RATZINGER, MỘT NGƯỜI THẦY
Đọc sách Tiểu sử Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI
“Servitore di Dio e dell’umanità” của Elio Guerriero
Tác giả: Lm Federico Lombardi, S.J.[1]
Chuyển ngữ: Thành Thi
WHĐ (20.11.2020) - Ngày 30-08-2016, quyển tiểu sử Đức nguyên Giáo hoàng
Bênêđictô XVI, ấn bản tiếng Ý được phát hành tại Roma. Sách mang tên “Servitore
di Dio e dell’umanità” (Tôi tớ của Thiên Chúa và của nhân loại). Tác giả là
Elio Guerriero, nhà văn và nhà thần học; sách do Đức giáo hoàng Phanxicô đề tựa.
Sau đó, ngày 27-09, tại Roma, đã diễn ra buổi hội thảo giới thiệu tác phẩm.
Trong buổi hội thảo này, có ba diễn giả trình bày cảm nhận về Đức Bênêđictô XVI
qua thiên tiểu sử của ngài được Elio Guerriero biên soạn: Đức Hồng y Quốc vụ
khanh Pietro Parolin; Linh mục Federico Lombardi S.I., Giám đốc Quỹ Ratzinger,
nguyên Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, Giáo sư Andrea Riccardi, sáng lập Cộng
đoàn Sant’Egidio.
Chúng tôi xin giới thiệu cùng quý độc giả bài phát biểu của Linh mục
Federico Lombardi tại buổi hội thảo trên.
I. SÁCH TIỂU SỬ: GIÁ TRỊ VÀ ĐẶC ĐIỂM
Công trình của ông Elio Guerriero[2] được chúng ta giới thiệu chiều
nay quả là một tác phẩm được chờ đợi. Tôi nghĩ chúng ta hoàn toàn khách quan để
có thể nói đây thực sự là cuốn tiểu sử đầu tiên về Đức Joseph
Ratzinger-Bênêđictô XVI, viết về trọn cuộc đời của ngài, từ ngày sinh ra đến
hôm nay. Một cuộc đời đang tiếp diễn và có thể sẽ còn mang lại nhiều bất ngờ và
tiếp tục trao ban - như quyển sách phỏng vấn ngài do Peter Seewald mới đây vừa
thực hiện - đặt trong tổng thể những gì ngài đã làm liên quan đến những hoạt động
sứ vụ, viết sách và giảng dạy.
Chúng ta đã từng được giới thiệu về những chặng
đường cụ thể của cuộc đời đức nguyên giáo hoàng, chẳng hạn quyển “Tự thuật” do
ngài viết, hiện là tư liệu tham khảo chủ yếu về phần thứ nhất cuộc đời của
ngài, 50 năm đầu tiên, tính đến khi ngài được bổ nhiệm làm Tổng giám mục
Münich. Chúng ta đã đọc quyển sách hấp dẫn do Gianni Valente viết về “Giáo sư
Ratzinger”, một hợp tuyển lớn các chứng từ về thời dạy học của Ratzinger tại
nhiều trường đại học ở Đức. Lại được đọc một công trình lớn về thời ngài cai quản
tổng giáo phận Münich. Được đọc bốn quyển sách phỏng vấn, đến nay là năm, của
Messori và Seewald vời thời kỳ ngài phục vụ trên cương vị Bộ trưởng Bộ Giáo lý
Đức Tin và sau đó là Giáo hoàng. Còn nhiều đóng góp khác nữa, tất nhiên nông
sâu khác nhau, về giai đoạn ngài làm giáo hoàng, chẳng hạn quyển gần đây của
Roberto Regoli (quyển Oltre la crisi
della Chiesa, tạm dịch: Bên kia cuộc khủng hoảng của Giáo hội)...
Nhưng chưa có ai thử phác họa một cách bao quát
và thống nhất nhằm lý giải cuộc lữ hành phi thường về phương diện nhân bản, văn
hóa, tinh thần, và giáo hội của Đức Joseph Ratzinger.
Đó chính là điều hôm nay Elio Guerriero đã làm,
và ông làm từ vốn liếng hiểu biết được trang bị từ nhiều thập niên qua, khi tìm
hiểu tiểu sử, bền bỉ đọc và nghiền ngẫm trước tác của đức nguyên giáo hoàng,
trong thời gian dài làm Giám đốc ấn bản tiếng Ý của Communio, tạp chí thần học được khai sinh từ một dự án vốn Đức
Ratzinger là người đóng góp chủ yếu. Guerriero đã dịch và hiệu đính rất nhiều
bài viết của Đức Ratzinger xuất bản bằng tiếng Ý.
Có thể dễ dàng nhận ra như một đặc trưng rõ nét
và quan trọng, đó là thế giá về thần học và sự am hiểu của Guerriero về tư tưởng
của Đức Ratzinger được biểu lộ trong suốt công trình đồ sộ chúng ta đang cầm
trên tay. Quyển tiểu sử này không chỉ là câu chuyện gồm những sự kiện tiếp nối
nhau, trong đó nhân vật chính chuyển dịch từ quê hương Bavaria, qua những chặng
đường với các thành phố đại học ở Đức, đến Münich rồi cuối cùng ở Roma, mà hơn
nữa còn là thiên tự sự tinh thần và văn hóa về một lịch sử ơn gọi nghiên cứu và
giảng dạy thần học, vì thế quyển tiểu sử hết sức phong phú về tư tưởng, do đó có
thể khá khó khăn đối với những độc giả không có thị hiếu nhất định về suy tư thần
học và cũng ít quen với loại suy tư này.
Tóm lại, không thể kể về cuộc đời của Đức
Ratzinger mà lại không đề cập cuộc đời đó là của một nhà thần học, một “nhà tư
tưởng”, ngay cả khi làm giáo hoàng. Khi thuật lại, cần phải nêu cho được những
vấn đề cuộc đời đó đã đương đầu và cách thức đương đầu của cuộc đời đó, đâu là những vấn đề cuộc đời đó
nhìn thấy đang đặt ra cho mình và cho Giáo hội trong việc phát triển sự nghiên
cứu, và rộng hơn, trong cuộc tranh luận về văn hóa, đâu là những thách đố và
nguy cơ đối với đức tin của người tín hữu và của cộng đoàn, đâu là kinh nghiệm
và thái độ về phương diện thiêng liêng song song với suy tư của ngài về phương
diện tri thức.
