SỐNG KHIẾT TỊNH Ở NGƯỜI TRẺ CHƯA KẾT HÔN: NHẬN ĐỊNH TRÊN PHƯƠNG DIỆN Y
KHOA VÀ THẦN HỌC LUÂN LÝ CÔNG GIÁO
Tác giả: BS. Trần Như Ý Lan, Dòng Đức Bà
Mục lục
1. Con người là một động vật có lý trí
3. Con người là một hữu thể xã hội và hữu thể tính dục
II. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ KHIẾT TỊNH
III. HIỂU BIẾT Y HỌC VÀ XÃ HỘI VỀ THÂN THỂ CON NGƯỜI
1. Phân biệt giới tính bình thường trên phương diện y khoa
2. Sự thay đổi của cơ thể trong thời kỳ dậy thì
4. Phân biệt từ ngữ và khái niệm về tình dục (sex) và tính dục (sexuality)
5. Phương diện xung động tình dục của giới tính
IV. KẾT QUẢ CỦA VIỆC QUAN HỆ THÂN XÁC
2. Hậu quả y khoa của việc mang thai sớm ngoài ý muốn
3. “Trái đắng” của lối sống tình yêu buông thả
V. GIÁO HUẤN GIÁO HỘI VỀ SỐNG KHIẾT TỊNH
1. Khái niệm và “vẻ đẹp” của đức khiết tịnh
3. Tại sao phải sống khiết tịnh
4. Phẩm giá của nhân vị - Ý nghĩa của tính dục con người
VI. VÀI TỘI XÚC PHẠM ĐỨC KHIẾT TỊNH TRƯỚC HÔN NHÂN
1. Tính luân lý của các hành vi dâm dục hoàn toàn hữu ý trực tiếp
2. Tính luân lý của các hành vi dâm dục không hoàn toàn hữu ý trực tiếp
3. Tính luân lý của các hành vi dâm dục không hoàn toàn hữu ý gián tiếp
5. Xem sách báo, phim ảnh “đen” (khiêu dâm)
6. Quan hệ thân xác trước hôn nhân: Tội gian dâm
VII. LÀM SAO ĐỂ SỐNG KHIẾT TỊNH TRƯỚC HÔN NHÂN
1. Sự cần thiết của rèn luyện thân thể.
2. Chọn bạn để kết giao, thận trọng trong chọn lựa hình thức giải trí và nơi chốn giải trí
3. Rèn luyện nhân đức và đời sống tinh thần, thiêng liêng.
4. Cách thức đối phó với các cảm giác tình dục
IX. LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI TRẺ
WHĐ (18.2.2021) – Trên bia mộ của
Thánh nữ Maria Goretti- có ghi hàng chữ “Maria Goretti, Sinh ngày 16.10.1890, tạ
thế ngày 6.7.1902, Vì bảo toàn bông huệ
khiết trinh”. Cô bé Maria Goretti 12 tuổi được tuyên phong thánh tử đạo vì
cô bé liều chết để bảo vệ sự trinh khiết của mình. Các bạn trẻ, cách riêng các
bạn trẻ Công Giáo hãy xác tín: khi phấn đấu giữ gìn sự trong sạch của thân xác,
bạn đang trên đường trở nên con người viên mãn đích thực, nên THÁNH đó!
Các bạn trẻ có thể phản ứng: xưa
rồi! Ngày nay xã hội tỏ ra “bình thường hóa” quan hệ thân xác ở các bạn trẻ
chưa lập gia đình. Rõ ràng hiện tượng “góp gạo sống chung” ngày đang lan rộng
trong xã hội Việt Nam cơ mà. Và rồi các bạn trẻ ca thán Giáo hội Công giáo dường
như quá nghiêm khắc khi vẫn tiếp tục “điệp khúc” muôn thuở: phải giữ gìn sự
trong sạch thân xác, chỉ được quan hệ thân xác sau khi kết hôn! Các bạn tự hỏi
có phải Giáo Hội đang lạc lõng “cổ lỗ sĩ” giữa trào lưu sống hiện đại, Giáo hội
không hiểu tâm tư nhu cầu của người trẻ?
Nhà khoa học vĩ đại nhất của thế
kỷ 20, Albert Einstein đã nói: “Khoa học mà thiếu tôn giáo thì khập khiễng, Tôn
giáo mà không có khoa học thì mù quáng”. Tôi sẽ không “áp đặt” lên các bạn những
“giáo điều” đâu, mà mời gọi các bạn cùng tôi tìm hiểu vấn đề sống khiết tịnh ở
người trẻ trước hôn nhân cả về mặt đời lẫn mặt đạo để tự các bạn suy tư và chọn
lựa thái độ sống đúng đắn, và rồi các bạn có thể tìm được hạnh phúc của chính
mình.[1]
I. KHÁI NIỆM VỀ CON NGƯỜI
Khó có quan niệm chính xác với
nhiều tôn giáo khác nhau, tuy nhiên, hầu hết các tôn giáo đều có chung khái niệm
về con người như:
1. Con người là một động vật có lý trí
Vậy, bạn phải sống hợp với lý
trí, lẽ phải, nếu không, nói một cách khó nghe nhưng đúng là bạn sẽ chỉ sống
ngang tầm mức động vật mà thôi!
2. Con người là hồn và xác
Vậy, những gì liên quan đến thân
xác là liên hệ đến toàn bộ con người các bạn.
Con người là hồn và xác, hay “một
tinh thần mang thể xác”. Thân xác cần thiết cho các hành vi tinh thần, hành vi
tư duy. Không thể có tư duy mà không có sự giáo dục dần dần toàn diện thân thể.
Con người sinh ra yếu đuối, nhưng mang theo khi chào đời cái khả năng tăng trưởng
để rồi sau đó trổi vượt trên hết các thụ tạo khác. Ở bộ não con người, có một sự
dung hợp bổ sung cho nhau giữa các yếu tố di truyền bẩm sinh và các yếu tố thụ
đắc từ học tập, kinh nghiệm trong cuộc sống. Nhờ vậy con người phát triển không
ngừng.[2]
Trong đời sống, tinh thần và thể
xác gắn liền mật thiết với nhau. Sức khỏe tốt là khả năng cảm nhận sự thoải mái
về hai phương diện thể xác và tinh thần.[3]
Ngày nay khoa học chứng minh được rằng tinh thần và thể xác ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau một cách chặt chẽ. Các yếu tố tâm lý cảm xúc tác động mạnh mẽ đến hệ thống
miễn nhiễm (cơ chế phòng chống bệnh tật chính của cơ thể). Những tình cảm tích
cực như yêu thương, yên ổn, thỏa mãn trong công việc và tin tưởng dường như
tăng cường khả năng chống đỡ của hệ thống miễn nhiễm, giúp cơ thể tránh được bệnh.
Trái lại các tình cảm tiêu cực, âm tính như lo âu, căng thẳng, thất vọng, chán
nản…có xu hướng làm suy yếu hệ thống miễn nhiễm, và do đó giảm khả năng chống đỡ
bệnh tật của cơ thể.[4]
Thân xác con người truyền thông
được sức mạnh thần linh, tình cảm tôn giáo. “Con mắt là cửa sổ của tâm hồn”.
Như thế, “Linh hồn đào tạo và giáo dục thân xác của mình để có thể tự nắm bắt bản
thân nó; còn thân xác thì dùng hành động của mình giúp cho linh hồn tự nhận biết
mình và diễn tả chính mình. Như vậy, linh hồn là một tinh thần ý thức về mình bằng
cách xây dựng thân xác mình trong tương quan với chính mình và với thế giới”.[5]
Khi chúng ta nhìn nhận thân xác
ta chính là ta đó, chúng ta sẽ nhìn thân xác của nhau một cách nghiêm túc và
trân trọng. Khi chúng ta ý thức rằng các tương quan chúng ta phụ thuộc vào thân
xác chúng ta, thì chúng ta cũng ý thức rằng tất cả các diễn tả của thân xác như
một nụ hôn, một sờ chạm, một vòng ôm, một nụ cười, một ánh mắt, một bắt tay siết
chặt…truyền thông cái chính yếu của sự khác nhau của các tương quan.
3. Con người là một hữu thể xã hội và hữu
thể tính dục
Con người sống trong thế giới với
các mối tương quan trách nhiệm với chính mình, với gia đình, làng xóm, cộng đồng
xã hội, trong tư cách là người nam hay người nữ. Con người không thể tự do làm
mọi điều mình thích, mà phải nhận định xem hành vi chọn lựa của cá nhân tác động
tích cực hay tiêu cực như thế nào trên chính bản thân, gia đình, người thân, và
xã hội.
II. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ KHIẾT TỊNH
Khiết tịnh là sức mạnh nội tâm
giúp con người kiểm soát những đòi hỏi tình dục. Khiết tịnh đòi hỏi sự tiết dục
trên bình diện thể lý, nhưng cũng đòi buộc trên bình diện ý chí và tưởng tượng.
Khiết tịnh phải căn bản là một đời sống tinh thần, từ khước các tư tưởng và
hành động không phù hợp với nguyên tắc
luân lý và giáo huấn tôn giáo về tính dục. Tiết dục chỉ là bước bên ngoài của
khiết tịnh, cần được hoàn bị và hướng dẫn bởi thái độ nội tâm trong sạch bên
trong. Như vậy trên quan điểm nhân học, khiết tịnh bao hàm : sự trong sạch
của thân xác, sự liêm chính của trí tuệ và sự khả ái của tinh thần.
Sống khiết tịnh là tôn trọng thân
xác. Một điều cụ thể cho các bạn thanh thiếu niên: tôn trọng thân xác là không
quan hệ tình dục trước hôn nhân, ngoài hôn nhân. Chúng ta sẽ giải thích lý do ở
các phần sau.
III. HIỂU BIẾT Y HỌC VÀ XÃ HỘI VỀ THÂN THỂ
CON NGƯỜI
1. Phân biệt giới tính bình thường trên
phương diện y khoa
Xin tham khảo thêm phần này trong
bài “Chuyển giới tính: Một nhận định trên phương diện khoa học và luân lý Công
Giáo”, Hiệp Thông số 99 (tháng 3 và 4
năm 2017).
Một cách khái quát, giới tính bao
gồm năm khía cạnh: bộ nhiễm sắc thể, cơ quan sinh dục bên trong, bộ phận sinh dục
ngoài, nội tiết tố (hormone) giới tính, và tâm lý giới tính. Ngoài ra, có thể kể
thêm đặc tính phụ của giới tính. Ở một con người bình thường, năm khía cạnh này
cùng với đặc tính phụ giới tính phải thống nhất và hài hòa.
Nguồn gốc con người với hai giới
tính khác nhau và bổ túc cho nhau, cũng đồng thời là ơn gọi tự nhiên của chúng
ta sống yêu thương, hiệp thông với nhau và hướng đến sự sống viên mãn.
2. Sự thay đổi của cơ thể trong thời kỳ dậy
thì
“Nữ thập tam, nam thập lục” là một
câu nói thời xưa muốn ám chỉ về độ tuổi dậy thì ở nam và nữ, nhưng ngày nay, tuổi
dậy thì có thể bắt đầu sớm hơn do yếu tố môi trường, ngoại cảnh tác động trên
tâm trí và thể lý các em. Một giai đoạn khiến trẻ thay đổi cả về tâm lý, sinh
lý và ngoại hình, biến những cô bé thành những thiếu nữ xinh đẹp, thân mình uyển
chuyển, những cậu trai nhỏ trở nên trưởng thành hơn, chín chắn hơn, nam tính
hơn…
Nội tiết tố có thể xem như là các
sứ giả hóa học thông tin cho các mô (tissues) trong cơ thể để mang lại các sự
thay đổi chuyển hóa khác nhau. Ở người nữ, nội tiết tố sinh dục là oestrogen và
progesterone. Dấu hiệu rõ nét đánh dấu thời
kỳ dậy thì ở người nữ là hiện tượng kinh nguyệt. Bắt đầu từ khi ấy, người nữ có
thể thụ thai nếu quan hệ thân xác.
Tinh hoàn ở người nam sản sinh
tinh trùng và androgens là các nhóm nội tiết tố sinh dục nam. Các nội tiết tố
này thiết yếu cho chức năng tình dục và sinh sản. Nội tiết tố tình dục chủ yếu
của nam là testosterone, chịu trách nhiệm cho quá trình dậy thì, gây xung động
tình dục và chức năng tình dục. Dấu hiệu
rõ nét đánh dấu thời kỳ dậy thì ở người nam là hiện tượng “giấc mộng ướt”.[6]
Khi bắt đầu có hiện tượng này, người nam có thể truyền sinh nếu quan hệ thân
xác.
Tuyến yên, một tuyến nhỏ nằm
trong não, kiểm soát bài tiết nội tiết tố của tinh hoàn (ở nam) và buồng trứng
(ở nữ). Tuyến yên điều khiển tinh hoàn
hay buồng trứng thông qua hai nội tiết tố: - Luteinising hormone (LH) và
Follicle stimulating hormone (FSH) – cũng được gọi là gonadotrophins. Tuyến yên
lại chịu sự kiểm soát của một tuyến lân cận cũng nằm trong não, gọi là tuyến dưới
đồi. Vậy, bất cứ rối loạn nào ở tinh hoàn, buồng trứng, tuyến yên, tuyến dưới đồi
đều có thể gây rối loạn sản sinh nội tiết tố nam hay nữ, và từ đó có thể ảnh hưởng
tâm sinh lý giới tính. Vùng vỏ của tuyến thượng thận còn tiết ra androgen.
