Rao
giảng Lời Chúa tại Việt
(1960-2010)
Hàng Giáo
Phẩm Việt
Thế rồi,
trải dài 4 năm qua các Khoá họp của Công đồng, trước khi bế mạc, Ðức Phaolô VI
cùng các Nghị phụ Công đồng đã long trọng công bố Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei
Verbum vào ngày 18-11-1965. Ðức Hồng Y Walter Kasper nhận định: “Tiếng sấm sét buổi ban đầu” nhường chỗ cho bầu khí hân hoan, an
bình, vui mừng và hy vọng, khi Công đồng lên tiếng khai mở Hiến chế Dei Verbum: “Trong niềm thành kính lắng nghe và tin tưởng công bố Lời Thiên Chúa,
Thánh Công đồng lặp lại lời Thánh Gioan: Chúng tôi loan truyền cho anh em sự
sống đời đời, đã có nơi Chúa Cha và đã hiện đến với chúng tôi: điều chúng tôi
đã thấy, đã nghe, chúng tôi loan truyền cho anh em, để anh em cũng được hiệp
nhất với chúng tôi và chúng tôi hiệp nhất với Chúa Cha và với Chúa Giêsu Kitô,
Con Ngài (1 Ga 1,2-3)” (Dei Verbum
religiose audiens et fidenter proclamans, Sacrosancta Synodus.) (MK 1). Lắng nghe với thái độ thành kính,
vì Lời Thiên Chúa là Lời hằng sống; tin tưởng công bố Lời Thiên Chúa, vì đây là
sứ điệp cứu độ.
Nếu ơn gọi
và sứ mạng của Hội Thánh là “lắng nghe
Lời Thiên Chúa trong niềm thành kính” và “tin tưởng công bố Lời Thiên Chúa”, thì ơn gọi và sứ mạng của Hội
Thánh Việt Nam cũng không thể khác. Cùng với Hội Thánh toàn cầu, là Dân Thiên
Chúa, Hội Thánh Việt
1. Hội Thánh Việt
Ðức Hồng Y
Carlo Maria Martini, SJ, nguyên Tổng Giám Mục Milano, nguyên Viện trưởng, Giáo
sư tại Giáo Hoàng Học Viện Kinh Thánh (Biblicum) ở Rôma, và là bậc thầy nổi
tiếng về Kinh Thánh trên thế giới, đã trích một nhận xét của Paul Claudel nói
về người tín hữu trong Hội Thánh cho đến đầu thế kỷ thứ XX: “Họ đã có một sự
tôn kính Kinh Thánh cho đến độ họ sống xa cách Lời Chúa”[4]; người Việt Nam
chúng ta thường gọi là thái độ “kính nhi viễn chi”. Lời nhận định này có vẻ
thái quá, nhưng thể hiện khá đúng thực trạng của người tín hữu Kitô, cách riêng
là hàng ngũ giáo dân. Ngay bên xã hội Tây Phương, một xã hội có gốc rễ là Kitô
giáo, thì cũng phải nhìn nhận rằng, một trong những rào cản là tình trạng mù
chữ của đại đa số dân chúng, mãi cho đến thế kỷ XVIII; thêm vào đó, thái độ của
thẩm quyền trong Giáo Hội không muốn cho người giáo dân đọc Kinh Thánh! Thái độ
này hình như phát xuất từ phản ứng chống lại Phong trào cải cách của Thệ phản,
cũng như chống lại một số trào lưu từ thời Trung Cổ là những phong trào khuyến
khích giáo dân tiếp xúc nhiều hơn với Kinh Thánh nhằm mục đích đẩy người giáo
dân thoát ly khỏi khung cảnh đời sống nề nếp của Giáo Hội! Thêm vào đó, một số
quyết định của Giáo quyền hạn chế giáo dân tiếp cận với Kinh Thánh như Công
đồng miền Tôlêđô năm 1229, trong thời gian Giáo Hội phải chiến đấu chống lại bè
rối Albigeois; hay như một số hạn chế khác tại các Giáo Hội ở Anh, ở Pháp, và
một số nơi khác. Vào năm 1559, Ðức Thánh Cha Phaolô IV, và vào năm 1564, Ðức
Thánh Cha Piô IV đã công bố danh sách liệt kê một số sách bị cấm lưu hành (Index), thì các ngài cũng cấm in ấn và
lưu giữ những sách Kinh Thánh được dịch ra tiếng bản xứ, ngoại trừ có phép đặc
biệt. Như vậy, hàng ngũ giáo dân thời bấy giờ chắc chắn không thể tiếp xúc với
Kinh Thánh trong ngôn ngữ địa phương. Thời gian ấy, chỉ có bản văn Kinh Thánh
bằng tiếng La-tinh (Bản Vulgata = Bản Phổ thông) được phép lưu hành mà thôi.