II. NHỮNG KHÍA CẠNH VÀ SỨ ĐIỆP CỦA MỘT CUỘC ĐỜI DẤN THÂN THẦN HỌC CHO GIÁO HỘI
Trong khung cảnh này, tôi muốn làm nổi bật ba
khía cạnh tôi cho rằng quyển tiểu sử Đức Ratzinger do Guerriero biên soạn sẽ
giúp chúng ta nhận thức những sự kiện và các giai đoạn trong lịch sử gần đây của
Giáo hội mà chính Đức Ratzinger đã trải qua.
1. Công đồng Vatican II
Sự kiện Công đồng diễn ra đã được năm mươi năm,
khiến nhiều người trong chúng ta không biết đến hoặc đã quên mất vai trò quan
trọng của vị giáo sư trẻ tuổi Ratzinger trong các biến cố chuẩn bị và tiến hành
Công đồng mà ngài đã tham gia với tư cách chuyên viên của Đức hồng y Frings. Những
phát biểu của ngài rất nhiều và Guerriero giúp chúng ta hiểu rõ và sâu sắc sự
đóng góp chính yếu và quyết định của ngài trong cuộc thảo luận gay go về “Lược
đồ về những nguồn Mặc khải”, tiếp theo đó là vấn đề trung tâm của mối liên hệ
giữa Thánh kinh, Thánh truyền và Huấn quyền được ngài làm rõ một cách thỏa đáng
trong quá trình thảo luận về vấn đề này, và sau đó đã được chấp thuận vào cuối
Công đồng. Ratzinger đã khai thác những trực cảm chính về đề tài Mặc khải của
Thiên Chúa ngài đã từng cưu mang trong luận văn lừng lẫy và nhọc nhằn về thánh
Bônaventura và thần học của ngài về lịch sử.
Không chỉ vậy, Guerriero còn giúp chúng ta hiểu
đường hướng suy tư này sẽ còn tiếp tục và được gặp lại trong công việc của vị Bộ
trưởng Bộ Giáo lý Đức Tin (cụ thể là về thần học và việc giải thích Kinh thánh
được đề cập đến trong các văn kiện quan trọng của Ủy ban Thần học quốc tế và Ủy
ban Kinh Thánh), và cuối cùng sẽ gợi cảm hứng cho toàn bộ công trình lớn ngài
viết về Chúa Giêsu, điểm nhấn thực sự trong triều đại giáo hoàng của ngài và
trong toàn bộ cuộc đời của Ratzinger, một tín hữu, một nhà thần học và một vị mục
tử của Giáo hội hoàn vũ.
Về vấn đề này, cho phép tôi được nhấn mạnh, vài
tháng nữa sẽ xuất bản tập thứ nhất, ấn bản tiếng Ý, là một trong hai tập viết về
Công đồng Vatican II được đưa vào bộ Opera
Omnia (Toàn Tập) của ngài, và năm tới đã lên chương trình xuất bản tiếp bộ Opera Omnia với phần viết về thánh
Bônaventura, song song với hội nghị quan trọng của Đại học Grêgôriana nhân kỷ
niệm 800 năm ngày sinh của thánh Bônaventura. Đây là dịp để đào sâu và công bố
những đóng góp mang tính nền tảng của Ratzinger cho thần học và giáo lý của Hội
Thánh.
2. Thế nào là nền thần học trong Giáo hội?
Một khía cạnh nổi bật trong cuộc đời của Đức Joseph Ratzinger là khoảng cách ngày càng lớn giữa ngài và các nhà thần học Đức (trong đó Küng là ví dụ rõ rệt nhất) trong thời kỳ hậu công đồng.
Tôi cho rằng, việc tìm hiểu cội rễ của sự chênh
lệch này không phải là việc vô nghĩa, mà liên quan đến bản chất và mục đích của
khoa thần học trong Giáo Hội.
Trong quyển “Cuộc trò chuyện cuối cùng”[3], trả lời một câu hỏi phỏng vấn,
Đức Bênêđictô XVI giải thích một cách đơn giản: “Tôi thấy thần học không còn là
sự giải thích đức Tin của Giáo hội Công giáo, mà tự mình cho rằng đức tin hẳn
là như thế và phải như thế. Nhưng đối với một nhà thần học Công giáo, trong đó
có tôi, điều đó không đúng với thần học” (Seewald, tr. 149 - bản tiếng Ý).
Hơn nữa, ngài nhấn mạnh: “Một Giáo hội không có
thần học thì đang làm nghèo mình đi và trở nên mù lòa, còn một nền thần học
không có Giáo hội thì đang tự tiêu vong trong sự võ đoán” (Guerriero, tr. 238),
và còn nói thêm: thần học phải có đức Tin trước đã “thần học sống bằng sự nghịch
lý của đức tin kết hợp với khoa học” (Guerriero, tr. 239).
Theo cách diễn tả nổi tiếng của Balthasar, thần
học phải biết “quỳ gối”, trở thành một “lời cầu nguyện”. Sự ăn ý giữa Ratzinger
với Lubac và Balthasar như vậy đã cho ra đời tạp chí thần học Communio thay cho tạp chí Concilium. Với Communio, Ratzinger trở thành một trong những người gợi cảm hứng
chính và bản thân ngài sẽ đăng rất nhiều bài đóng góp cho tạp chí. Vốn từng có
nhiều thập niên cộng tác và phụ trách ấn bản tiếng Ý của tạp chí Communio, Guerriero có thể nói về những
điều này một cách chắc chắn và có thẩm quyền.
Một điều rất lý thú là ông đã viết về cách thức
của Ratzinger, là người sống và cảm nhận căn tính của mình là một nhà thần học,
đón nhận và diễn đạt phận sự mới rất khó khăn là làm Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức
Tin, vốn được coi là “người canh giữ sự Chính thống”, đồng thời tìm cách sống
theo tinh thần cải cách của Đức Phaolô VI, người đã thấy Bộ này không chỉ có
nhiệm vụ sửa chữa những sai lầm, mà hơn nữa còn phải đưa ra đề nghị nhằm thúc đẩy
giáo lý đức tin, làm nổi bật những khía cạnh tích cực của giáo lý. Đó là điều rất
khó khăn như đã thấy qua những tình thế và trường hợp gây nhiều tranh cãi được
Guerriero thuật lại một cách khách quan, khi nhắc đến những vụ việc như trường
hợp Curran và Schillebeeckx, và Huấn thị Donum
veritatis, huấn thị nhằm làm dịu bầu khí bằng cách nêu lên với một cung
cách quân bình về mối liên hệ giữa huấn quyền và thần học: “Huấn quyền và các
nhà thần học có những chức năng khác nhau nhưng đều nhằm mục tiêu: giữ gìn dân
Chúa trong sự thật, nhờ đó dân Chúa trở thành ánh sáng muôn dân” (Guerriero,
tr. 243).