Cấu trúc cơ thể và nội tiết tố ảnh
hưởng lên tâm lý, tình cảm, một cách tự nhiên người nam và người nữ thường thấy
được hấp dẫn lẫn nhau.
Những thay đổi cảm xúc ở tuổi dậy thì: bạn nam bắt đầu kinh nghiệm
thôi thúc tình dục nhiều hơn và suy nghĩ về điều này. Bạn nữ cũng có thể bắt đầu
thương nhớ vu vơ. Đây cũng là một giai đoạn đầy biến động tâm trạng, “sớm nắng
chiều mưa”, thời gian một phút trước có thể cảm thấy phấn chấn, và những phút
sau lại tự dưng thay đổi rơi vào một tâm trạng buồn phiền.[7]
“Tôi buồn mà không biết vì sao tôi buồn”. Chính vì điều này, và nếu trong hoàn
cảnh gia đình ba mẹ không hạnh phúc, các bạn trẻ dễ bị lôi cuốn vào tình yêu tạm
bợ, lẫn trốn nỗi cô đơn buồn phiền trong các quan hệ thân xác.
Vài thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt người nữ
Giai đoạn rụng trứng ở giữa chu kỳ
kinh nguyệt, lúc mà người nữ thấy nhiều chất nhầy như lòng trắng trứng xuất tiết
ở âm đạo. Đó là lúc thường người nữ có thể cảm thấy những ước muốn đòi hỏi của
xác thịt. Lúc có kinh nguyệt, tức là bắt đầu một chu kỳ kinh mới, người nữ thường
cảm thấy mệt mỏi, yếu đuối hơn, muốn nghỉ ngơi và cần được nghỉ ngơi, muốn được
yêu thương chăm sóc hơn.
Vài đặc điểm sinh lý của người nam
Dương vật (penis) có thể trở nên
cương cứng một cách tự động khi người nam trong trạng thái ngủ say. Đây là hiện
tượng sinh lý tự nhiên bình thường. Điều này có thể xảy ra dù người đó có đang
mơ hay không, và dù giấc mơ có hay không có liên quan đến tình dục. Vậy không
nên xấu hổ. Đôi khi dương vật có thể cương lên (ngoài sự kiểm soát của ý chí)
khi bị sờ chạm.
3. Cảm giác (Sensuality)
Cơ thể có sự vui thú từ cảm giác
nhận từ năm giác quan.
Sờ chạm: toàn cơ thể nhạy cảm với sờ chạm và lực ép. Cảm giác chúng
ta cũng liên quan đến nhu cầu được ôm ấp, thèm ôm, thèm hôn, thèm vuốt ve và được
vuốt ve, gọi là “cơn đói của da thịt” (skin hunger). Theo kinh nghiệm của nhiều
nhà thiêng liêng, bàn tay của người nam là một dụng cụ chinh phục mà ít phụ nữ
nào thắng được. Bàn tay của người nam rất tham lam. Nếu được chấp nhận, các vuốt
ve có đặc tính đi tới, tăng “cường độ” sau mỗi lần gặp gỡ, đi từ vuốt ve ngoài
áo đến vuốt ve trong áo, và cuối cùng thì ngay cả áo quần cũng không còn. Thường
những động tác này đi trước khởi hứng hành vi giao hợp. Ban đầu có thể người nữ
phản kháng, và ray rức lương tâm. Nhưng sau khi chịu rồi thì không còn sức phản
kháng. Đặc tính của thân xác là có “bộ nhớ” trên da thịt. Rồi thì sau đó chính
người nữ muốn như thế, bị nô lệ cho nhu cầu cảm xúc thân xác.
Ngửi: có những mùi hương gây kích thích, thèm muốn tình dục. Từ xưa
đến nay người ta luôn tìm bào chế hương liệu dùng trên thân thể, giúp thân thể
thêm sức quyến rũ.
Nhìn: thường là khởi đầu của sự thèm muốn. Những ưa thích đặc biệt
về hình ảnh có thể thay đổi từ người này sang người khác. Não bộ có khả năng tưởng
tượng, phóng đại về các cử chỉ tình dục tuy người đó không thực hành. Xem phim ảnh
khiêu dâm rất nguy hại vì các hình ảnh tác động trên trí tưởng tượng. Nhiều người
không kiềm chế được bản thân khi xem các phim ảnh trụy lạc. Dù tác hại nhẹ, có
người cần thời gian lâu mới xóa bỏ được những hình ảnh dâm dục của phim ảnh
trong đầu óc của mình.
Hình ảnh về chính cơ thể chúng ta
cũng là một phần cảm nhận của chúng ta. Chúng ta cảm thấy mình hấp dẫn hay tự
hào về cơ thể chúng ta ảnh hưởng trên nhiều phương diện của đời sống chúng ta.
Các bạn trẻ chú ý cách ăn mặc, vì áo quần cũng nói lên được một nét tâm hồn.
Ông bà chúng ta thường nói “cái nết đánh chết cái đẹp”. Cái đẹp tâm hồn mới nối
kết con người với nhau thật sự và bền lâu.
Nếm: Trong các nơi ăn chơi, có các loại thuốc kích thích. Rượu bia
thường làm cho con người dễ mất lý trí và không còn khả năng kiềm chế. Đã có một
vài bạn nữ mất đời trinh trắng vì tin lầm bạn trai mới quen, bị cho uống thuốc
ngủ trong buổi gặp gỡ hẹn hò.
Nghe: vài loại thơ, nhạc, cũng có thể gây kích thích. Phụ nữ thèm
muốn bằng lỗ tai, thích nghe những lời âu yếm mật ngọt, lời khen tặng. Từ ngữ
cũng có sức nặng đáng kể. Tâm hồn con người có thể được nâng cao nếu nghe bài
hát tâm tình thánh thiện, hoặc ngược lại thân xác thấy rạo rực thèm muốn nếu
nghe nhạc gợi dục.
Sự thân thiết và tương quan (intimacy & relationship) : khả
năng yêu thương, tin cậy, chăm sóc cho người khác dựa trên mức độ thân thiết của
chúng ta. Chúng ta học thân thiết từ các tương quan quanh ta, đặc biệt trong
gia đình. Để có sự thân thiết thực sự với người khác, cần phải cởi mở, chia sẻ
cảm giác và những thông tin cá nhân. Như vậy, khi làm điều này, chúng ta nên
nhìn trước khả năng của sự thân thiết có thể xảy ra.
4. Phân biệt từ ngữ và khái niệm về tình dục
(sex) và tính dục (sexuality)
Tình dục và tính dục liên quan mật
thiết với nhau nhưng là hai thực tại khác nhau. “Tình dục” chỉ đến những phương
diện sinh học-thể lý của người nam hoặc nữ, hoặc những hành vi thể lý, đặc biệt
hành vi sinh dục đưa đến thỏa mãn khoái lạc, vui thú thể lý. “Tính dục” tuy có
bao gồm tình dục, nhưng chỉ ra chiều hướng chủ yếu, nhân vị của toàn thể con
người, mà qua đó chúng ta, là nam hoặc nữ, dấn thân vào các mối tương quan với
chính chúng ta, với người khác, với thế giới và ngay cả với Thiên Chúa. Như vậy,
khái niệm tính dục rộng và sâu hơn tình dục.[8]
5. Phương diện xung động tình dục của giới
tính
Tình dục đôi khi là một thúc bách
sinh lý mạnh mẽ. Cần chú ý rằng tình dục là một năng lực bao gồm các quá trình
kích động như chọn lựa quyết định, cảm xúc, và mọi hình thức giác quan của hành
động, tự biểu lộ như tình yêu và ước muốn. Tình yêu có thể được bộc lộ mà không
cần tình dục, và các biểu thị thúc bách của tình dục không phải luôn gắn liền với
tình yêu. Một số người nữ sai lầm khi thấy có người nam đòi hỏi tình dục nơi
mình, lại tưởng rằng vì người ấy yêu mình. Đặc điểm của xác thịt khi đã đụng đến
rồi thì khó mà thoát khỏi, vì thân xác lúc ấy được khơi dậy, đòi hỏi. Người ấy
lúc đó nhớ xác thịt mà lại ngộ nhận là tình yêu.
Thông thường, các vùng nhạy cảm
là những vùng liên quan đến bộ phận sinh dục ngoài, tai, cổ…Tuy nhiên, cơ thể mỗi
người mang các vùng nhạy cảm, khoái cảm đặc biệt khác nhau, tùy lịch sử và cơ
thể cá nhân mỗi người. Một cử chỉ có thể bình thường đối với người này lại có
thể mang một lực khoái cảm mạnh cho người khác. Vậy nên, sự dè dặt thận trọng
thật là quan trọng khi ta không biết lịch sử người kia.
Mặc dù thường được tin rằng người
nam có xung động tình dục mạnh hơn người nữ, thực sự điều này thay đổi tùy người.
Cả nam nữ đều có thể có xung động tình dục cường độ mạnh yếu khác nhau tại các
thời điểm khác nhau. Là điều lành mạnh và bình thường cho người nam người nữ có
ước muốn tình dục và diễn tả chúng, nhưng cả nam nữ đều không cần có tình dục để
duy trì sức khỏe. Là điều lành mạnh cho người nam người nữ có ước muốn tình dục
và diễn tả chúng, nhưng điều quan trọng là quan hệ tình dục chỉ có thể xảy ra
trong bối cảnh hôn nhân- TẠI SAO?? Các bạn trẻ hãy quan sát vài sự kiện khoa học
và xã hội.
IV. KẾT QUẢ CỦA VIỆC QUAN HỆ THÂN XÁC
1. Khả năng thụ thai
Khi người nam và người nữ giao hợp,
có khoảng 200 đến 600 triệu tinh trùng được đặt vào cổ tử cung và túi cùng âm đạo.
Các tinh trùng di chuyển đi qua kênh cổ tử cung, lòng tử cung, loa vòi- là vị
trí sự thụ tinh thường xảy ra. Nếu giao hợp vào đúng thời kỳ người nữ rụng trứng,
tinh trùng có thể kết hợp với trứng và tạo thành phôi thai. Theo hiểu biết khoa
học, ngay lúc nhân của tinh trùng hợp nhất với nhân của noãn thành một thì bắt
đầu sự sống của một hữu thể người mới.
2. Hậu quả y khoa của việc mang thai sớm
ngoài ý muốn
Theo điều tra quốc gia về vị
thành niên và thanh niên Việt Nam năm 2009, tỷ lệ nạo phá thai ở vị thành niên
trên tổng số ca sinh khoảng 20%.[9] Kết quả khảo sát tại hai bệnh viện Từ Dũ, Hùng Vương và
Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM), có 4/100
phụ nữ mang thai và sinh con ở độ tuổi từ 13 đến 17. Sau một năm khảo sát thai
phụ và sản phụ sinh sống tại TP HCM, nhóm nghiên cứu ghi nhận trong 90.649 ca
sinh thì hơn 2.400 bà mẹ ở tuổi vị thành niên. Khoảng 3.500 trong 60.352 ca phá
thai là thai phụ trẻ tuổi có thai ngoài ý muốn. Phân tích các yếu tố nguy cơ,
nhóm nghiên cứu nhận thấy phần lớn trường hợp phá thai và sinh con ở tuổi vị
thành niên thường quan hệ tình dục sớm, không có kiến thức giới tính và ít tâm
sự với cha mẹ.[10]
Mang thai ngoài ý muốn dẫn đến nạo
phá thai, tảo hôn, kết hôn cận huyết là vấn đề lớn mà trẻ vị thành niên nước ta
đang phải đối mặt.[11] Theo số liệu toàn cầu trong
năm 2015, số trẻ em kết hôn khi chưa đủ 18 tuổi cao nhất là khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương với 59 triệu; tiếp theo là Đông Á và Nam Á… Mỗi ngày tại các nước
đang phát triển có 20.000 trẻ em gái độ tuổi 15-17 sinh con; ước tính số ca nạo
phá thai không an toàn ở trẻ em gái tuổi 15-19 là 3,2 triệu. Tự tử và biến chứng
thai sản là hai nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em gái lứa tuổi này…[12]
Một số bạn nam thừa nhận chính họ
có gợi ý việc quan hệ tình dục, không thích áp dụng biện pháp tránh thai, và
giao hợp là sự đồng ý của cả hai. Hầu hết
các em nữ mang thai sớm thú nhận ngoài việc không có kiến thức giới tính, còn
là do bạn tình trấn an “chắc không dính thai đâu”.
Theo y khoa, độ tuổi đủ sức làm mẹ
ít là phải 20. Tuổi thai phụ càng nhỏ thì các biến chứng trong sinh sản càng
cao. Nguy hiểm nhiều hơn là các trường hợp phá thai khi thai đã lớn, có thể gây
rách, thủng tử cung gây chảy máu, đôi khi phải cắt bỏ tử cung, thậm chí mất mạng
sống hoặc viêm tắc vòi trứng dẫn đến vô sinh.
Bệnh ung thư lây truyền qua đường
sinh dục
Giáo sư Harald zur Hausen, người
đoạt giải thưởng Nobel y học 2008, cho biết hai loại virút HPV (Human
papillomavirus) 16 và HPV18 đã được tìm thấy ở 70% sinh thiết ung thư cổ tử
cung trên toàn thế giới. Hơn 5% ung thư trên toàn thế giới gây ra bởi sự lây
nhiễm dai dẳng của HPV, lây nhiễm qua đường tình dục phổ biến. HPV ảnh hưởng đến
530.000 phụ nữ mỗi năm, hầu hết ở các quốc gia đang phát triển.[13]
Nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục
Một người có thể bị lây nhiễm và
có khả năng lây cho người khác mà không lộ ra một dấu hiệu bệnh nào. Bệnh lây
truyền qua đường tình dục trước kia còn gọi là bệnh hoa liễu, bệnh phong tình
(vì thường gặp ở gái mại dâm), là bệnh có xác suất truyền từ người sang người
thông qua các hành vi tình dục. Các tác nhân lây truyền có thể là vi
khuẩn, virus, nấm, ký sinh trùng. Nhiều bệnh hoa liễu dễ dàng truyền nhiễm
thông qua các màng nhầy (mucous membrane)
của dương vật, âm hộ, trực tràng, đường tiểu và một số đường khác nhưng ít phổ
biến hơn (tùy thuộc vào loại nhiễm trùng và cách thế tiếp xúc tình dục): miệng,
họng, đường hô hấp và mắt.