Ngay tại nước Italia, phải chờ đến năm 1700, mới có bản dịch Kinh Thánh ra
tiếng Ý của Antonio Martini để phổ biến cho người công giáo. Ðến năm 1757, tại
Italia, mới có phép của Giáo quyền để dịch bản La-tinh Vulgata ra tiếng bản xứ;
và phải được Giáo quyền chuẩn ấn (Imprimatur),
cùng phải kèm theo những ghi chú, giải thích cụ thể. Mãi đến đầu thế kỷ XX, tại
nước Italia, mới xuất hiện những bản dịch Kinh Thánh từ nguyên bản Do-thái,
Hy-lạp, do những người Công giáo thực hiện. Thế mà tại Việt Nam chúng ta, trước
khi Dei Verbum ra đời, đã có hai bản
dịch Kinh Thánh trọn bộ do các tác giả công giáo thực hiện; đó là bản dịch Kinh
Thánh của Cố Chính Linh, xuất bản năm 1913 và bản phỏng dịch Kinh Thánh của Cha
Gérard Gagnon CSsR, vào năm 1963. Ðấy cũng là những điểm son đáng ghi nhận.
Ở đây,
chúng ta còn phải gợi lên một sự kiện này - dầu không nói ra, nhưng vẫn ảnh
hưởng đến những sinh hoạt trong Giáo Hội cách chung trước Công đồng Vatican II
- đó là bầu khí và tâm lý lo sợ, dè dặt đối với các Phong trào cổ võ học Kinh
Thánh. Biết bao nhiêu học giả tiên phong trong lãnh vực này, đặc biệt từ khoảng
thời gian sau Ðệ nhất thế chiến 1914-1918; họ ước mong Kinh Thánh không phải
chỉ dành riêng cho hàng giáo sĩ hay những hạng ưu tú, mà phải được phổ biến
rộng rãi cho tất cả mọi thành phần Dân Chúa: “Lời Chúa phải được loan báo cho
những người nghèo hèn”. Họ muốn tạo điều kiện cho người tín hữu trực tiếp đọc
Lời Thiên Chúa được dịch ra từ các nguyên bản; họ ước mong người tín hữu có thể
cầu nguyện với quyển Kinh Thánh; họ muốn người tín hữu trở về nguồn, như thời
Giáo Hội sơ khai. Một trong những câu nói rất thời danh của Thánh Têrêxa Hài
Ðồng Giêsu như thúc đẩy và gợi nguồn cảm hứng cho nhiều học giả trong lãnh vực này.
Ngài nói: “Nếu tôi là linh mục, tôi sẽ học tiếng Do-thái và tiếng Hy-lạp, để có
thể đọc được Lời Thiên Chúa trong chính nguyên bản”.
2. Lời kinh, tinh hoa của Lời Chúa
Thế nhưng
tại Việt Nam, trước khi nói đến việc đọc trực tiếp các bản văn thánh, chúng ta
nên ghi nhận một hiện tượng đặc biệt đã giúp các Kitô hữu Việt Nam sống Lời
Chúa cách đơn giản, nhẹ nhàng mà sâu sắc.