Nỗi ưu tư về mối liên hệ đúng đắn giữa đức tin
và lý trí, giữa thần học và huấn quyền, gắn với Ratzinger suốt đời, đồng thời
cho biết, như chúng tôi đã nêu trên đây, vì sao ngài trút hết say mê vào công
trình viết về Chúa Giêsu.
Công trình viết về Chúa Giêsu là bằng chứng cho
thấy vị giáo hoàng thần học gia này là người đồng hành và dẫn đường cho nền thần
học từ bên trong chứ không phải từ bên ngoài. Mấy tuần trước, khi thưa chuyện với
ngài tại đan viện Mater Ecclesiae, một trong những điều ngài nói hiện còn khắc
ghi trong tâm khảm tôi là: phải dùng cách
tích cực mà giúp thần học tiến bước, để thần học được tiếp tục phát triển trong
Giáo hội, và việc này phải diễn ra từ bên trong của chính thần học, chứ không
phải từ bên ngoài, vì nếu can thiệp từ bên ngoài, sẽ chẳng làm được việc lớn…
Về việc này, ngài luôn ước ao tạo điều kiện cho thần học được nuôi dưỡng sâu xa
bằng đức Tin và sensus Ecclesiae (cảm
thức của Giáo hội).
3. Đừng quên những vấn đề sau hết
Ở trang 159, Guerriero viết: “Cánh chung luận là
một trong những vấn đề thần học rất được quan tâm trong giai đoạn giữa cuối
thiên niên kỷ thứ hai và đầu thiên niên kỷ thứ ba. Đức Ratzinger đã đóng góp tiếng
nói vào đề tài này không chỉ với thẩm quyền riêng mà hầu như còn trong cô độc.
Giữa lúc thần học và huấn quyền dường như gác đề tài này sang một bên, ít nhiều
cũng cho thấy sự lúng túng, Đức Ratzinger lại dành sự lưu tâm, không phải là
không thường xuyên và nhất thời, cho suy tư về những thực tại sau cùng”.
Ngay từ năm 1957, ngay trong khóa trình đầu tiên
về cánh chung học tại đại học Freising, Ratzinger đã có những suy tư phong phú
về linh hồn, và hai mươi năm sau, khi dạy tại Ratisbonne, ngài xuất bản bộ “Tín
lý Công giáo” trong đó có một quyển về cánh chung luận được coi là “dày công và
kỹ lưỡng nhất”. Trong công trình này, với những bài viết về Kitô học, “ngài đề
cập một cách xác tín một số điểm mới mẻ và độc đáo trong toàn cảnh nền thần học
đương thời” (tr. 162) .
Cũng nên nhắc lại một văn kiện quan trọng của Ủy
ban Thần học quốc tế về “Những vấn đề hiện nay của cánh chung học” (1990), mặc
dù ngài luôn nhấn mạnh cần phải phân biệt giữa những gì ngài viết và các văn kiện
của các cơ quan do ngài đứng đầu, nhưng khó có thể nói ngài hoàn toàn xa lạ với
những nội dung được trình bày trong các văn kiện này.
Đến đây, tôi muốn nhắc đến quyển “Cuộc trò chuyện
cuối cùng” của Đức Bênêđictô XVI với Seewald, nhìn chung, theo tôi phần quan trọng nhất là chứng từ của
ngài với tư cách một tín hữu đang chuẩn bị đi gặp Chúa và chiêm niệm về mầu nhiệm
ấy, kết quả của cả một suy tư lâu dài về những sự cánh chung. Vì vậy tôi vui mừng
về hội nghị thần học sắp tới do Quỹ Ratzinger xúc tiến, được sự cộng tác của
phân khoa thần học trường Đại học Thánh Giá, tổ chức vào tháng Mười Một, với chủ
đề về cánh chung học, theo dự kiến sẽ có những phát biểu về sự đóng góp của Đức
Ratzinger trong lĩnh vực này. Theo tôi, cần phải lưu tâm đến tầm quan trọng những
vấn đề muôn thuở và không thể tránh khỏi, là những ‘novissimi’, những sự sau hết
-sự chết, phán xét, hỏa ngục, thiên đàng- nếu chúng ta không uốn lừa mị người
đương thời khi bỏ qua những điểm then chốt của đức tin Kitô giáo. Đức
Ratzinger, vốn luôn quả cảm lội ngược dòng, đã giúp chúng ta bằng những đóng
góp của ngài về thần học và qua chứng từ sống động của ngài đang đối diện với
cái chết.
III. CẶP BÀI TRÙNG TUYỆT VỜI
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II quyết triệu Đức Hồng
y Ratzinger về Roma đảm nhận phận sự đứng đầu Bộ Giáo lý Đức Tin. Dù Đức
Ratzinger rất muốn khước từ vì ý thức trọng trách đối với Tổng giáo phận Munich
đã được Đức Phaolô VI trao phó trước đó không lâu, nhưng cũng đã phải cúi đầu
trước ý định rõ rệt của Đức Gioan Phaolô II. Thế là bắt đầu quá trình cộng tác
rất lâu dài, gần 24 năm, với Đức Gioan Phaolô II trong trách nhiệm lãnh đạo
Giáo hội hoàn vũ, một sự cộng tác có vai trò rất quan trọng đối với một trong
những triều đại giáo hoàng dài nhất trong lịch sử, và từ chính con người của vị
Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức Tin và Niên trưởng Hồng y đoàn này đã gợi cho Hồng y
đoàn một sự lựa chọn tự nhiên để bầu ra vị tân giáo hoàng. Chính những lúc vị Bộ
trưởng gặp khó khăn và mệt mỏi về thể chất, khi những ý nghĩ từ chức ùa đến, Đức
Gioan Phaolô II đã cho vị Hồng y Bộ trưởng hiểu rằng ngài không thể nào xem xét
một việc như thế.