Bạn trẻ có thể chống chế: chúng tôi đã có các phương tiện ngừa thai
nhân tạo như bao cao su, thuốc ngừa thai, đặt vòng tử cung…!
Về mặt y-khoa, ngừa thai nhân tạo
có thể gây một số biến chứng đáng kể như chảy máu tử cung, thủng tử cung, nhiễm
trùng, do đặt vòng, có trường hợp mang thai cùng với vòng trong tử cung gây
nguy hiểm cho thai phụ và cả thai nhi.[14]
Các loại thuốc ngừa thai có thể gây tăng cholesterol toàn phần, tỉ lệ HDL/LDL
cholesterol, và triglycerides, điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến bệnh lý tim mạch;
thuyên tắc tĩnh mạch; giảm dung nạp đường gây biểu hiện lâm sàng tiểu đường của
những người có nguy cơ tiểu đường hoặc triệu chứng nặng hơn trên người có sẵn
tiểu đường; một số có thể gây tăng sản ở gan, ung thư cổ tử cung. Theo kinh
nghiệm lâm sàng, phụ nữ đặt vòng trên năm năm dễ vô sinh thứ phát do nội mạc tử
cung bị viêm lâu ngày.Khả năng gây ung thư vú của các thuốc ngừa thai hiện nay
chưa xác định rõ, nhưng FDA (Food and Drug Administration) vẫn cảnh giác khuyến
cáo thầy thuốc cẩn thận theo dõi ung thư vú ở những người sử dụng thuốc ngừa
thai.[15]
Về mặt xã hội, việc phổ biến sử dụng các biện pháp ngừa thai sẽ khơi mào sự coi thường các chuẩn mực luân lý, sự bất trung trong đời sống hôn nhân. Thật thế, tỉ lệ thanh thiếu niên tự do quan hệ tình dục, phá thai, ly dị, gia đình tan vỡ, bạo lực gia đình, bệnh lây truyền qua đường sinh dục, và các con cái ngoại hôn, đã gia tăng một cách đáng sợ từ khi các biện pháp ngừa thai nhân tạo, đặc biệt là viên thuốc ngừa thai được phổ biến và cổ vũ.[16] Công bằng mà nói, các biện pháp ngừa thai nhân tạo không phải là nguyên nhân duy nhất trong thảm kịch này; tuy nhiên nó có vai trò chủ chốt.
Người nam sẽ không tôn trọng người
nữ như một bạn đời đáng yêu thương và trân quý, không quan tâm đến quân bình
tâm sinh lý của người nữ, mà xem người nữ chỉ như một phương tiện thỏa mãn dục
vọng cá nhân ích kỷ của người nam. Việc ngừa thai được quảng cáo là giải phóng
phụ nữ, nhưng thực tế ngược lại. Các biện
pháp ngừa thai nhân tạo đã giải thoát nam giới khỏi phải chịu trách nhiệm về
hành động tình dục của mình. Thân xác phụ nữ bị thương mại hóa, trở thành món
giải trí tiêu khiển cho nhiều người.[17]
Điều cần lưu ý các bạn trẻ, nhất là các bạn gái:
- Các mối quan hệ dựa trên tình dục
kết cuộc chỉ là những gì mất mát.
- Sự gắn bó, cảm thấy cần nhau về mặt
cảm xúc, hậu quả từ việc quan hệ thân xác, thật sự rất mãnh liệt. Gắn bó ở đây
không có nghĩa là yêu thương, mà là cảm thấy cần người ta vì nỗi nhớ “da thịt”.
- Oxytocin, một loại hormone tạo sự
“gắn bó”: theo những nhà nghiên cứu y khoa, oxytocin có thể là lý do làm cho
con gái, và cả con trai cảm thấy sự gắn bó về mặt cảm xúc khi đã có quan hệ
thân xác. Chất oxytocin được tạo ra khi có quan hệ hưng phấn tình dục, và gây
ra một cảm xúc rất lớn về sự gần gũi, nuôi dưỡng cảm xúc và làm cho người ta cảm
thấy cần nhau. Ở người nam, lượng oxytocin này ít hơn người nữ, vì thế nam giới
kinh nghiệm cảm xúc nhiều khi không cao độ bằng nữ giới. Trong lúc phái nữ cảm
thấy có tình cảm sâu xa và gắn bó chặt chẽ với người bạn tình. Đàn ông có thể
tách rời tình dục và tình yêu. Còn phụ nữ thì nhiều khi cảm biết sự lạnh nhạt,
cảm thấy chua xót trong quan hệ, dù ray rức hối hận, dù tủi nhục vì sự xúc phạm…vẫn
khó mà dứt được mối quan hệ đã đi sâu về mặt tình dục. Như thế, người nữ đã trở
thành “nô lệ” cho nhu cầu thân xác đến mức đánh mất lòng tự trọng.
Người đời nay có khuynh hướng hạ
thấp tính dục thành tình dục đơn thuần. Ngược lại, hiểu biết con người là hồn
và xác sẽ giúp ta nhận thức rằng ở con người, tình dục luôn được bao hàm trong
toàn bộ con người, ở mức độ tính dục. Con người khác với con vật ở chỗ tình dục
con người quá cao, quá thánh thiêng, không thể bị quẳng đi bởi những tư tưởng tầm
thường. Dâm dục tạo nên tình dục xấu bởi vì nó bỏ qua tương quan giữa người với
nhau. Dâm dục biến người khác thành một đồ vật, không phải một nhân vị. Xã hội
ngày nay thương mại hóa thân xác, đặc biệt thân xác phụ nữ, thường dùng thân
xác phụ nữ để quảng cáo, giải trí, kiếm tiền. Hành vi tương quan thân xác ngoài
hôn nhân làm hạ phẩm giá người bạn mình, và mang ý nghĩa của sự dâm dục. Trong
hôn nhân, hành vi giao hợp khiến cả hai nên “một thịt”, như vậy, tinh thần họ
cũng trở nên một. Văn hóa Việt Nam, ngôn từ vợ chồng gọi nhau là “mình”, diễn tả
hiểu biết này.[18] Sự kết hợp thân xác yêu
thương vợ chồng không xóa bỏ tính cá thể của thân xác, nhưng lại hợp nhất tinh
thần cả hai nên một. Đây là một mầu nhiệm.[19]
Tính dục chúng ta nối kết chặt chẽ với hiểu biết chúng ta là ai (who we are).
Là con người, chúng ta có lý trí và phải dùng lý trí hướng dẫn hành động, chọn
lựa luân lý xứng với nhân phẩm. Hành vi thân xác có khả năng đưa đến sự ra đời
của đứa con. Phẩm giá của đứa con đòi hỏi nó phải được sinh ra trong bối cảnh
hôn nhân gia đình có cha có mẹ, phải được cha mẹ cùng nhau yêu thương nuôi dưỡng
giáo dục.
3. “Trái đắng” của lối sống tình yêu buông
thả
Làm bác sĩ 30 năm, tôi gặp và
giúp nhiều trường hợp cô gái chưa chồng đi khám thai và các cô thật đơn độc lúc
ấy. Hiếm khi các cô được bạn trai cùng đi khám, mà phần lớn là một mình, đôi
khi có mẹ, hoặc chị, hoặc bạn gái đi cùng. Cùng thực hiện một hành vi nhưng cuối
cùng dường như chỉ có người nữ gánh chịu hậu quả. Theo thống kê, một số lớn các
bạn nam người Việt hiện nay, khi yêu thì đòi bạn nữ “yêu là cho tất cả”, nhưng
khi kết hôn thì đòi người bạn đời phải còn trinh khiết! Thật ra, chính các bạn
nam khi thành thực đối diện với lương tâm, cũng không thể bình an với hậu quả
cay đắng mà mình đã gây ra cho bạn gái.
Báo tuổi Trẻ online ngày
13/04/2017 đăng tin: “Xót xa
nữ sinh lớp 7 ở Thanh Hóa sinh con”. Ngày 4/4/2017, em P.T.V.T. (13
tuổi, đang học lớp 7, trú xã Thúy Sơn, huyện miền núi Ngọc Lặc, Thanh Hóa) đã
sinh một bé gái. Bà Phạm Thị L (mẹ em T) kể lại câu chuyện trong nước mắt:
Trong thời gian T mang thai, bà và bố của T đều không hay biết. Nhiều hôm T kêu
đau đầu, mệt mỏi nên phải xin nghỉ học. Sáng ngày 4/4, T đau bụng quá, được gia
đình đem nhập viện Bệnh viện Đa khoa khu vực Ngọc Lặc. Tại đây, bác
sĩ siêu âm cho biết T có thai và đang chuyển dạ. T đã sinh một bé gái nặng
2,8kg. T nói có thai với anh B người cùng thôn. Sau khi biết tin T sinh con
gái, gia đình anh B và anh B đều chối bỏ trách nhiệm. Vì hoàn cảnh gia đình khó
khăn, T còn nhỏ dại, nên gia đình đã đồng ý cho cháu bé làm con nuôi một gia
đình. Trẻ vị thành niên sinh con thì khó khăn trong việc chăm sóc em bé, chuyện
học tập, và tương lai công việc cũng bị ảnh hưởng.[20]
Đối với trường hợp giao hợp tiền
hôn nhân, chúng ta phân biệt rõ ba trường hợp khác nhau.
a. Chỉ vì lý do
dâm dục. Thật rõ ràng giao hợp đó chỉ biểu lộ một tính dục chưa trưởng thành,
và rất có thể sẽ không trưởng thành bao giờ. Lối giao hợp này chỉ biểu lộ lòng
ích kỷ, thiếu trách nhiệm đối với người khác, cách riêng đối với người thiếu nữ,
và đối với bào thai có thể có. Có thể nói cách khó nghe, không khác chi giao hợp
với gái mại dâm. Các bạn nữ cần tự vấn có phải vì chính cô ưng thuận quá dễ
dàng? Và có phải chính vì sự quá dễ dãi của cô mà làm cho người con trai chán
ngấy đối với “con mồi” không (quả thật trong trường hợp này phẩm giá con người
bị hạ thấp) ? Người con trai có thể nghi ngờ “dễ dàng như thế chỉ đối với mình
sao?” Một vị tư vấn kể lại lời của cô gái 20 tuổi về thái độ người bạn trai sau
khi biết cô có thai: “em đến kiếm anh ấy mấy lần, nhưng lần nào anh ấy cũng
tránh mặt. Lần cuối cùng anh ấy còn nói thẳng là ảnh không biết đó có phải là
con của ảnh không vì ảnh cho rằng ảnh quan hệ với em dễ dàng như thế thì người
khác cũng làm vậy được”.
Giới trẻ ngày nay cứ tưởng mình sống
dễ dãi, buông thả là có thể khỏa lấp những sự trống trải, chán nản của tâm hồn.
Nhưng không, thật ra càng dấn thân sâu vào tội lỗi bao nhiêu, thì họ càng chuốc
lấy những đau khổ, chán chường, bất mãn sẽ chồng chất, do mặc cảm tội lỗi, do sự
mất uy tín, mất thiện cảm và cả sự khinh ghét của xã hội, của gia đình, khiến họ
càng thất vọng, càng chán nản, mất tin tưởng. Chính họ đã đánh mất đi tương lai
của mình. Ngoài ra, cuộc sống tình yêu dễ dãi cũng lãnh nhận một hậu quả khó
tránh: suy tàn nhan sắc, hao mòn sức khỏe.
b. Trường hợp thứ
hai là giữa hai người nam nữ đã yêu thương nhau, và muốn biểu lộ tình yêu với
nhau. Có thể là trường hợp thông thường nhất. Hai người đủ lớn để hiểu, đã trưởng
thành, bằng lòng giao hợp để biểu lộ tình thương mến nhau…Đã hẳn nhiều thanh
niên thiếu nữ có thể suy nghĩ như vậy, tuy nhiên đó là lối suy tư sai lầm và
nguy hại. Trước hết, nhiều thanh niên thiếu nữ rất dễ dàng lẫn lộn tình yêu với
tình dục, đặc biệt các bạn nam. Do đó họ có thể dỗ cô gái: “nếu em yêu anh…”[21] Điều chính yếu là việc giao
hợp tiền hôn nhân mất ý nghĩa sâu xa của nó, bởi vì ở đây, không thể thực hiện
và không thể biểu lộ sự cảm thông hoàn toàn của hai cuộc sống khi hai nhân vị
hiến dâng lẫn nhau. Dù yêu nhau, hai tâm hồn đó chưa sẵn sàng chỉ thuộc về
nhau, hai người chưa có thể trở nên “một xương một thịt”. Do đó việc giao hợp
không những là không chân thực vì không thể thích hợp với ý nghĩa của nó, mà
còn không giúp hai bên lớn lên trong tình yêu: biết thêm về nhau, hiệp thông
tinh thần, xây dựng lòng tôn trọng, cảm phục, thành tín. Trái lại, những khía cạnh
tình cảm và tình dục, là những khía cạnh thiển cận nhất, sẽ ưu thắng dễ dàng. Về
phía tâm lý sẽ gây cho tình yêu thoái hóa chứ không phải tiến triển.[22] Đặc biệt tâm lý phụ nữ
không cách nào tách biệt ý nghĩa tận hiến của việc giao hợp với ý nghĩa hưởng lạc,
nếu có. Bởi vậy, trong trường hợp giao hợp nhất thời, người con gái không tìm
thấy những giá trị cao thượng nhất đối với mình, và sẽ dễ cảm thấy rằng mình chỉ
trở thành đối tượng thỏa mãn cho người con trai. Cô gái sẽ cảm thấy phẩm giá
mình bị tổn thương và thấy mình bị lừa dối vì cô thiếu hẳn điều mình khao khát
và tìm kiếm trên hết, là được che chở trong sự chiếm hữu hỗ tương. Ngoài ra,
trong trường hợp này, thường là không để ý đến, hoặc cố tình loại bỏ ý nghĩa
sinh sản của hành vi giao hợp, thì sự “giả dối” của hoạt động đó càng mạnh mẽ
hơn nữa, và việc giao hợp không mang tính nghiêm chỉnh. Thêm vào đó, những việc
giao hợp trước hôn nhân thường xảy ra trong những hoàn cảnh bất tiện, cho nên rất
có thể làm nguy hại đến thái độ và quan niệm của hai người đối với tình dục sau
này. Nghĩa là, đối với họ, hoạt động tình dục sẽ không còn là nguồn vui sâu lắng.