Vào thời
gian đất nước chúng ta còn bị chia đôi thành hai quốc gia của những anh em thù
nghịch (thờt Trịnh-Nguyễn phân tranh), để
rồi rơi vào một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn khốc liệt, chính Lời Chúa
đã mang lại một an ủi lớn lao cho các tín hữu. Trong thực tế, Lời Chúa vẫn luôn
đóng vai trò nâng đỡ đời sống luân
lý và thiêng liêng của Hội Thánh tại Việt Nam, một trong những Hội Thánh bị thử
thách nhất do các cuộc bách hại đẫm máu và những giới hạn kỳ thị. Giáo dân Việt
Lời Chúa
đã được cô đọng lại và đi vào lòng người giáo dân Việt
3. Hội Thánh Việt
Công đồng
Vatican II, với cuộc canh tân phụng vụ và Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei Verbum, dưới làn hơi thổi mới của
Thánh Thần, đã gây ra một đà lao mới mẻ và một sinh lực lớn lao trong Hội Thánh
tại Việt Nam, khi được Mẹ Hội Thánh nhìn nhận là đã trưởng thành bằng cách
thiết lập Hàng giáo phẩm địa phương cho Hội Thánh tại Việt Nam vào năm 1960.
Trong Thư
mục vụ của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam năm 2005 với tựa đề “Sống Lời Chúa”, tại
số 8, nói về việc tăng cường vai trò ưu tiên của Kinh Thánh, các Ðức Giám Mục
của chúng ta đã nhận định: “Yêu mến Kinh
Thánh không chỉ thể hiện qua việc phổ biến sách Kinh Thánh, mà còn là siêng
năng đọc Lời Chúa trong đời sống và cho đời sống cụ thể của mình. Nói cách
khác, đọc Lời Chúa không những để hiểu về Chúa mà còn để tìm hướng đi cho cuộc
đời”. Với nhận định trên, các vị Chủ chăn cho thấy lòng “yêu mến Kinh Thánh”
là điểm son của người tín hữu chúng ta.
a) Phiên dịch và phổ biến bản văn Kinh
Thánh
Chính phát
xuất từ lòng yêu mến này, mà đã có những nỗ lực không nhỏ trong Giáo Hội Việt
Nỗ lực của
Nhóm Phiên dịch CGKPV trong việc phiên dịch và xuất bản, phổ biến Kinh Thánh
rất đáng được trân trọng. Nhóm đã hình thành vào năm 1971, nghĩa là 6 năm sau
khi Dei Verbum ra đời; và đã kiên trì
làm việc trong lãnh vực phiên dịch và chú thích toàn bộ Kinh Thánh cho tới nay,
liên tục 38 năm miệt mài với công trình phiên dịch. Một vài thành quả phổ biến
Kinh Thánh của Nhóm này tính cho đến đầu tháng 3 năm 2009 là đã dịch và xuất
bản các sách: Ngũ Thư; Lịch sử; Ngôn sứ; Giáo huấn; Bốn Sách Tin Mừng; Ðối
chiếu Bốn Sách Tin Mừng; Kinh Thánh trọn bộ có dẫn nhập và chú thích đơn giản;
Kinh Thánh trọn bộ cỡ lớn để trưng; Tân Ước có dẫn nhập và chú thích đơn giản;
Lời Chúa trong Thánh lễ; Lời Chúa cho mọi người với dẫn nhập và chú thích của
Bernard Hurault và Louis Hurault (Kinh Thánh trọn bộ và Tân Ước); Kể chuyện
Kinh Thánh cho trẻ em (6-9 tuổi) dịch từ bản văn của Pat Alexander; Kể chuyện
Kinh Thánh cho thiếu niên (10-15 tuổi) dịch từ bản của Pat Alexander; và trong
năm 2008, Nhóm xuất bản cuốn Tân Ước với dẫn nhập và chú thích có hiệu đính[8].