Sự khác biệt, đồng thời bổ túc cho nhau, của hai
nhân cách lớn Wojtyla và Ratzinger, đồng thời sự hòa hợp tinh thần, vừa sâu xa
vừa bền chặt, của hai vị đã khiến chúng ta có thể nói lên đó là một “cặp bài
trùng tuyệt vời”. Về một số phương diện nào đó, khó có thể nghĩ đến vị này lại
không liên tưởng đến vị kia.
Trong số những tác động quan trọng của Đức Gioan
Phaolô II nhằm định hướng giáo lý của Hội Thánh, có sự đóng góp của Đức
Ratzinger, tôi muốn nhắc đến hai văn kiện được bàn luận nhiều nhất, đó là Huấn
thị về Thần học giải phóng và Tuyên ngôn Dominus
Jesus.
Guerriero giúp chúng ta hiểu đây không phải là vấn
đề tiến bộ hay bảo thủ, cởi mở hay khép kín, mà là cả Đức Giáo hoàng và Đức Hồng
y Bộ trưởng đều thấy mình phải đưa ra lập trường rõ rệt và mạnh mẽ nhằm tránh
cho đức Tin của Giáo hội rơi vào tình trạng lạc đường không thể chấp nhận được,
như trong trường hợp những trào lưu cực đoan nhất của thần học giải phóng đã có
nguy cơ làm sai lạc đức tin do nhiễm phải tư tưởng duy vật mácxít. Tuyên ngôn Dominus Jesus tái khẳng định một cách dứt
khoát niềm tin của Giáo hội vào Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc, trong khuôn khổ Đại
Năm Thánh 2000, đương đầu với sự lan tràn của chủ nghĩa tương đối. Nói về sự đồng
thuận sâu sắc giữa Đức giáo hoàng và vị Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức Tin, trong quyển
“Cuộc trò chuyện cuối cùng” vừa xuất
bản, Đức Bênêđictô XVI kể lại một chi tiết thú vị liên quan đến Tuyên ngôn Dominus Jesus, đó là việc tuyên ngôn bị
chỉ trích dữ dội vì bị coi là không có lợi cho đối thoại liên tôn và đại kết. Đức
Gioan Phaolô II, sau khi nghe các chỉ trích và những lời đồn thổi tư tưởng của
Đức Giáo hoàng khác với vị Bộ trưởng Giáo lý Đức Tin, đã muốn bày tỏ “một cách
rõ rệt” việc ngài hoàn toàn ủng hộ bản tuyên ngôn, vì thế ngài xin Đức Hồng y
soạn sẵn một bài theo chiều hướng đó để ngài đọc trong buổi Kinh Truyền tin
Chúa nhật. Đức Ratzinger đã làm theo yêu cầu của Đức Giáo hoàng, nhưng hình thức
diễn đạt bản văn lại quá “kiểu cách”, đến nỗi cuối cùng “Tất cả đều bảo: ‘Chà,
chính Đức Giáo hoàng cũng bỏ xa Đức Hồng y’” (tr. 163).
Guerriero cũng nêu lên tính chất “thành công” hiển
nhiên và có ý nghĩa xây dựng của thời Đức Ratzinger phục vụ tại Bộ Giáo lý Đức
Tin dưới thời Đức Gioan Phaolô II qua việc xuất bản sách Giáo lý Hội Thánh Công
Giáo. Dù lúc soạn thảo bị nhiều người ngờ vực và chỉ trích, nhưng bộ sách đã được
đón nhận rất thịnh tình và ưng ý của đại đa số cộng đồng Công giáo, hầu như được
coi là một “phép lạ”, một sự đóng góp vô giá, giúp Giáo hội tìm lại được sự
bình tâm sau cả một giai đoạn dài hoang mang và lúng túng thời hậu Công đồng.
Cũng vậy, chúng ta có thể nhắc đến Đức Phanxicô đã từng trích dẫn sách Giáo lý
một cách trực tiếp và tự nhiên khi cần đưa ra lập trường của Giáo hội Công giáo
đối với các vấn đề thời sự (như vấn đề đồng tính).
IV. MỘT CHỨNG TỪ
Về thời kỳ Đức Bênêđictô XVI làm giáo hoàng, chứng từ tôi đưa ra hơi mang tính chất riêng tư nhưng có lẽ cũng thích hợp và nên kể ra ở đây. Nếu có dịp trình bày trong một khung cảnh rộng rãi và đầy đủ hơn như Guerriero, tôi sẽ thoải mái trình bày những ấn tượng cá nhân đối với những sự kiện nhìn chung tôi đã dự phần vào. Vì thế tôi xin kể lại một vài thời khắc của triều đại giáo hoàng bản thân tôi đã gắn bó và gần gũi về tinh thần với Đức Bênêđictô XVI. Tôi xin kể lại bốn thời điểm.
- Trước hết,
là Thư
gửi các giám mục sau khi bãi bỏ và tuyệt thông đối với nhóm Lefebvre[4]
và “vụ Williamson”.
Đây là một văn kiện hoàn toàn chân thành và
riêng tư. Đức cha thư ký Gänswein còn nói với tôi trước khi công bố: đây là một
văn kiện, có thể nói, “thuần chất Ratzinger”. Một bằng chứng về sự khiêm nhường,
nêu ra cái sai nhưng không trút trách nhiệm của mình cho người cộng sự. Hết
lòng bảo vệ sự thuần khiết và nghiêm cẩn của chủ đích dấn thân lâu dài cho công
cuộc liên lạc với Do Thái giáo và sự hiệp nhất hữu hình của Hội Thánh. Thật quá
bất công nếu làm ngơ trước những đóng góp quan trọng của Đức Bênêđictô XVI cho
cuộc đối thoại với Do Thái giáo trong chiều sâu và có thực chất của suy tư thần
học. Và thật bất công nếu không ghi nhận sự điều hành rất cẩn trọng của ngài
trong cả một câu chuyện dài về việc liên lạc với nhóm Lefebvre trong suốt thời
ngài làm Bộ trưởng Giáo lý Đức Tin theo sự chỉ đạo của Đức Gioan Phaolô II. Một
câu trả lời can đảm cho những ai lợi dụng lúc khó khăn để tiếp tục đưa ra những
chỉ trích ác độc. Xin nói rằng tôi luôn có ấn tượng về sự chân thành của Đức
Ratzinger khi ngài chẳng ngại tranh luận hoặc đương đầu với những cuộc công
kích ngài coi là bất công đối với mình; đó cũng là điều được ngài nhắc lại
trong cuộc trò chuyện với Seewald: tôi cho rằng đây là một hành động chân thành
phù hợp với quyết tâm tự mình đương đầu một cách thẳng thắn đối với những vấn đề
khó khăn, cả trong lĩnh vực giáo lý cũng như phạm vi riêng tư. Vì thế trong lời
mời gọi cuối thư, đã trích lời thánh Phaolô nói với các cộng đoàn Kitô hữu đang
chia rẽ[5], thì tinh thần của lời Thánh
Tông đồ mời gọi vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự.