Sau cùng, không đi đến hôn nhân (và hôn nhân chưa chắc là giải pháp tốt nhất
sau những kinh nghiệm giữa trai gái chưa nhắm tới hôn nhân) thì tình trạng cô
gái nhiều khi thật bi thảm (dù có thụ thai hay không). Dù người ta có theo tiêu
chuẩn luân lý hay không, thì sự trinh khiết của cô gái vẫn là điều quý giá đối
với hôn nhân. Điều này không phải hoàn toàn do thành kiến. Tâm lý đàn ông muốn
toàn thắng và chỉ một mình làm sở hữu chủ. Về phía người con gái, cô đã tự dâng
hiến để chàng trai chiếm hữu mình; từ lúc đó, xét về phương diện tâm lý, cô vẫn
ở trong tình trạng đầy lo âu. Hơn thế nữa, nhiều khi cô cảm thấy không thể yêu
ai khác ngoài người yêu đầu tiên. Thêm nữa, thử thách vẫn chưa hết nếu sau này
hai người có kết hôn thật sự, khi gặp những khó khăn, thì họ càng dễ nghi ngờ
nhau hơn.[23]
c. Trường hợp thứ ba là trường hợp
của đôi tình nhân đã có ý định sẽ lập gia đình (dù đã hứa hôn chính thức hay
chưa) để cùng nhau xây dựng tương lai, dẫu thế họ vẫn chưa thể kết hôn vì một số
lý do khách quan. Đôi khi cũng viện lẽ là nên giao hợp hôn nhân trước khi kết
hôn để thực nghiệm tình yêu toàn diện. Tuy nhiên đó chỉ là ngụy biện vì tình
yêu nhân linh không có thể thực nghiệm được. Mục sư T. Bovet từng nói: “Đi ngủ
mê để thực nghiệm sự chết thế nào, không thông minh lắm, cũng một lẽ đó nếu muốn
thực nghiệm sự phối hợp hôn nhân khi chưa kết hôn”. Đôi bạn có thể nghĩ rằng kết
hôn chỉ là vấn đề thời gian, vậy không sợ gì khi giao hợp. Dù chân thành và thiện
chí đến đâu nữa, nhưng hoàn cảnh của họ vẫn chưa bảo đảm như sau khi kết hôn,
nhất là mối dây liên kết của họ chưa được xã hội phê chuẩn một cách chính thức.
Vì thế những điều đã nói ở trên về phương diện tâm lý ít nhiều cũng phải áp dụng
trong trường hợp này. Thực tế đã có những trường hợp vì lý do bất ngờ nào đó,
đôi bên vẫn không thể đi đến hôn nhân.[24]
Tiến sĩ Paige Harden ở khoa tâm
lý, Đại học bang Texas ở Austin (Mỹ) đã sử dụng dữ liệu để so sánh độ tuổi lần
đầu tiên quan hệ tình dục, và sự hài lòng về mối quan hệ (cũng như các khía cạnh
khác của đời sống) trong cuộc sống sau này. Sau đây là kết luận của ông công bố
trên tạp chí Psychological Science:
- Quan hệ tình dục sớm khổ nhiều
- Bạn trẻ giữ gìn trinh tiết thường
hạnh phúc hơn trong hôn nhân sau này. Ngược lại, “làm chuyện ấy” quá sớm chỉ
khiến bạn dễ vỡ mộng về bạn đời.
- Những người “đình hoãn” quan hệ
tình dục cho đến ít nhất 20 tuổi thì khi trưởng thành: Kiếm nhiều tiền hơn; Có
bằng cấp cao hơn; Có ít bạn tình hơn; Khi kết hôn, họ ít khi thất vọng về cuộc
hôn nhân của mình (trong các vấn đề như bày tỏ tình yêu, lắng nghe, tôn trọng
nhau, đồng thuận cách quản lý tài chính, giải quyết vấn đề, làm việc thường
ngày cùng nhau...).[25]
Từ các hiểu biết thân xác và hậu
quả tiêu cực của việc quan hệ thân xác trước hôn nhân về mặt y khoa và xã hội,
chúng ta dễ mở lòng tìm hiểu giáo huấn Giáo hội.
V. GIÁO HUẤN GIÁO HỘI VỀ SỐNG KHIẾT TỊNH
1. Khái niệm và “vẻ đẹp” của đức khiết tịnh
Thật ra, khó có định nghĩa chính
xác. Khiết tịnh là khả năng làm chủ các xung động giới tính, điều khiển những
ham muốn tình dục và hướng ý nghĩ, cách cư xử theo lẽ phải, theo lý trí, theo
chân lý của tình yêu đích thực trong sự hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân.
Khiết tịnh không chủ yếu có nghĩa là khước từ hành vi tình dục bất hợp pháp.
Trước tiên và cơ bản, khiết tịnh là chấp nhận trọn vẹn ý nghĩa đích thực của
tính dục, sự tốt lành của loài thụ tạo được dựng nên là nam, là nữ theo hình ảnh
Thiên Chúa. Hành vi tình dục kết hợp phu phụ được Thiên Chúa chúc lành. Thật sự,
khiết tịnh là một nhân đức tích cực được tạo nên bởi đức ái để hướng bản năng
tình dục và yêu thương theo một trật tự trong chương trình kế hoạch của Thiên
Chúa.
Khiết tịnh không phải là ức chế,
nó hoàn toàn tự do. Nó giải thoát chúng ta khỏi khuynh hướng dùng người khác để
thỏa mãn ích kỷ và giúp chúng ta yêu thương tha nhân như Chúa Kitô yêu mến
chúng ta. Đó là khả năng yêu thương vô vị lợi, dâng hiến trọn vẹn và tương
kính. Đức khiết tịnh giúp con người trở thành nhân chứng của Thiên Chúa Đấng là
Tình Yêu. “Dưới ảnh hưởng của đức mến, đức khiết tịnh là trường dạy tự hiến. Tự
chủ là để tự hiến. Vì thế người sống khiết tịnh trở thành nhân chứng của Thiên
Chúa trung tín và yêu thương” (GLHTCG, s.2346).
Đức khiết tịnh được gọi là nhân đức
“thiên thần” (x. Mt 22,30). Là nhân đức đem lại chiến thắng của tinh thần trên
các hướng chiều của thân xác, và như thế, đòi hỏi một ý chí mạnh mẽ. Tuy nhiên,
đức khiết tịnh không phải là nhân đức cao nhất hay quan trọng nhất trong các
nhân đức, vì nó không được xếp trong bốn nhân đức trụ. Nhưng đức khiết tịnh làm
cho ta được thông phần vào đức trinh khiết của Đức Kitô, và khi noi gương trinh
khiết của người, đời sống Đức Kitô sẽ chiếu tỏa “trong thân xác chúng ta” (x.
2Cr 4,10).
Nhân đức khiết tịnh do đó thật
thiết yếu đối với tất cả các bậc sống độc thân, hôn nhân hay tu trì nếu chúng
ta biết khám phá và chu toàn chính ý nghĩa của sự sống và hiện hữu của chúng
ta. Người đi tu sống độc thân để thuộc
trọn về Chúa. Họ là những dấu chứng giữa trần gian về cuộc sống đời sau, nơi
người ta không còn dựng vợ gả chồng như ở trần gian này nữa (x. Mc 12,25). Các bạn trẻ chưa kết hôn: giữ
gìn thân xác trong sạch là món quà quý giá chỉ tặng độc nhất cho một người: người
vợ hay người chồng tương lai của mình. Người sống đời đôi bạn cũng phải
trong sạch: trung thành với bạn mình, tôn trọng nhau trong quan hệ vợ chồng
đúng đắn, tạo bầu khí yêu thương, cởi mở, thanh khiết trong gia đình.
2. Khái niệm về sự dâm dục
“Dâm dục là ham muốn sai trái hay
hưởng thụ vô độ khoái lạc tình dục. Khoái lạc tình dục trở thành sai trái, khi
con người chỉ tìm hưởng thụ để thỏa mãn chính mình, chứ không nhằm mục đích
truyền sinh và kết hợp trong tình yêu” (Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, GLHTCG s.
2351).
Đây là nết xấu tương phản với đức
khiết tịnh, do thái quá. Nghĩa là sự hữu ý ham muốn hỗn loạn khoái lạc nhục dục,
lôi cuốn theo việc sử dụng bừa bãi năng lực sinh dục.
3. Tại sao phải sống khiết tịnh
Mối phúc Thứ sáu: “Phúc thay ai
có trái tim trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Đức
khiết tịnh mang lại cho con người sự sống đời đời. Những người có trái tim
trong sạch là những người biết làm cho trí tuệ và ý chí của mình phù hợp với những
đòi hỏi của sự thánh thiện và đòi hỏi của Thiên Chúa…Có mối dây liên kết giữa sự
trong sạch của trái tim, của thân thể và của đức tin. Thật vậy, “vẻ đẹp” của đức
khiết tịnh như vừa trình bày ở trên, cho thấy đức khiết tịnh là hoa trái của
Chúa Thánh Thần (x. Gl 5,22).
4. Phẩm giá của nhân vị - Ý nghĩa của tính
dục con người
Truyền thống Giáo hội luôn liên kết
tính dục loài người vào kế hoạch cao cả của Thiên Chúa, đó là dấu chỉ tình yêu,
sự kết hợp hai tâm hồn và truyền sinh. Tính dục liên kết mật thiết với toàn bộ
đời sống thể lý, tình cảm, tinh thần và thiêng liêng của người nam và người nữ.
Sứ điệp luân lý Kitô giáo mời gọi con người sống tự do và trách nhiệm, tăng trưởng
trong đời sống thiêng liêng, và không nhằm gây cho con người lo sợ tội và hình
phạt. Luân lý Kitô giáo nhấn mạnh vẻ đẹp nhân đức và sự thể hiện đời sống con
người là hình ảnh Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp thông.
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa
Phẩm giá con người bắt nguồn từ
việc con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa. Con
người có trách nhiệm dùng tự do đạt tới sự sống viên mãn trong Thiên Chúa. Con
người sử dụng toàn bộ đời sống giác quan và tinh thần để xây dựng bản thân và
tăng trưởng nội tâm. Nhờ ý chí, con người có khả năng hướng tới sự thiện hảo
đích thực. Nhờ lý trí, con người nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa thúc đẩy mình
“làm lành lánh dữ” (x. GLHTCG s. 1700, 1704, 1706).
Con người được mời gọi để yêu thương chân tình
Con người được tạo dựng giống
hình ảnh của Thiên Chúa để yêu thương. Trong “Tông huấn về Gia đình” (Familiaris Consortio), Thánh Gioan
Phaolô II chỉ rõ chân lý này và nối kết chân lý này với mầu nhiệm của sự sống nội
tại của Ba Ngôi Thiên Chúa: “Thiên Chúa là tình yêu. Trong Ngài, Thiên Chúa sống
mầu nhiệm hiệp thông thương yêu giữa các bản vị. Tạo dựng loài người theo hình ảnh
của Ngài và tiếp tục duy trì con người hiện hữu, Thiên Chúa ghi khắc trong nhân
tính của người nam và người nữ ơn gọi, khả năng và trách nhiệm, của yêu thương
và hiệp thông...Con người được gọi để yêu thương trong tổng thể hiệp nhất (hồn
và xác) của chính mình. Tình yêu bao gồm cả thân xác, và thân xác chia sẻ, tham
dự trong tình yêu.” (x. GLHTCG s. 2331)
Tình yêu và tính dục con người
Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình nói về mối
liên kết giữa tình yêu và tính dục con người:
“Tình yêu là một quà tặng của
Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bởi, và diễn tả trong sự gặp gỡ giữa người nam và
người nữ. Tình yêu vì vậy là một sức mạnh tích cực hướng về sự tăng trưởng
trong sự trưởng thành là các nhân vị. Trong kế hoạch đời sống mỗi người với ơn
gọi của mình, tình yêu cũng là một nguồn mạch quý giá cho sự tự hiến của tất cả
người nam, người nữ được gọi để tự thể hiện chính mình và niềm hạnh phúc. Thật
vậy, con người được gọi để yêu thương trong sự thống nhất của hồn và xác. Tình
yêu nhân loại vì vậy bao hàm thân xác và thân xác cũng diễn tả tình yêu thiêng
liêng. Sự sử dụng tính dục như sự trao ban thân xác có chân lý riêng và đạt đến
ý nghĩa tròn đầy khi nó diễn tả sự trao ban nhân vị giữa người nam và người nữ,
trung thành cho đến chết. Trong toàn bộ đời sống mỗi người, tình yêu dễ bị cám
dỗ do ảnh hưởng tội nguyên tổ, sự yếu đuối được kinh nghiệm ngày nay trong nhiều
bối cảnh xã hội-văn hóa được đánh dấu bởi những ảnh hưởng mạnh mẽ tiêu cực, có
khi lệch lạc và gây tổn thương. Tuy nhiên sự cứu độ của Đức Chúa đã làm cho việc
thực hành khiết tịnh một cách tích cực là một điều thực tế có thể và một động lực
cho niềm vui, cho bậc sống độc thân, hôn nhân cũng như tu trì”.
