitô
khác. Xem ví dụ trong: Orsy, Marriage in
Canon Law, 180. Vì mục tiêu của người viết cho bài này, chúng tôi sử dụng nó để chỉ luôn “hôn
nhân khác đạo” và “hôn nhân hỗn hợp”.
[40] Bernard A. Siegle, Marriage: According to the New Code of Canon Law, Newyork: Alba
House, 1986, 149.
[44] Bộ Giáo luật 1983, đ. 1125. Hơn thế, bên
không Công giáo cần được thông báo rõ ràng những bổn phận phải có mà bên phối
ngẫu Công giáo của họ phải thực hiện…
[46] Orsy, Marriage
in Canon Law, 36. Người ta cũng có thể thêm sức ảnh hưởng giá trị trong các
tôn giáo khác như đã dạy trong Tuyên ngôn Nostra
Aetate (1965), ít nhất là trong liên hệ tới những đổi thay trong nhận thức
của Giáo hội về hôn nhân khác đạo.
[48] Cfr., Dei
Verbum (1965), Số 8; ĐGH Gioan Phao-lô II, Thông điệp Veritatis Splendor (1993), các số 4, 27-28.
[49] The back-cover summary in John T. Noonan,
Jr, A Church That Can and Cannot Change:
The Development of Catholic Moral Teaching, Notre Dame (Indiana):
University of Notre Dame, 2005.
[50] Cfr. Ga 14, 25-26; Dei
Verbum (1965), Số 8, ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor (1993), các số 27-28.