Guerriero nhận thấy “tiếng kêu nài” đáng trọng này của Đức giáo hoàng lẽ ra đã phải nhận được sự đánh giá cao, đồng thời thấy được Đức Bênêđictô XVI lúc đơn độc thì lại không được các công sự viên giúp đỡ đầy đủ, cung cấp trước những thông tin thích đáng để ngài đưa ra những quyết định của mình, nên phải chịu sự công kích trong một giai đoạn khó khăn. Mục đích của tôi ở đây không phải là trở lại một lần nữa để phân tích hoàn cảnh phát sinh vụ “Williamson và nhóm Lefebvre” mà muốn làm nổi bật sự quả cảm của việc xưng mình ở ngôi thứ nhất và phẩm chất đạo đức và Tin Mừng trong những lập luận và tự vệ của một vị giáo hoàng, cả trong giai đoạn trước đó cũng như lúc đảm nhận sứ vụ Phêrô, đã gặp nhiều đau khổ vì bị chỉ trích và tấn công.
- Một khía
cạnh ít người biết đến nhưng đã gây nhiều ấn tượng sâu xa đối với tôi, đó là lòng
quan tâm và xử sự tế nhị với mọi người, mong muốn được biểu lộ sự thấu
hiểu, lòng nhân đạo và tình bác ái, ngay trong những lúc gặp khó khăn mà ngài cần
phải can thiệp với những quyết định không dễ dàng, gây ra đau khổ. Phải luôn
tìm cách chữa lành những vết thương và khuyến khích sự hòa giải và hòa bình.
Riêng tôi, có một thông cáo báo chí không thể
nào quên được mà tôi coi như một chứng từ tuyệt vời về thái độ hiền phụ ấy.
Tuy là Thông cáo của Phòng Báo chí Tòa Thánh,
nhưng trong thực tế, bản thông cáo này được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI biên tập
từ chữ đầu đến chữ cuối, nhân buổi tiếp kiến một vị giám mục bị giải nhiệm, vị
này lẽ ra phải từ chức sau khi xảy ra những sự kiện và căng thẳng nghiêm trọng.
Diễn tiến sự việc thật đau lòng, cuối cùng Đức Giáo hoàng muốn kết thúc. Vì vậy
bản Thông cáo đã viết, đại loại: “Giám mục X nhấn mạnh rằng ngài luôn cố gắng
chu toàn sứ vụ giám mục một cách tận tâm và có ý thức. Với tất cả chân thành và
khiêm nhường, ngài xác nhận mình đã mắc những sai phạm, đưa đến việc không còn
được tin tưởng và việc từ nhiệm là không tránh khỏi. Một lần nữa ngài xin được
tha thứ cho mọi sai lầm của mình, nhưng ngài đề nghị một cách chính đáng rằng,
trước những sai lầm của ngài, mọi người đừng quên mọi việc tốt lành ngài đã
làm. Đức Thánh Cha bày tỏ hy vọng lời cầu xin tha thứ sẽ được lắng tai nghe và
rộng lòng đón nhận. Sau một thời kỳ diễn ra những cuộc tranh cãi vượt mức, Đức
Thánh Cha kêu gọi hãy hòa giải, hãy đón nhận nhau trong tinh thần thương xót của
Chúa và phó thác theo sự hướng dẫn của Người. Riêng đối với anh em trong sứ vụ
giám mục, Đức Thánh Cha xin hãy dành cho Đức cha X nhiều hơn nữa tình bằng hữu,
sự thông cảm và giúp đỡ để ngài tìm được hướng đi đúng”. Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI viết thêm một vài chữ cho giáo phận và kết luận: “Trong một thời
kỳ xung đột và bất ổn, thế giới mong đợi các Kitô hữu hãy làm chứng về sự đồng
tâm nhất trí được xây trên nền tảng gặp gỡ Chúa Giêsu phục sinh, để có thể giúp
nhau cũng như giúp xã hội tìm được con đường đúng đắn đi tới tương lai”.
Trong những năm vừa qua làm việc tại Phòng Báo
chí Tòa Thánh, tôi đã công bố các thông cáo báo chí thuộc mọi thể loại và mọi mức
độ, do tôi soạn thảo, theo yêu cầu hoặc nhận được từ các cơ quan thuộc Phủ Quốc
vụ khanh hoặc các cơ quan trung ương của Giáo triều, v.v. Lần này tôi hết sức
xúc động được công bố một thông cáo được chính Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết
từng chữ một cách trau chuốt và cẩn thận. Ý thức diễn tiến câu chuyện xảy ra
trước đó rất lâu và đau lòng, đồng thời chính Đức Thánh Cha quyết tâm đưa sự việc
đi đến kết thúc dưới dấu chỉ của lòng thương xót và hòa giải, nên tôi hết sức
khâm phục và chẳng bao giờ quên được.
- Cung
cách tự mình dấn thân, trong khiêm nhu và bác ái, còn bừng sáng trong một tình
huống khác chính tôi được chứng kiến, hoặc nói khác hơn, tôi cũng dự phần rất lớn.
Đó là cuộc gặp gỡ với các nạn nhân bị những người trong hàng giáo sĩ lạm dụng
tình dục. Guerriero cũng đã đề cập sự kiện này trong sách của mình. Tôi nghĩ
cũng nên công khai nhắc lại việc này.