Tính dục được ghi khắc trong bản
tính con người từ lúc tạo dựng, con người tương quan với tha nhân với tư cách
là người nam hay người nữ, và dâng hiến chính mình qua sự kết hợp tình yêu hôn
nhân:
“Tình dục của con người là một điều
thiện hảo: Ðó là một phần của quà tặng sáng tạo mà Thiên Chúa nhìn thấy là “tốt”
khi Người dựng con người theo hình ảnh và giống Người và Người dựng nên con người
“có nam có nữ” (St 1,27). Giới tính là con đường để con người đến gần kẻ khác
và tự bộc lộ mình ra cho kẻ khác, và như thế mục đích chính của nó là tình yêu,
nói rõ hơn, tình yêu như quà tặng và đón nhận, như cho và nhận. Tương quan giữa
người nam và người nữ theo bản chất của nó là tương quan của tình yêu: “Tình dục
phải được tình yêu định hướng, giáo dục và bổ túc, vì chỉ có tình yêu mới giúp
cho tình dục mang tính nhân bản”. Khi một tình yêu như thế hiện thực trong hôn
nhân, sẽ làm cho sự tự hiến qua thể xác nổi bật lên tính trao đổi và trọn vẹn của
quà tặng; tình yêu vợ chồng trở thành một sức mạnh làm phong phú và giúp cho
con người phát triển, đồng thời bồi dưỡng cho văn minh tình yêu; nhưng nếu ngược
lại thì tình dục sẽ mất đi ý nghĩa và biểu hiệu quà tặng của mình, từ đó xuất
phát một thứ văn minh của “đối tượng” chứ không phải văn minh của con người;
trong thứ văn minh này con người bị sử dụng như người ta sử dụng các đồ vật.
Trong khung cảnh của văn minh hưởng thụ người nữ trở thành đối tượng sử dụng của
đàn ông, con cái trở thành phiền toái cho cha mẹ”.
Vậy khi chúng ta tìm thấy ý nghĩa
thực sự của tình dục, chúng ta chạm đến điều chính yếu của con người trong tư
cách là người nam hay người nữ. Chúng ta cần tìm hiểu sứ điệp của Kinh Thánh về
mối tương quan người nam và người nữ trong kế hoạch tạo dựng của Thiên
Chúa.
Kinh Thánh
Sáng thế 2,
24
Hôn nhân được thiết lập bởi Thiên
Chúa ngay từ lúc khởi đầu lịch sử Kinh Thánh. Thứ tự của câu văn rất quan trọng:
rời bỏ, kết hợp và trở nên một xương thịt, sự kết hợp ở đây bao hàm cả thân xác
và tinh thần, không chỉ riêng tình dục. Giáo huấn tích cực chỉ ra rằng tạo dựng
thân xác là tốt lành, tình dục là tốt lành. Chú ý rằng nguyên nhân của sa ngã
ban đầu không phải là tình dục, mà là tính kiêu ngạo muốn biết sự lành dữ giống
Thiên Chúa.
Đệ Nhị Luật 22,
13-29
Chương này nói đến nhiều điều
quan trọng. Thứ nhất, sự trinh khiết vào lúc kết hôn là điều được đòi hỏi. Thứ
hai, câu 21 nói đến và nhấn mạnh tình dục trước hôn nhân được gọi là “hành vi ô
nhục”. Thứ ba, tình dục trước hôn nhân, ngay cả giữa hai người trưởng thành đồng
thuận với nhau, vẫn bị xem là sai trái (c. 23-24).
1 Cr. 6, 15-18
“Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là
phần thân thể của Đức Kitô sao? Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với
Người.Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân
xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. Hay anh em lại chẳng
biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự
trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em
đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy
anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.”
Trong 1 Cr 6,12-20 thánh Phaolô
chống lại thuyết nhị nguyên tách biệt thân xác và tinh thần. Tình dục không phải
tầm thường như thỏa mãn cơn đói thể lý (c. 13). Thân xác quan trọng bởi vì
Thiên Chúa đã cứu chuộc thân xác và sẽ cho thân xác phục sinh. Chú ý rằng tình dục tiền hôn nhân không phải
là một cuộc “hôn nhân nhỏ”, nhưng nó xâm phạm vào mảnh đất thánh thiện của hôn
nhân theo một cách thức không thể chấp nhận được. Sự kết hợp thể xác không được
thực hiện bên ngoài sự kết hợp nên “một xương một thịt” là chính hôn nhân. Sự việc kết hợp với người khác không phải là
người phối ngẫu là tự tách rời khỏi Đức Kitô, Đấng mà chúng ta được kết hợp một
cách thiêng liêng với tư cách là các Kitô hữu. Thánh Phaolô nói đến ý nghĩa mại
dâm của việc giao hợp thân xác tiền hôn nhân, và Ngài xem đó là một loại nhị
nguyên.
Trong 1 Cr 7, Thánh Phaolô đề cập
đến tình huống các Kitô hữu chưa kết hôn bị đốt cháy bởi đòi hỏi dục tình
(c.8-9) thì cần phải tự tiết chế hoặc kết hôn (x. c. 36-38). Tư tưởng ở đây diễn
tả tương tự như điều được nói đến trong Đnl 22.
Trong các tác phẩm của Phaolô từ
ngữ gian dâm nói đến bất cứ loại quan
hệ tình dục bất hợp pháp nào. Hãy đọc lại các câu (và các bối cảnh) trong đó từ
gian dâm được sử dụng: Mt 5,19; Cv
15, 20; Gl 5,19; Ep 5,3; 1Tx 4, 3; Kh 9,21.
Từ ngữ “gian dâm” cơ bản nói đến
bất cứ quan hệ tình dục nào ngoài hôn nhân, đồng tính hay khác phái luyến ái, mại
dâm, loạn luân, hay thú dâm. Có nhiều tranh luận về từ dùng này, nhưng nói
chung đa số học giả Kinh Thánh ủng hộ cách dùng từ này. “Hãy tránh xa các sự vô
luân về tình dục và hãy tự chủ” (x. 1 Tx 4, 1-8) là một sứ điệp cho mọi người,
cách riêng các Kitô hữu trong một thế giới nghiêng về khoái lạc nhục dục.
Suy tư: giao ước hôn nhân như bối
cảnh đúng đắn duy nhất thích hợp cho quan hệ tình dục với sự kết hợp thành một
xương thịt của người nam và người nữ; và biểu trưng hôn nhân với tương quan của
Thiên Chúa với Dân của Người. Lý luận từ Luật tự nhiên, thì tình dục trước hôn
nhân đối nghịch với mục tiêu của tình dục (truyền sinh và dưỡng dục con cái).
Bộ Giáo lý Đức tin trong “Tuyên
ngôn về Vài Vấn nạn liên quan đến Đạo đức tính dục” số 11 dạy rằng: “Ý muốn của
Thiên Chúa là anh em nên thánh, tức là xa lánh gian dâm, mỗi người trong anh em
hãy biết sử dụng thân xác thuộc về anh em theo cách thức thánh thiện và trong
danh dự, chứ không buông theo dục vọng ích kỷ như dân ngoại, là những người
không biết Thiên Chúa. Đừng ai làm tổn thương hay lừa dối người anh em
mình…Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện. Vậy
ai khinh thường những lời dạy trên, thì không phải khinh thường uy quyền người
phàm, nhưng khinh thường Thiên Chúa, Đấng hằng ban cho anh em Thánh Thần của
Người.” Tội tà dâm không chỉ làm tổn thương tha nhân hay tổn thương trật tự xã
hội mà còn chống lại chính Đức Kitô là Đấng đã cứu chuộc con người bằng chính
máu Ngài và chống chính Thánh Thần ngự trong đền thờ thân thể.
VI. VÀI TỘI XÚC PHẠM ĐỨC KHIẾT TỊNH TRƯỚC
HÔN NHÂN
Hậu quả của sự dâm dục được thánh
Thomas Aquinas tóm tắt như sau: lý trí ra mù quáng, mất khả năng suy xét và
phán đoán sự việc, cũng như quyết định điều thích hợp. Đối với ý chí, dâm dục
khiến nó trở nên ích kỷ, và khiến con người nghiêng về việc giận ghét Thiên
Chúa, Đấng cấm đoán sự dâm dục kia. Theo một nhãn quan khác, dâm ô trói buộc
vào những gì tạm bợ và đưa đến thất vọng những việc trên Trời, những việc con
người coi là viển vông.[26]
Dâm dục là điều xấu, vì xác thịt chiến thắng tinh thần, vì con người chịu khuất phục khoái lạc, khoái lạc không hẳn chỉ đặc biệt dành cho con người, mà có chung một phần nào đó cho cả thú vật. Trong dâm dục, con người không để mình được hướng dẫn bởi lý trí. Dâm dục tương phản với sự thánh thiện thể xác của tín hữu (1 Cr 6, 12-30; Ga 5, 16-26; Ep 5,3-5).
Dâm dục gọi là trực tiếp khi ý
chí tìm kiếm chính khoái lạc. Lúc đó khoái lạc là đối tượng của ý chí. Đối tượng
ấy đối với chủ thể hành động có thể là mục đích, hay chỉ là phương tiện đạt được
mục đích. Dâm dục gọi là gián tiếp, khi chủ thể đi tìm một đối tượng khác với
chính khoái lạc, nhưng ý chí không thể tránh né khoái lạc kia, bởi vì khoái lạc
không tách rời khỏi đối tượng mà ý chí đang tìm kiếm. Dâm dục hoàn toàn hay
chưa hoàn toàn tùy theo đó là khoái lạc đạt đến kích thích cực độ (hay cực
khoái, orgasm) hay chưa.
Vấn đề xem xét ở đây là hoạt động
tình dục ngoài hôn nhân.
1. Tính luân lý của các hành vi dâm dục
hoàn toàn hữu ý trực tiếp[27]
Nói chung, mọi hoạt động dâm dục
hoàn toàn hữu ý trực tiếp, tức là cố ý sử dụng hành vi tình dục để đạt được
kích thích cực độ ngoài hành vi giao hợp vợ chồng đều là tội nghiêm trọng. Lý
do là vì các hành vi này làm hủy hoại trật tự tốt lành Thiên Chúa đặt để cho việc
sử dụng khả năng sinh sản và niềm vui thú tình dục chỉ trong bối cảnh hôn nhân.
Các hành vi dâm dục hoàn toàn hữu ý trực tiếp làm phá hủy ý nghĩa tính dục con
người, ý nghĩa kết hợp và truyền sinh của hành vi độc quyền của hôn nhân.
2. Tính luân lý của các hành vi dâm dục
không hoàn toàn hữu ý trực tiếp [28]
Các hành động tình dục hữu ý trực tiếp nhắm tìm khoái lạc nhục dục, mặc dù không nhắm tới việc kích thích cực độ. Xét về bản tính, tác động không hoàn toàn này chỉ là bước đầu của tác động hoàn toàn, và thông thường, tự nhiên thúc đẩy đến tác động hoàn toàn. Vì thế, nhiều nhà thần học luân lý xếp các hành vi dâm dục không hoàn toàn hữu ý trực tiếp này vào phạm vi “vấn đề quan trọng”. Kích thích tình dục mà người ta hữu ý tìm kiếm hoặc ưng thuận ngoài bối cảnh hôn nhân dù là việc nhỏ thì lúc đó cơ năng sinh dục đã bị sử dụng nghịch lại mục đích chính yếu rồi. Dù sao, về mặt khách quan, các hành động tìm kiếm khoái lạc hoàn toàn vẫn nghiêm trọng hơn các hành động tìm kiếm khoái lạc không hoàn toàn.
3. Tính luân lý của các hành vi dâm dục
không hoàn toàn hữu ý gián tiếp [29]
Dâm dục gọi là gián tiếp, khi chủ
thể đi tìm một đối tượng khác với chính khoái lạc, nhưng ý chí không thể tránh
né khoái lạc kia. Kích thích và khoái lạc người ta không tìm kiếm, nhưng không
loại bỏ được.