Rõ ràng vấn đề lạm dụng tình dục là một trong những
sự kiện đau lòng nhất trong triều đại giáo hoàng của Đức Bênêđictô XVI.
Guerriero gọi đó là “thánh giá thật sự” của triều đại giáo hoàng, và tôi thấy
Guerriero có lý. Nhưng cũng phải nhớ rằng đây không chỉ là thánh giá của thời
ngài làm giáo hoàng mà còn chiếm phần lớn thời gian ngài làm Bộ trưởng Giáo lý
Đức Tin, trở thành một vấn đề lớn được gửi về Bộ giải quyết, và vị Bộ trưởng, mỗi
lúc một ý thức về sự nghiêm trọng và phức tạp của vấn đề, đã đảm nhận vai trò
chính, cùng với Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong việc chuyển thẩm quyền giải
quyết về Bộ đối với hầu hết những trường hợp nghiêm trọng nhất, nhằm đưa ra biện
pháp giải quyết nghiêm nhặt và nhất quán, để không bị phân tán giữa các Bộ vốn
có những khác biệt không tránh khỏi và cũng không triệt để về tiêu chí.
Đức Hồng y Ratzinger, tức Đức Giáo hoàng
Bênêđictô XVI sau này, có công trong việc giúp và hướng dẫn Giáo hội đương đầu
với những khủng hoảng và bão tố do nạn bạo hành tình dục thổi tới, đặc biệt
trong hàng giáo sĩ. Công lao này được thể hiện nhiều lần qua những cách giải
quyết phù hợp, trở thành các văn kiện chống lại những cuộc công kích liên hồi
và phi lý, mô tả ngài là đồng phạm của thứ văn hóa che giấu và giả hình trong
Giáo hội.
Ở đây tôi không có ý định trở lại câu chuyện dấn
thân của ngài bằng cách thuật lại những quy định mới đã được áp dụng, rất nhiều
bài phát biểu, bức thư nổi tiếng gửi người Công Giáo Ireland, cũng là nói với
toàn thể Giáo hội… Trong quyển sách mới đây viết về triều đại giáo hoàng của Đức
Bênêđictô XVI (Oltre la crisi della Chiesa,
Lindau 2016), Roberto Regoli đã trình bày một bản tổng hợp đầy đủ những vấn đề
trên. Tôi muốn minh chứng ngài thành tâm dấn thân, trên cả hai phương diện làm
người và là Kitô hữu, nhằm tìm kiếm những con đường thích hợp, đó là thống hối,
hoán cải, thanh luyện, nhằm đem lại ý nghĩa thực sự cho tiến trình tố tụng và
các quy định và biện pháp pháp lý để truy tố tội phạm, và là điều kiện tiên quyết
cho việc canh tân nền văn hóa Kitô giáo nhằm ngăn ngừa sự lạm dụng.
Trong câu nói đến nay vẫn còn được nhắc đến “Có biết bao vết nhơ trong Giáo hội” vang
lên trong buổi Via Crucis (Chặng đàng
Thánh Giá) cuối cùng của triều đại giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã gợi lên cảm
nghiệm đau đớn của vị Bộ trưởng Giáo lý Đức Tin trước những tin tức đến từ khắp
nơi trên thế giới về những loại tội phạm và tội ác nặng nề nhất, đối chọi khốc
liệt với sự thánh thiện được đặt ra cho các Kitô hữu.
Trong các bài diễn văn, điểm nhấn là những lời
xin tha thứ. Nhưng hành động tiêu biểu nhất và nói lên nhiều nhất về thái độ hạ
mình và chính mình cũng dự phần vào việc hoán cải chính là việc ngài gặp gỡ
riêng với các nạn nhân bị lạm dụng. Một cách nào đó, hành động này là cần thiết
nhằm đáp lại một cách đáng tin cậy trước sự chỉ trích cho rằng: các bề trên
trong Giáo hội trong thời gian vừa qua chỉ chú ý đến hàng giáo sĩ hơn là lưu
tâm đến nỗi đau khổ và việc bảo vệ các nạn nhân. Đức Bênêđictô XVI tự mình nhìn
thấy điều đó và muốn cho các giám mục và Giáo hội thấy con đường đúng đắn phải
theo chỉ có thể bắt đầu bằng cách lắng nghe và đồng cảm với nỗi đau khổ của các
nạn nhân. Như chúng ta biết, Đức Bênêđictô XVI đã sắp xếp để đích thân ngài gặp
gỡ các nhóm nạn nhân trong nhiều chuyến tông du của ngài. Bắt đầu tại
Washington (2008), tiếp đến Sydney (2008), London và Malta (2010), Erfurt ở Đức
(2011), trong thực tế tại mỗi quốc gia ngài đến, nếu vấn đề lạm dụng vẫn còn
dai dẳng trong Giáo hội và công luận, Đức Thánh Cha sẵn sàng gặp gỡ các nạn
nhân.
Tôi còn nhớ rõ sự chờ đợi của giới truyền thông,
nên cần phải khéo léo sao cho cuộc gặp gỡ được chuẩn bị kỹ lưỡng và an toàn, nhằm
thông tin hoàn toàn đúng sự thật và làm nổi bật được tính nhân văn và tinh thần
của sự gặp gỡ, tránh bóp méo và đi vào lối đưa tin giật gân, nhưng cũng khó
tránh khỏi loại tin này và dù sao cũng hữu ích và cần thiết để truyền đi một sứ
điệp tích cực. Tôi cũng nhớ rõ sự giản dị và tế nhị trong thái độ lắng nghe và
vẻ cảm động của Đức Giáo hoàng, rồi ngài mời cầu nguyện. Hoàn toàn không phải
là một việc làm hình thức, một yếu tố trong chiến thuật giao tiếp nhằm cho qua
lúc khủng hoảng. Đây là nỗ lực bày tỏ sự cảm thông nỗi đau khổ của các nạn nhân
nhằm đồng hành với họ trên con đường dài và khó khăn trong việc chữa lành từ
bên trong. Đây chính là nỗ lực hoán cải và quyết tâm thanh luyện được Đức
Bênêđictô XVI đặt ra không những cho cá nhân những người vi phạm hoặc đồng
trách nhiệm, mà còn cho toàn thể cộng đoàn Giáo hội. Bởi mỗi cuộc hoán cải đích
thực, mỗi cuộc vượt qua cái ác tiến đến cái thiện đều đau đớn và phải trả giá.
Đức Bênêđictô XVI đã trả giá cho phần của mình với tư cách là Bộ trưởng và Giáo
hoàng, và ngài đã nêu gương cho chúng ta, vì chúng ta cũng phải trả giá. Như vậy
hoán cải là con đường cần phải đi. Quả thực, hình ảnh Giáo hội đã bị hủy hoại,
nhưng bề sâu hơn của vấn đề không phải là lau chùi hình ảnh, hoặc nếu cần thì đặt
ra các thủ tục chặt chẽ hơn và hiệu quả hơn, mà là canh tân từ cõi lòng. Đó
không phải là quở trách người khác vì họ đã phạm tội, mà nhìn nhận mình cũng có
tội và phải hoán cải vì chúng ta được kêu gọi nên thánh. Về điểm này, mọi lời
nói và thái độ của Đức Bênêđictô XVI không hề để lại một chút hoài nghi nào nên
chính vì thế tôi luôn luôn tin rằng việc truyền thông của Giáo hội thời Đức
Bênêđictô XVI, trong chừng mực nào đó phụ thuộc vào tôi, đã hướng theo thái độ
nội tâm đó.
Nếu bây giờ Giáo hội, dưới sự dẫn dắt của Đức
Giáo hoàng Phanxicô, được an toàn và vững tin hơn, có thể tiếp tục đi theo con
đường tích cực ngăn ngừa sự lạm dụng và không ngừng phổ biến rộng hơn văn hóa
ngăn ngừa và bảo vệ trẻ nhỏ, thì không ít đã nhờ vào nỗ lực tinh thần của cá
nhân Đức Bênêđictô XVI và sự khả tín của việc ngài làm.
- Nhưng
không phải là chứng từ riêng của tôi chỉ nói về hoặc chủ yếu đề cập đến những
khía cạnh đau buồn. Quả thật, sau thời Đức Bênêđictô XVI, lòng ngưỡng mộ của tôi đối với
ngài không ngừng gia tăng, đặc biệt ngưỡng mộ cung giọng ngôn ngữ thần học linh
đạo của ngài vút cao và trổi vượt.
Trong trang viết rất hay về những bài giảng đầu
tiên của Ratzinger khi dạy tại chủng viện Freising, Guerriero kể lại câu chuyện
này về một trong những học trò của vị giáo sư trẻ. Người học trò ấy nói: “Trước
hết, ngôn ngữ của ngài rất lôi cuốn. Đó là thứ ngôn ngữ duyên dáng và hoàn toàn
mới… Suốt kỳ nghỉ hè, thật sự tôi đã học thuộc lòng những bài giảng được ghi lại,
chỉ để đắm mình vào ngôn ngữ này”. Rồi đến dòng tư tưởng, cũng người học trò
này kể lại, gọi đó là dòng “suy tư-chiêm niệm”, được sinh ra từ đời sống thiêng
liêng sâu sắc của ngài được xây dựng trên Thánh Kinh và các Giáo phụ. Và người
học trò này nhớ lại bài dẫn nhập của Ratzinger tại Freising về chân lý. Chân lý
là một ngôi vị, theo Ratzinger, và ta đạt đến chân lý bằng tình yêu. (tr. 57).
Phần tôi, một sinh viên trẻ học thần học ở Đức,
tôi đã say mê đọc quyển “Dẫn vào Kitô giáo”, có lẽ đây là quyển sách mang hạnh
phúc nhất đến cho ngài, một quyển best-seller phi thường, có thể khơi lên sự
thích thú và thán phục đối với thế giới quan, cái nhìn đối với lịch sử và nhân
sinh quan Kitô giáo; tôi ngấu nghiến đọc những giáo trình Giáo hội học của ngài
về Giáo hội và Nước Chúa, được lưu hành rộng rãi trong các phân khoa thần học,
và vào mùa hè, tôi đi từ Frankfurt (Đức) đến Salzburg (Áo) để dự tuần hội thảo
của Ratzinger trong khuôn khổ khóa hè “Salzburger Hochschulwochen”[6] dành cho sinh viên. Lúc bấy
giờ Ratzinger đang đạt độ chín trong công việc giảng dạy đại học, vừa chuyển về
dạy tại Regensburg, và chắc chắn là một trong các giáo sư được nhiều người biết
đến nhất ở Đức: giảng đường chật ních người nghe đang chăm chú lắng nghe với
lòng ngưỡng mộ ngôn ngữ giàu chất lượng, khúc chiết và sâu sắc.
Thời làm giáo hoàng, Đức Bênêđictô XVI dùng hai
loại huấn quyền mà ta không thể không đặc biệt chú ý, coi nhẹ tầm quan trọng của
chúng, còn đối với tôi, những huấn từ này một lần nữa lại khiến tôi ngưỡng mộ,
gợi lại cho tôi hình ảnh vị giáo sư lừng lẫy vài thập niên về trước: những bài
giáo lý thứ Tư và các bài giảng trong Thánh lễ.
Guerriero khẳng định thật xác đáng tầm quan trọng
của những bài giáo lý của Đức Bênêđictô XVI, cách riêng loạt bài về các thánh.
Trong những năm đầu triều đại giáo hoàng của ngài, khi nghe ngài giảng giáo lý,
tôi thường tự nhủ những bài giảng này đặc biệt giúp nâng cao văn hóa và đời sống
thiêng liêng của người Kitô hữu, và quả là một vị “Giáo phụ” mới đang nói.
Nhưng làm tôi xúc động và say mê hơn nữa chính là những bài giảng, trong đó có
nhiều bài được ngài giảng trong các cử hành đông đảo người tham dự ở Vatican và
trong những chuyến tông du nước ngoài. Đối với tôi, dường như nhiều bài giảng
là cả một tổng hòa sống động tư tưởng thần học, suy tư về mầu nhiệm được thể hiện
trong cử hành phụng vụ và về cuộc sống Kitô giáo và linh đạo phát sinh từ cuộc
sống đó, có thể nói, sự tổng hòa này đạt đến một trình độ rất cao và rất uyên
thâm. Có nhiều lúc, hầu như tự nhiên, tôi dùng từ “tuyệt vời” để nói về sự tổng
hòa ấy, một từ lẽ ra phải được dùng một cách dè sẻn và cẩn trọng, nhưng đối với
những trường hợp làm cho tinh thần được nâng cao thì có lẽ thích hợp. Ngay cả đến
hôm nay tôi vẫn còn ấn tượng, như trong quyển “Cuộc trò chuyện cuối cùng” có nhắc
đến, việc dọn bài giảng Chúa nhật cho “gia đình” tí hon ở đan viện Mater
Ecclesiae, đối với Đức Bênêđictô XVI, là kết quả của suốt tuần cầu nguyện và
suy niệm Lời Chúa.