Chẳng hạn diễn viên đóng phim
tình cảm, có các cảnh hôn, ôm ấp thắm thiết vô tình tạo nên kích thích tình dục;
bệnh nhân được bác sĩ khám bệnh về cơ quan sinh dục, sự đụng chạm có thể gây
kích thích tình dục nơi bệnh nhân ngoài ý muốn. Người ta không bắt buộc phải bỏ
qua một hoạt động nào, tự nó tốt, hoặc trung lập, mặc dù dự đoán có thể có kích
thích tình dục, với điều kiện phải có lý do tương xứng chính đáng để hoạt động
như vậy. Người bị kích thích do hoạt động đó dĩ nhiên chịu trách nhiệm về kích
thích đó theo phương diện thể lý. Nhưng nếu có lý do tương xứng, thì không quy
trách cho người đó theo phương diện luân lý. Sự kiện bị kích thích phần lớn có
tính cách chủ quan, tùy thuộc không những ở tuổi tác, giáo dục, văn hóa cá
nhân…nhưng còn tùy phần lớn ở dữ kiện thời gian. Do đó cùng một người có thể bị
kích thích một cách rất khác biệt bởi cùng một nguyên nhân, vào những thời điểm
khác nhau. Vì thế khó có thể lập ra một chuẩn mực khách quan, có giá trị đối với
mọi người, đánh giá các nguyên nhân có thể gây ra kích thích mạnh hay yếu. Mà mỗi
người phải ý thức điểm mạnh, yếu của chính mình và tránh các dịp cám dỗ.
- Nếu có lý do
tương xứng, và sự kích thích thật sự xảy ra, thì ý chí không được phép chiều
theo hay chấp thuận khoái cảm đó. Tự nó, sự kích thích, cũng như khoái cảm kèm
theo đó, không xứng hợp với những đòi hỏi luân lý, nên ý chí phải loại bỏ
chúng, và chỉ với lý do cần thiết, hay rất hữu ích, ý chí mới cam chịu sự lệch
lạc này như là hậu quả không thể tránh được.
- Không thể có
lý do tương xứng nào có thể biện minh việc người ta dấn thân vào một cảnh huống
trong đó, ngoài sự dự liệu một kích thích, còn chắc chắn rằng sẽ không chống lại
được kích thích và sẽ ưng thuận.
- Có dâm dục giả
trang khi không có lý do tương xứng, mà chỉ là một cớ. Thí dụ cái hôn đầy cảm
tình của một người đàn ông đã có vợ trao cho một phụ nữ đồng nghiệp không phải
vợ ông. Một sự rung động nào đó, có lẽ hơi mạnh, có thể tiên đoán được. Nhưng
ông ấy vẫn tự nhủ là ông có lý do để biểu lộ tình thương mến của ông (cớ). Thực
tế, bên dưới cớ ấy, chính là kích thích mà ông đang tìm. Dĩ nhiên, nếu quả thật
ông không tìm kích thích ấy, vấn đề sẽ là dâm dục gián tiếp như đã bàn ở trên.
- Những hành vi
gọi là không trong sáng, tục tĩu (impudici): những cái nhìn, cái hôn, những ôm ấp,
cuộc trò chuyện, lời nói đùa…nhắm để tìm sự dâm dục, có thể là những công cụ của
dâm dục gián tiếp. Những hành vi này cũng có thể có một lý do thường xuyên
khác, đó là sự khoái lạc giác quan. Xét
rằng khoái lạc này dễ biến thành khoái lạc tình dục, cho nên ta không thể không
để ý đến mối nguy về sự ưng thuận khoái lạc tình dục này.
4. Thủ dâm
Là hành động cố ý kích thích các
cơ quan sinh dục, ngoài hành vi giao hợp, với mục đích đạt được khoái lạc tình
dục, (x. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, GLHTCG số 2352), thường là đạt đến kích
thích cực độ, nơi người nam biểu hiện bằng sự xuất tinh, nơi người nữ biểu hiện
bằng sự xuất tiết chất nhầy ở âm đạo. Hành vi thủ dâm thường được thực hiện bằng
chính một người hay đôi khi có thể được thực hiện bởi người khác.
Xuyên suốt lịch sử của mình, Giáo
hội luôn dạy rằng, hành vi thủ dâm khi được lựa chọn tự do, là một điều sai
trái nghiêm trọng, bởi vì nó luôn liên quan đến một sự thất bại không tôn trọng
sự tốt lành của các hoạt động tình dục con người. Giáo huấn Giáo Hội luôn dạy rằng
mọi hành vi thủ dâm cố ý là sự vi phạm nghiêm trọng nhân đức khiết tịnh. Cơ
quan sinh dục không phải dụng cụ mà chúng ta có thể sử dụng đơn thuần cho sự
vui thú. Chúng là một phần của chính con người chúng ta. Các hành vi tình dục
luôn phải thực hiện trong bối cảnh hôn nhân và tình yêu dâng hiến nam nữ. Khi
tôn trọng sức mạnh, ý nghĩa và chức năng của cơ quan sinh dục, chúng ta tôn trọng
thân xác mà, qua bí tích rửa tội, trở thành một thân thể với Chúa Kitô và là đền
thờ của Chúa Thánh Thần.
5. Xem sách báo, phim ảnh “đen” (khiêu dâm)
Tính chất xấu của hành vi này là ở
chỗ nó xuyên tạc sự thật về tính dục con người. Và do đó điều đáng lẽ là biểu
hiện sự kết hợp thân mật đôi lứa trong cuộc sống và trong tình yêu thì giờ đây
bị giản lược thành một thứ giải trí tầm thường, ngay cả một thứ lợi ích cho kẻ
khác.
“Sách báo và tranh ảnh khiêu dâm,
cố ý phơi bày những hành vi tình dục, có thật hay mô phỏng, ra khỏi vòng thân mật
của những người trong cuộc, xúc phạm đến đức khiết tịnh vì làm biến chất hành
vi ái ân là việc trao ban thầm kín của vợ chồng với nhau; chúng làm tổn thương
nặng nề đến phẩm giá của những người dự phần (diễn viên, kẻ kinh doanh, khán giả),
vì người này trở thành đối tượng mua vui thô lỗ và là nguồn lợi nhuận bất chính
cho người kia. Ấn phẩm khiêu dâm đưa tất cả những người tham gia vào sự ảo tưởng
của thế giới giả trá. Đó là một trọng tội. Chính quyền phải ngăn cấm việc sản
xuất và phổ biến những ấn phẩm khiêu dâm này.” (GLHTCG s. 2354)
Vấn đề của phim ảnh dâm dục đồi
trụy (pornography) ngày nay là chúng đã bỏ qua hay chú ý rất ít về tính dục, chỉ
hạn hẹp tính dục trong phạm vi tình dục. Và như thế, chúng cũng đã làm giảm giá
trị của tình dục. Đức Cha Paul Loverde của Giáo Phận Arlington, Virginia, viết
về nạn khiêu dâm trong thư Mục vụ nhan đề “Giá phải trả: những hình ảnh khiêu
dâm và cuộc tấn công vào Đền Thờ Sống Động của Thiên Chúa” như sau: “Con người
tiệm tiến bồi đắp hay hủy diệt nhân cách mình bằng từng và mỗi một quyết định
luân lý. Khi cái nhìn của con người hướng vào chỗ lầm lạc, họ trở nên loại người
sẵn sàng sử dụng người khác làm đối tượng để thoả mãn khoái cảm.”
Cái nguy hiểm đáng sợ nữa của
phim ảnh khiêu dâm là chúng dễ gợi dục nơi những người xem, đặc biệt, theo kinh
nghiệm của nhiều nhà thiêng liêng và nhà giải tội, các bạn trẻ đang hẹn hò rất
khó tránh quan hệ tình dục sau khi cùng xem phim khiêu dâm.
Thủ dâm và xem văn hóa khiêu dâm
là hai đề tài cần bàn luận sâu rộng hơn ở một bài viết khác.
6. Quan hệ thân xác trước hôn nhân: Tội
gian dâm
Đó là sự giao hợp giữa những người
chưa kết hôn. Đó là một tội trọng. “Tà dâm là quan hệ xác thịt ngoài hôn nhân
giữa một người nam và một người nữ. Đây là lỗi nặng, xúc phạm đến nhân phẩm và
phái tính của con người, vốn quy về lợi ích của đôi vợ chồng, cũng như sinh sản
và giáo dục con cái. Ngoài ra tà dâm còn là gương xấu nghiêm trọng làm băng hoại
giới trẻ ” (GLHTCG s. 2353).
Tình yêu không phải tùy tiện.
Tình yêu không phải đơn thuần là lôi cuốn sắc dục. Tình yêu là sự quyết chọn, dấn
thân vì người mình yêu. Nói như vậy không phải là đánh giá thấp cảm xúc và sự
quyến rũ, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói những điều đó là “nguyên liệu” của
tình yêu. Nhiều người phạm sai lầm khi cho “nguyên liệu” này giá trị như là “sản
phẩm hoàn thành”. Mỗi người phải để cho ân sủng uốn nắn và rèn luyện nguyên liệu
trở nên sự lựa chọn tự do, hy sinh làm điều tốt lành cho người mình thương mến.
Chỉ trong hôn nhân, quan hệ tình
dục mới có được tất cả ý nghĩa trọn vẹn cao cả của nó. Ngay cả trong hôn nhân tự
nhiên đã có cái quy chế phát triển trong hàng ngàn năm của nền văn hóa nhân loại.
Trong tập sách « Tình yêu và trách nhiệm » Thánh Gioan Phaolô II dạy
yêu thương vợ chồng là tự do chọn lựa biến chính bản thân mình thành quà tặng
phong phú, trọn vẹn cho người mình thương yêu. Việc giao hợp nói lên ngôn ngữ
này, ngôn ngữ của tình yêu Thiên Chúa. Ngôn ngữ của lời thề hứa hôn phối. Những
gì kém hơn đều là dối trá, không xứng với nhân phẩm con người, với những gì
Thiên Chúa muốn dành riêng cho con người khi tạo dựng con người theo hình ảnh của
Ngài (x. St 1,27).
Thánh Gioan Phaolô II dạy rằng
ngôn ngữ nhằm chuyển đạt chân lý. Truyền đạt điều dối trá là lạm dụng ngôn ngữ,
yêu thương không bao giờ dối trá như thế. « Ngôn ngữ của thân xác »
cũng nhằm chuyển đạt sự thật. Thân xác là « ngôn sứ » vì nó nói ngôn
ngữ của Thiên Chúa, tức là tình yêu. Hai người trưởng thành thuận tình giao hợp
với nhau nhưng chưa kết hôn là nói dối. Thân xác họ nói rằng : « Em
(anh) thuộc về anh (em) một cách tự do, trọn vẹn, thủy chung, mãi mãi ».
Nhưng thật ra điều họ nói không thực. Vì lời nói đó chỉ đúng trong hôn
nhân. Bí tích hôn nhân thiết lập mối dây
liên kết bền vững mà con người không thể tự ý cắt đứt. Giao hợp là dấu chỉ hữu
hình của thực tại vô hình là hai người thuộc trọn về nhau và liên kết với nhau
nên một. Vì vậy, cho dù hai người yêu nhau, nhưng chưa kết hôn, hành động giao
hợp không phải là cử chỉ yêu thương chân thành tôn trọng lẫn nhau.
GLHTCG s.2348 : « Những
người đính hôn cũng được mời gọi tiết dục để giữ khiết tịnh. Trong thời gian thử
thách này, họ học biết tôn trọng lẫn nhau, tập chung thủy và hy vọng đón nhận
nhau như quà tặng của Thiên Chúa. Họ sẽ dành những hành động biểu lộ tình yêu vợ
chồng cho sau ngày thành hôn ».
“Kiểu nói tự do sống chung là dối
trá, vì có nghĩa gì một sự kết hợp trong đó hai con người không cam kết với
nhau và do đó cũng chứng tỏ rằng họ không tín nhiệm nơi người kia, nơi chính
mình, hoặc ở tương lai? Kiểu nói này chỉ nhiều hoàn cảnh khác nhau: ăn ở với
nhau không cưới xin, từ chối kết hôn theo đúng tính chất của hôn nhân, không thể
ràng buộc nhau bằng những cam kết dài lâu (x. FC 81). Tất cả những trường hợp
này xúc phạm phẩm giá của hôn nhân, phá hủy ý niệm về gia đình, làm suy giảm cảm
thức về lòng thủy chung. Chúng nghịch với luật luân lý: hành vi tính dục chỉ được
chấp nhận trong hôn nhân; ngoài hôn nhân, luôn luôn đó là một tội trọng và
không được hiệp thông các bí tích” (GLHTCG s.2390).
Giáo hội đã khẳng định và tái khẳng
định nhiều lần việc giao hợp chỉ được phép trong hôn nhân mà thôi. Bộ Giáo lý Đức
Tin trong Tuyên Ngôn về « Vài Vấn nạn liên quan đến Đạo đức tính dục »
ngày 29-12-1975 đã quả quyết rằng : « Nhiều người ngày nay đòi quyền
được giao hợp với nhau trước khi thành hôn, miễn là hai ngươi quyết tâm kết hôn
với nhau và thực tình yêu thương nhau. Họ coi quan hệ tình dục là điều cần thiết
nhất khi việc cử hành hôn phối bị cản trở vì những hoàn cảnh bên ngoài hoặc để
bảo tồn tình yêu…Nhưng ý kiến trên đây là điều trái ngược đạo lý Kitô giáo,
theo đó mọi hành vi giao hợp phải diễn ra trong bối cảnh hôn nhân. Thật vậy, dù
những người dấn thân trong những quan hệ tình dục trước hôn nhân có quyết tâm mạnh
mẽ đến đâu đi nữa (về việc quyết định kết hôn với nhau) thì những quan hệ tình
dục đó vẫn không bảo đảm – trong sự chân thành và chung thủy- tương quan giữa một
người nam và một người nữ, và nhất là không bảo vệ tương quan đó khỏi những
thay đổi theo trí tưởng tượng và tính tình thay đổi…sự kết hiệp thân xác chỉ hợp
pháp khi người nam và người nữ có một sự thông hiệp cuộc sống một cách chung kết
».