Đi vào cụ thể mới thấy sự quan tâm và coi trọng
của Đức Ratzinger đối với phụng vụ, từ đầu cuộc đời làm tín hữu đến chặng cuối
đời hiện thời, sống như một đan sĩ “Bênêđictô-Biển Đức”, không bận tâm đến các
nghi lễ bề ngoài, mà thực sự thông phần vào mầu nhiệm của Chúa Giêsu đang ngự
giữa cộng đoàn của mình, gặp gỡ Chúa chịu đóng đinh và sống lại khi bẻ tấm bánh
Thánh Thể. Ngài sống đúng như vậy. Chẳng phải ngẫu nhiên khi ngài nhấn mạnh phải
đặt thánh giá ở giữa bàn thờ.
Và điều đó mang lại cho chúng ta bí quyết sâu xa
bên trong và xuyên suốt để đọc và hiểu những khía cạnh đặc trưng khác của giáo
huấn và tâm hồn Đức Ratzinger khi ngài cảm nhận giá trị của nghệ thuật, nhất là
của âm nhạc trong phụng vụ, và còn hơn thế nữa. Guerriero thật xác đáng khi
dành những trang đặc sắc viết về tất cả điều đó. Niềm quý trọng phụng vụ đi liền
với lòng yêu mến cái đẹp cũng thuộc về chiều sâu của dòng tư tưởng Ratzinger:
“Việc gặp gỡ cái đẹp có thể trở thành mũi tên bắn bị thương tâm hồn, và như thế,
mở mắt cho tâm hồn…” -Đức Hồng y Bộ trưởng (Ratzinger) khẳng định trong Thư gửi
Cuộc Gặp Gỡ Rimini 2002-. Bức thư nhắc lại định nghĩa trước đây về cái đẹp là
“vẻ rạng ngời của chân lý” -Veritatis Splendor[7].
Cũng trong thư này, Đức Ratzinger còn nêu: “Tôi vẫn cho rằng sự biện hộ đích thực
đối với đức Tin Kitô giáo, sự biểu lộ thuyết phục nhất về chân lý đức Tin chống
lại mọi phủ nhận, một phần nhờ các Thánh, còn lại là nhờ cái đẹp do đức Tin
sinh ra”.
Điều trên đây cứ như vọng lên khi được nghe các
bài giảng Thánh lễ của Đức Bênêđictô XVI.
* * *
Tôi muốn được kết thúc bài phát biểu chứng từ của
mình ở đây. Vẫn còn có thể nói lên rất nhiều điều như quyển sách tiểu sử đặc sắc
của Guerriero đã gợi lên cho chúng ta. Sẽ còn nhiều dịp khác, chẳng hạn từ nay
đến lễ mừng lần thứ 90 sinh nhật của Đức Bênêđictô cũng đã gần kề, hoặc sắp tới
sẽ phát hành nhiều tập trong bộ toàn tập Opera
Omnia bằng tiếng Ý, trong đó có tập về Công đồng hoặc về Thánh Bônaventura,
và còn tiếp.
Như tôi đã nói lúc đầu, quyển sách viết về tiểu
sử Đức Bênêđictô XVI là một đóng góp quan trọng, giúp độc giả có được một cái
nhìn bao quát và xuyên suốt về sự phong phú bao la của tư tưởng và đường hướng
Đức Bênêđictô XVI mang lại cho chúng ta.
Bản tiếng Ý: fondazioneratzinger.va
Bản tiếng Pháp: benoit-et-moi.fr
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 97 (Tháng 11 & 12 năm 2016)
[1] Linh mục Federico Lombardi, Dòng Tên, sinh ngày 29-08-1942,
tại Saluzzo, Piedmont (Italia), chịu chức linh mục năm 1972. Ngài từng đảm nhiệm
các chức vụ: Giám đốc Chương trình Đài Vatican Radio (1991-2005); Tổng Giám đốc
Trung tâm Truyền hình Vatican (2001-2013); Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh,
thường gọi là Phát ngôn viên Tòa Thánh (2006-2016). Từ tháng Tám 2016 (sau khi
mãn nhiệm Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh) đến nay là Giám đốc Quỹ Ratzinger tại
Vatican.
[2] Elio Guerriero, nhà thần học, nhà văn, sinh năm 1948, tại
Capriglia Irpina (Italia), nguyên giám đốc tạp chí thần học Communio, ấn bản tiếng
Y.
[3] Nguyên bản tiếng Đức: Benedikt XVI, Peter Seewald: Letzte Gespräche, NXB Droemer, Đức, 2016; Bản dịch tiếng Ý:
Benedetto XVI, Peter Seewald: Ultime
conversazioni, NXB Garzanti, 2016
[4] Bênêđictô XVI, Thư gửi
các Giám mục Giáo Hội Công Giáo về việc bãi bỏ vạ tuyệt thông đối với bốn giám
mục do Đức cha Lefebvre tấn phong, Tháng Ba 2009, Libreria Editrice
Vaticana
[5] X. Gl 5, 13-15: “Anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều
là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục
vụ lẫn nhau. Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là:
Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Nhưng nếu anh em cắn xé nhau, anh
em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau đấy!”
[6] Khóa hội thảo hằng năm diễn ra vào mùa hè tại trường Đại học
Salzburg. Hoạt động khoa học này đã có lịch sử 85 năm (từ mùa hè 1931), với mục
đích giới thiệu và bàn luận trong giới học thuật về các vấn đề mang tính nền tảng
và thời sự của thần học và các ngành khoa học xã hội. Đức nguyên Giáo hoàng
Bênêđictô XVI hồi còn là linh mục, giáo sư đại học, là một diễn giả có sức thu
hút lớn đối với cử tọa và được giới học thuật đặc biệt chú ý.
[7] Thông điệp của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, công bố ngày
6 tháng Tám 1993.