Trong Familiaris Consortio số 82 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã dạy rằng
những người Công giáo tuy đã làm hôn phối dân sự mà không làm phép cưới đạo thì
không được lãnh các bí tích cho đến khi điều chỉnh tình trạng của họ.
Không đúng khi nói rằng quy tắc đòi hỏi hôn nhân chỉ có tính cách tương đối tùy theo những cơ cấu văn hóa. Các hình thức để xã hội chuẩn nhận hôn nhân khác biệt tùy theo các nền văn hóa, nhưng sự kiện hôn nhân là tổ chức chính thức luôn luôn có liên quan đến việc truyền sinh (và do đó liên quan đến sinh hoạt tình dục) hầu như là phổ quát. Và nếu hôn nhân bí tích (không khác biệt với hôn nhân tự nhiên)[30] là hình thức của sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, tác động đặc biệt là dấu chỉ và thực hành một cách hữu hình sự kết hợp giữa vợ chồng, không thể có thực hành trước khi đã có sự thực. Dấu chỉ và sự thực liên hệ mật thiết với nhau đến nỗi có thể nói việc giao hợp thuộc về yếu tố của hôn nhân.
VII. LÀM SAO ĐỂ SỐNG KHIẾT TỊNH TRƯỚC HÔN
NHÂN
1. Sự cần thiết của rèn luyện thân thể.
Rèn luyện thân thể khỏe mạnh
Một tinh thần khỏe mạnh trong một
thân thể khỏe mạnh. Sự rèn luyện đều đặn là một thực hành để rèn ý chí. Ngoài
ra, còn giúp giải tỏa những đòi hỏi về thể xác, giữ quân bình tâm sinh lý. Rèn
luyện thân thể đều đặn cũng chính là một nhân đức.
Quý trọng thân thể, Thân thể là tuyệt tác của Thiên Chúa và có sự cộng
tác của cha mẹ.
Ý thức về sự e thẹn, tôn trọng sự riêng tư thân thể
Đối với Đức Thánh Cha Phanxicô, cần
phải có một nền giáo dục tính dục « gìn giữ một sự e thẹn lành mạnh ».
Cho dầu ngày nay một số người cho rằng nó là một vấn đề của một độ tuổi khác,
nhưng sự e thẹn có « một giá trị to lớn » vì « đó là một sự
phòng vệ tự nhiên của con người, vốn bảo vệ tính nội tâm của mình và tránh việc
nó trở thành một đồ vật thuần túy. Không có sự e thẹn, chúng ta có nguy cơ giảm
thiểu tình cảm và tình dục thành những ám ảnh mà chỉ tập trung chúng ta vào khả
năng sinh dục mà thôi ».[31]
2. Chọn bạn để kết giao, thận trọng trong
chọn lựa hình thức giải trí và nơi chốn giải trí
“Hãy nói cho tôi bạn của bạn là
ai tôi sẽ nói bạn là người như thế nào”.
“Gần mực thì đen, gần đèn thì
sáng”
Một số hình thức giải trí tạo các
“dịp tội”. Thực hành khổ chế ngũ quan, nhất là đôi mắt. Thống kê cho thấy rằng
xem hình ảnh khiêu dâm, say sưa rượu bia, là các dịp cho các ước muốn bất chính
và tội thể xác.
3. Rèn luyện nhân đức và đời sống tinh thần,
thiêng liêng.
Nhớ rằng cái duyên dáng con người
còn nằm ở một nhân cách lành mạnh. Chọn y phục trang nhã, thích hợp. Chú trọng
nét đẹp tâm hồn, cái đẹp này tinh vi, kín đáo và thu hút bền lâu.
GLHTCG s. 2517: Trái tim là nơi của
nhân cách luân lý “tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người,
tà dâm”. Cuộc chiến đấu chống lại dục vọng xác thịt phải cần đến việc thanh tẩy
trái tim và thực thi đức tiết độ.
GLHTCG s. 2520: Cuộc chiến đấu chống
lại dục vọng xác thịt và những ham muốn vô trật tự nhờ vào:
- Nhân đức và tiết độ và tự chủ
- Ý hướng trong sạch
- Cái nhìn trong sạch: bên ngoài và
trong lòng; nhờ kiểm soát được các giác quan và trí tưởng tượng; nhờ khước từ mọi
vui thú trong những tư tưởng không trong sạch.
- Cầu nguyện.
Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia đình
nhấn mạnh luyện tập nhân đức tự chủ là điều cơ bản trong việc chiến đấu sống
khiết tịnh.
“Ðức khiết tịnh đòi hỏi phải học
biết tự chủ, để sống như một con người. Rõ ràng con người phải lựa chọn: hoặc
chế ngự các đam mê và được bình an; hoặc làm nô lệ chúng và trở nên bất hạnh”
(GLHTCG s.2339). Qua kinh nghiệm, mỗi người đều biết rằng, đức khiết tịnh đòi
buộc phải từ bỏ những tư tưởng, lời nói và hành động mang tính chất tội lỗi mà
Thánh Phaolô luôn nhắc nhớ chúng ta (x. Rm 1,18 ; 6,12-14 ; 1 Cr 6,9-11 ; 2 Cr
7,1 ; Gl 5, 16-23 ; Ep 4,17-24 ; 5,3-13 ; Cl 3,5-8; 1 Tx 4,1-18 ; 1 Tm 1,8-11 ;
4,12). Như thế cần có khả năng và thái độ tự chủ. Ðây là những dấu chỉ của sự tự
do nội tâm, ý thức trách nhiệm với mình và với kẻ khác; đồng thời cũng minh chứng
con người đó có một lương tâm được đức tin giáo hóa. Sự tự chủ này đòi buộc con
người phải tránh những cơ hội phạm tội và biết làm chủ những xung lực bản năng
tự nhiên.”
Đời sống thiêng liêng Tham dự các Bí tích Giải tội và Thánh thể,
yêu mến Đức Trinh Nữ Maria, tham gia hoạt động tông đồ.
Đào luyện để có được sự phát triển Tâm-dục-tính lành mạnh
Bốn chiều kích phát triển
Tâm-dục-tính lành mạnh:[32]
- Nhận thức: nhận thức đúng đắn
về cơ thể, giới tính, và tăng trưởng để có những hành vi – thái độ
tích cực về tính dục.
- Cảm xúc: cảm giác thoải mái,
tự tin, và có năng lực điều khiển thân xác và tính dục của mình và
của người khác phái.
- Xã hội: tương quan với đồng
giới và khác giới bằng những cách không qui ngã, cởi mở và phát
triển những tiềm năng tương tác.
- Luân Lý: đánh giá cao những
cách thức cần thiết để cho phép và làm tăng trưởng đời sống tính
dục, như thế có thể phòng ngừa được những cách diễn tả tình dục gây
phương hại.
Thiếu các chiều kích trên có thể đưa đến chiều
hướng phát triển tiêu cực.
4. Cách thức đối phó với các cảm
giác tình dục[33]
Có thể kể ra sáu cách đối phó với các cảm giác (kích thích)
tình dục:
- Ba cách thức không lành mạnh
+ Dồn nén:
(repression) một tiến trình bên trong, là một cơ chế đối phó đánh lừa
ta, không cho ta ý thức các kinh nghiệm về cảm giác tình dục, và ta
không ý thức là ta đang dồn nén.
+ Phủ nhận:
không thừa nhận các cám xúc, các sự kiện có thật hiển nhiên. Thường
xảy ra trong hoàn cảnh xã hội hay tương quan.
+ Bùng phát tình
dục: dẫn đến việc thực hiện các hành vi tình dục thật sự với
chính mình hay người khác, hoặc thủ̉ dâm.
- Ba cách thức lành mạnh
+ Diễn tả: tỏ bày cho người khác biết
về những cảm xúc tình dục. Diễn tả cũng có thể qua cách “tự nói
với mình”, ghi nhật ký, nói chuyện với người thích hợp, như với linh
hướng, bạn bè thân thiết…
+ Kiềm chế: một
phương thế đối phó có ý thức, nhận thức và chấp nhận chúng, và
kiểm soát không cho chúng tăng thêm hay kiềm chế chúng.
+ Thăng hoa: quá
trình ý thức và chấp nhận các cảm xúc tình dục và hướng năng lực
tình dục vào những hoạt động lao động tây chân, làm vườn, hoặc các hoạt động
được cho là cao hơn về mặt văn hóa, xã hội, thể lý, mỹ thuật, hay tâm
linh.
- Bạn có thể
có một cảm xúc, một ước muốn, nhưng bạn không cần phải thực hiện
nó.
- Tưởng tượng có thể kích
thích bạn, nhưng bạn không cần phải theo nó.
- Các hormone có thể làm bạn
nổi hứng tình dục, nhưng không cần chiều theo nó.
- Các hành động phải hòa hợp
với dự phóng đời sống của ta.
VIII. MỤC VỤ CHO BẠN TRẺ
Hẹn hò nam nữ: Mười quy tắc an toàn
Hẹn hò tuy là một phần của cuộc sống,
nhưng cũng như hôn nhân, nó không nên trở thành sinh hoạt xã hội duy nhất của bạn
trẻ. Ngay cả hôn nhân cũng đòi hỏi các cặp vợ chồng duy trì các mối tương quan
bạn bè để ngăn ngừa vợ chồng trở nên đơn điệu và đóng kín. Và, cũng như các
tương quan bạn bè không được làm suy yếu cuộc hôn nhân, thì hẹn hò cũng không
được làm suy yếu các mối tương quan tình bạn.
Các bạn trẻ hẹn hò nên giữ các nguyên tắc sau:
1/ Hãy chắc chắn rằng đời sống của bạn đặt nền tảng vững chắc
trên cầu nguyện, đón nhận các bí tích và đọc Kinh Thánh để bạn có sức mạnh
thiêng liêng chống lại các cám dỗ. Luôn lắng nghe Lời Chúa, tin tưởng cậy trông
Ngài chớ không cậy dựa sức riêng.
2/ Không bao giờ đôi bạn ở nơi vắng vẻ chỉ có hai người:
hoàn cảnh như thế thường tạo thuận lợi cho đôi bạn nói hay làm những điều mà
đôi bạn sẽ không nói hay làm trước mặt cha mẹ hay vị linh mục. Thay vì thế, hãy
đến nhà nhau: hãy hẹn hò trong khung cảnh gia đình, đi chơi xa với cả nhóm,
không đi chơi xa riêng chỉ có hai người.
Nên nhớ rằng sự riêng tư hẻo lánh là yếu tố khơi gợi cảm xúc thân thiết
dục tình.
3/ Hãy chú ý các lời chuyện trò của bạn: chúng có thể được
dùng để thuyết phục lẫn nhau rằng các hành động bạn đang làm không có gì sai
trái trong khi có những lời bóng gió về tình dục cách ẩn dấu.
4/ Hãy chú ý nội dung hay kế hoạch các cuộc hò hẹn: cần nghĩ
trước các hoạt động sẽ làm cùng nhau. Chú ý khoảng thời gian trống trãi không
hoạt động, satan tìm việc cho các bàn tay rảnh rỗi. Bảo đảm các hoạt động hẹn
hò phải lành mạnh, các sinh hoạt mang tính nhục dục hay xem phim ảnh tình cảm ướt
át, phim khiêu dâm, ngay cả khi cùng xem trong một nhóm, có thể kích thích dục
tình.
5/ Ăn mặc đoan trang kín đáo: mặc đẹp nhưng đừng để cho thân
thể bạn trở thành tâm điểm khơi gợi dục tình.
6/ Tránh các hành vi có thể gây ra kích thích dục tình: nếu
bạn không muốn trở nên bị đốt cháy bởi dục tình, đừng làm các hành vi có thể
khơi dậy ham muốn. Đam mê thân xác rất mạnh mẽ và dẫn chúng ta chệch đường, vậy
nên đừng để bị cuốn hút bởi cảm xúc nhưng để cho lý trí điều khiển và ý chí chống
lại đam mê nhục dục. Các cảm xúc đốt cháy rất khó bị dập tắt.
7/ Hãy thành thực về chính mình: hãy nhớ bạn là ai, một người
con cái Chúa, một người trên đường nên thánh bằng chính lối sống ngay chính
đoan trang.
8/ Hãy trung thực với chính mình: tất cả chúng ta đều yếu đuối
và dễ vỡ, và đôi bạn gây nguy hiểm cho chính linh hồn của mình và của người bạn
đang hẹn hò nếu bạn nghĩ rằng các bạn mạnh mẽ đủ để đi “xa mức độ này, nhưng sẽ
không xa hơn nữa”. Giữ các nụ hôn thoáng
nhanh, giữ miệng đóng lại, và đừng để một cái ôm chầm trở thành một sự vuốt ve
âu yếm.
9/ Chấm dứt ngay mối quan hệ hẹn hò càng sớm càng tốt khi bạn
nhận ra rằng người này không phải là người bạn đời dành cho bạn. Mục đích hẹn
hò là để tìm kiếm một người bạn đời, vì thế ngay khi bạn ý thức rằng bạn không
thể sống đời với các thái độ, giá trị, thói quen, sinh hoạt…của người bạn đang
hẹn hò, hãy chấm dứt mối quan hệ. Trước hết chuyện hẹn hò này sẽ không đi đến
nơi mà đời sống bạn phải đi đến; thứ hai, cũng bất công cho người bạn hẹn hò
khi bạn cứ tiếp tục hẹn hò mà biết chắc mình không có ý định hôn nhân nghiêm
túc.
10/ Đừng bí mật về chuyện hẹn hò của bạn: hãy để gia đình và
bạn bè chia sẻ niềm vui của bạn. Nên quan tâm đến hiệu ứng xã hội về mối tương
quan hẹn hò của bạn. Tình yêu thật sự không phải là chiếm hữu, mà là mong người
yêu được hạnh phúc. Tình yêu đích thật đem lại cảm giác bình an, làm cho con
người trưởng thành.
IX. LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI TRẺ[34]
Tình yêu và khiết tịnh
Tình yêu là kiên nhẫn, tốt lành,
muốn chịu đựng tất cả. Tình yêu khiến người chồng và người vợ chăm sóc lẫn nhau
cho đến chết. Tình yêu chính là quyết định chọn lựa hơn là một cảm xúc. Tình dục
là biểu trưng của tình yêu và dấn thân thuộc hôn nhân. Tự do là khả năng làm những
gì đúng đắn và nói KHÔNG với cám dỗ xấu.
Tình yêu chân thật biết chờ đợi
Lạy Chúa Giêsu đáng yêu mến, xin
hãy giúp con sống cuộc đời làm vui lòng Ngài. Xin giúp con làm điều đúng và mạnh
mẽ đủ để nói KHÔNG với những gì trái nghịch với ý muốn của Ngài. Xin hãy làm
cho con trở nên một gương mẫu của tình yêu và sự tốt lành của Ngài cho gia
đình, bạn bè và tất cả những người con gặp gỡ. Xin hãy giúp con tôn trọng chính
mình bằng cách tránh xa những nơi và những người có thể làm xâm phạm con. Đặc
biệt, xin ban cho con can đảm và sức mạnh để sống khiết tịnh, tôn trọng món quà
tính dục của thân xác con và tránh quan hệ thân xác ngoài hôn nhân.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài luôn là người
bạn của những ai đau khổ hay gặp thử thách. Nếu con sai lỗi và vấp phạm, xin
tha thứ và chữa lành con. Con biết rằng tình yêu của Ngài dành cho con thật lớn
lao, Ngài luôn đồng hành với con và nâng con dậy và chỉ cho con nẻo đường ngay
chính để bước đi. Amen.
Giao Ước Khiết tịnh
Tôi tin rằng tôi được tạo dựng
theo hình ảnh của Thiên Chúa, được mời gọi sống cuộc sống viên mãn.
Tôi tin rằng bằng cách tôn trọng
chính mình và người khác, tôi tôn vinh Chúa.
Tôi tin rằng tôi được mời gọi để
sống theo mẫu gương và giá trị của Chúa Giêsu.
Nhìn nhận rằng tình yêu chân thật
là chờ đợi, nên mạnh mẽ với sự can đảm nhờ Thần Khí và được nâng đỡ bởi cộng đồng
Kitô hữu. Tôi hứa sống khiết tịnh, tôn trọng ân ban tính dục của tôi và tránh
quan hệ tình dục ngoài hôn nhân.
Lời cầu nguyện khi đang hẹn hò
Lạy Chúa Cha toàn năng, xin hãy giúp chúng con ý thức rằng tình yêu
đích thực sâu sắc và bền vững, là quà tặng của Ngài dành cho những ai tôn trọng
và tôn kính lẫn nhau. Xin hãy lấy khỏi lòng chúng con tất cả dấu vết của sự ích
kỷ hầu trong tất cả mọi sự, chúng con có thể giúp nhau lớn lên trong tình bạn
thật sự. Hãy giúp chúng con xác tín rằng tình yêu đích thật sẽ không gây tổn
thương, sử dụng hay lạm dụng người yêu.
Để đạt được điều này, xin hãy duy trì trong chúng con một tình yêu nồng
cháy lớn mãi dành cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu độ chúng con, bằng cách cầu nguyện
không ngưng nghỉ và lãnh nhận Bí tích Thánh thể. Ước nguyện niềm hy vọng tươi
sáng về cuộc hôn nhân hạnh phúc giúp chúng con tránh tội và những nguy cơ dễ dẫn
chúng con đến phạm tội.
Chúng con cầu xin nhờ Danh Thánh Toàn Năng của Đức Giêsu Kitô. Amen
X. KẾT LUẬN
Ðối với số đông bạn trẻ ngày nay
phải sống trong môi trường mà đức khiết tịnh bị tấn công và xem thường, sống
khiết tịnh được coi như là một cuộc đấu tranh quyết liệt, đôi khi mang tính chất
anh hùng. Nhưng với ân sủng của Ðức Kitô, Ðấng không ngừng tuôn đổ tình yêu của
mình xuống trên Giáo Hội, chúng ta xác tín rằng mọi người có thể sống khiết tịnh,
cả khi phải sống trong những môi trường không thuận lợi.
Mt 5, 48: “Các ngươi hãy nên trọn
lành, như Cha các ngươi trên trời là Ðấng trọn lành”. Như Công Ðồng Vatican II
tuyên bố: mọi người đều được mời gọi để nên thánh, dù trong bậc sống nào, hoàn
cảnh nào. Ðời sống Kitô hữu là con đường vui tươi hy vọng và đòi hỏi phải nên
Thánh, cùng lúc biết rằng con đường theo Chúa là con đường hẹp, vác thập giá mỗi
ngày theo Chúa Giêsu Chí Thánh, và cũng biết rằng sau mầu nhiệm Khổ nạn là sự
Phục sinh quang vinh.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 101 (Tháng 7 & 8 năm 2017)
[1] Xin chân thành cáo lỗi với bạn đọc vì vài tư tưởng của vài
tác giả được sử dụng trong bài này, nhưng vì lý do khách quan chưa tìm lại được
nguồn chính.
[2] X. Hoành Sơn, Nhìn từ
Phương đông và hôm nay: Con Người Văn Hóa và Xã Hội ngôn ngữ, Ngoại tác và nội
tâm, (Nhà Xuất bản Văn Hóa Thông tin, Tp HCM, 2005), tr. 24-25.
[4] Bác Sĩ Anthony J. Suttilaro, Living Well Naturally (Houghton Mifflin com. Boston, 1986), bản dịch
tiếng việt.
[5] Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Bình Tĩnh, Dịch giả, Quan Niệm Kitô Giáo về Con Người, (Đại
Chủng Viện Huế, Lưu Hành nội bộ, 1997), 69. Nguyên bản tiếng Pháp Jean Mouroux,
Sens Chrétien de L’Homme.
[9] “Gần 6.000 ca nạo phá thai tuổi vị thành niên mỗi năm”, http://suckhoe.vnexpress.net/tin-tuc/suc-khoe/gan-6-000-ca-nao-pha-thai-tuoi-vi-thanh-nien-moi-nam-3431528.html, 6/7/2016.
[10] Thiên Chương, “Ngờ nghệch về sex, teen nữ ngậm ngùi thai nghén”, https://vnexpress.net/ngo-nghech-ve-sex-teen-nu-ngam-ngui-thai-nghen-2387077.html
[11] “Gần 6.000 ca nạo phá thai tuổi vị thành niên mỗi năm”, http://suckhoe.vnexpress.net/tin-tuc/suc-khoe/gan-6-000-ca-nao-pha-thai-tuoi-vi-thanh-nien-moi-nam-3431528.html
[16] X. Vũ văn An, “Bốn Mươi Năm Sự Sống Con Người », http://vietcatholicnews.net/News/Html/57349.htm
[17] X. Vũ văn An, “Bốn Mươi Năm Sự Sống Con Người »,
[18] Ngày nay, tiếng “mình” hơi bị “lạm dụng”, người nói chuyện
có thể tự xưng là “mình” với người đối diện.
[20] Hà Đồng, “Xót xa nữ sinh lớp 7 ở Thanh Hóa sinh con”, http://tuoitre.vn/tin/phap-luat/20170413/xot-xa-nu-sinh-lop-7-o-thanh-hoa-sinh-con/1297379.html
[21] “Nếu em thực sự yêu anh thì em sẽ…” . Lời “chờ đợi” phát từ
miệng cô gái là lời hoàn toàn phù hợp để kết thúc câu nói trên của chàng trai.
(Fraser, Sex as Gift, tr.28) . “Nếu trong vài trường hợp việc cô chống cự sẽ
đem đến kết quả là anh ta cắt đứt mối tương giao thì phải chắc chắn rằng trong
mối tương quan đó đã không có sự tôn trọng con người là phần thiết yếu của một
tình yêu chân thật” (Fraser, Sex as Gift, tr.28). Ngoài ra, chính việc đòi hỏi
“bằng chứng” cho tình yêu đã đủ để chứng minh rằng thanh niên đang nghi ngờ
tình yêu của bạn mình, nếu không phải là nghi ngờ tình yêu của chính mình. Có
thể xảy ra là thanh niên đó thành thực về mối nghi ngờ của mình. Nhưng bằng chứng
là việc giao hợp thì hết sức tối nghĩa, cho nên khó có thể giúp thanh niên ấy hết
nghi ngờ. Hoặc hay xảy ra hơn, thanh niên đó chưa yêu thực sự cô gái, vì khi
giao hợp mà chưa kết hôn, nhiều hậu quả không hay có thể xảy ra mà người gánh
chịu phần lớn hậu quả là cô gái. Anh ta không nghĩ cho cô gái, mà chỉ muốn thỏa
mãn dục vọng chiếm hữu của chính mình.
[22] Hầu hết các việc giao hợp trước hôn nhân là biểu lộ một
tâm lý chưa trưởng thành tính dục: thanh niên cần xác định về nam tính của mình
qua việc giao hợp.
[23] “Đức khiết tịnh tiền hôn nhân và sự chung thủy hôn nhân đi
liền với nhau và cùng đứng vững hay cùng sụp đổ” (Evelyn M. và Sylvanus M. Duval, Sense and nonsense about Sex, tr. 81).
“Sự khác biệt về bản chất tình dục giữa nam và nữ là một lý do tại sao phương
thế tốt nhất để lấy được chồng là đừng cho bạn trai cái mà cậu muốn chiếm hữu
trước hôn nhân”’ (Evelyn M. và Sylvanus M. Duval, Sense and nonsense about Sex, tr. 81).
[24] Trích trong tập giáo trình “Luân Lý Chuyên Biệt”,
không rõ tác giả, lưu hành nội bộ, trước 1975.
[27] Trích trong tập giáo trình “Luân Lý Chuyên Biệt”, lưu hành nội bộ, trước
1975.
Không rõ tác
giả, theo thông tin đáng tin cậy, có lẽ là một giáo sư luân lý tại Giáo Hoàng Học
viện Đà Lạt.
[30] Chúa Giêsu cũng đã khẳng định: “thuở ban đầu Đấng tạo hóa đã làm ra
con người có nam có nữ…Vì thế người ta sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình,
và cả hai sẽ thành một xương một thịt….Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài
người không được phân ly” ( Mt 19, 5-6). Điều Chúa Giêsu nói không chỉ dành cho
hôn nhân Công Giáo mà cho tất cả mọi cuộc hôn nhân. Như vậy tất cả các cuộc hôn
nhân dù là hôn nhân ngoại giáo cũng đều mang những đặc tính chính yếu là đơn nhất
tức là một vợ một chồng và bất khả phân ly như Công Đồng Tridentino đã định tín
: “Mọi hôn nhân hợp pháp do luật tự nhiên và thiên định đều vĩnh viễn và bất khả
phân ly”. Tức là hôn nhân của những người lương nếu không có ngăn trở theo luật
tự nhiên và thiên luật thì được coi là thành sự.
Giáo Luật mới đã trình bày ở điều 1056: “Những đặc tính chính yếu của hôn nhân là sự đơn nhất và bất khả phân ly…” Điều Giáo Luật này còn thêm: “…những đặc tính này có sự bền vững đặc biệt trong hôn nhân Kitô giáo vì có tính cách bí tích.” Như vậy, những đặc tính mà ta vừa nói trong hôn nhân Kitô giáo được củng cố bền vững nhờ tính bí tích chứ không phải là đặc tính riêng của hôn nhân Công Giáo và các cuộc hôn nhân khác dù là hôn nhân tự nhiên cũng bị ràng buộc bởi những đặc tính đơn nhất và bất khả phân ly nên người ta không có quyền tự do ly hôn hoặc hoặc tự do quan hệ ngoài hôn nhân. Cũng phải lưu ý thêm rằng hôn nhân ngoài Kitô giáo dù không phải là bí tích cũng mang tính thánh thiêng vì đã được Thiên Chúa chúc lành từ ban đầu ( Sáng thế 1, 28). Những hôn nhân này được gọi là hôn nhân tự nhiên. Một người ngoại giáo dù đã ly dị về mặt dân sự thì dây ràng buộc hôn nhân tự nhiên vẫn tồn tại nên không thể kết hôn thành sự với người Công Giáo được. (Theo Lm Giuse Nguyễn Ngọc Bích, CsSR, “Hôn nhân tự nhiên và hôn nhân bí tích”, http://giaophanthaibinh.org/a3575/Hon-nhan-Tu-Nhien-va-Hon-nhan-Bi-Tich.aspx
[31] “Bảy Lời Khuyên của Đức Phanxicô cho một nền giáo dục tính dục ‘tốt’”
http://xuanbichvietnam.net/trangchu/bay-loi-khuyen-cua-duc-phanxico-cho-mot-nen-giao-duc-tinh-duc-tot/, Tý Linh chuyển ngữ theo Gelsomino Del Guercio, aleteia.org.
[32] Trích trong Nguyễn Đình Vịnh, “Cảm tính và dục tính:
Những vấn đề liên quan đến tính dục đối với các tu sĩ/ Linh mục”.
[33] Trích trong Nguyễn Đình Vịnh, “Cảm tính và dục tính: Những
vấn đề liên quan đến tính dục đối với các tu sĩ/ Linh mục”.
[34] Trích trong “tờ rơi” của Ban Bảo Vệ Sự Sống tại
Philippines.