Trước năm
1975, tại miền Nam Việt
b) Học hỏi và chia sẻ Lời Chúa
Nhiều giáo
dân, nhất là 52.500 giáo lý viên rải rác tại mọi giáo xứ của đất nước, tạo
thành những nhóm học hỏi và chia sẻ Lời Chúa, và ngày càng quan tâm hơn đến
việc đào tạo giáo lý và thần học. Có những thủ bản ra đời như “Phương pháp Chia sẻ Phúc âm - Tài liệu huấn
luyện các linh hoạt viên nhóm chia sẻ” giúp đào tạo các linh hoạt viên nhóm
chia sẻ theo “phương pháp bảy bước”. Các nhóm chia sẻ Lời Chúa cũng được giúp
làm quen với “phương pháp Ðọc, Suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện” (= Lectio divina).
Ngoài các Ðại Chủng viện giáo phận vẫn cung cấp các giáo
trình tốt về Kinh Thánh cho các linh mục tương lai, Học viện Liên Dòng Phaolô
Nguyễn Văn Bình và Trung Tâm Mục Vụ TPHCM với Chương trình đào tạo giáo dân
cũng là những nơi phát hành các giáo
trình Kinh Thánh với nhiều trình độ, giúp cho anh chị em tu sĩ và giáo dân có
cơ hội hiểu rõ hơn bản văn cũng như tiếp thu được các phương pháp đọc Kinh Thánh. Sau 1975, Liên Tu Sĩ
TPHCM ra đời. Trong thời gian đầu, các bài suy niệm từ Lời Chúa do một số thành
viên trong Liên Tu Sĩ viết, đã là
một lương thực quý báu cho các linh mục và tu sĩ Dòng.
Các sách soạn thảo hoặc các bản dịch các bài giảng ngày
Chúa Nhật, thậm chí các bài gợi ý cho ngày trong tuần, vẫn đang là những sách
được phổ biến nhất nhắm đến các giáo sĩ và tu sĩ. Trong khi đó, các nhà thơ và
và nhạc sĩ công giáo cũng ra sức khai thác kho tàng giàu có phong phú vô tận
của Kinh Thánh. Dĩ nhiên, đôi khi những cảm xúc dâng trào đã đưa các nhạc sĩ và
thi sĩ đến những lời kết dệt có phần xa bản văn ; nhưng điều này vẫn chứng
tỏ là Kinh Thánh đang là nguồn cảm hứng dồi dào. Chúng ta đứng trước một hiện
tượng rất thuyết phục: không những “máu của các thánh tử đạo” mà cả Lời Chúa
được suy gẫm, được chia sẻ, được ngâm nga ca hát, được sống và được loan báo,
đang sản sinh ra các Kitô hữu mới và giúp dọn các tâm hồn biết bao người trẻ
thành miền đất tốt mà đón lấy hạt giống ơn gọi linh
mục và tu sĩ.
Ngoài ra, Kinh Thánh cũng được các Vị Mục tử, các Dòng Tu
nam, nữ và Ðại Chủng viện quan tâm rất nhiều, không những trong việc cử hành
Phụng vụ, giảng dạy, mà còn trong việc tổ chức nhiều lớp học, khoá học về Kinh
Thánh, Khoá Thường huấn cho các Linh mục trong các Giáo phận, trong các Hội
Dòng Tu sĩ.
c) Sống Lời Chúa
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận như điều các Ðức Giám Mục
đã nói trong lá Thư Mục vụ 2005: “Nhìn
chung, Kitô hữu Việt Nam còn chưa thực sự chú trọng đến việc đọc Kinh Thánh. Có
thể nói, chúng ta rất siêng năng đọc kinh, nhưng còn chưa chú trọng đến việc
đọc và suy niệm Lời Chúa. Kinh Thánh chưa có chỗ đứng xứng đáng trong các sinh
hoạt đạo đức, nhất là trong đời sống gia đình”. Chúng ta chân thành cám ơn
các Ðức Cha đã chỉ rõ cho thấy những gì chúng ta cần phải chú tâm hơn trong
việc tăng cường vai trò ưu tiên của Kinh Thánh trong các sinh hoạt đạo đức và
nhất là trong đời sống gia đình của người tín hữu Việt Nam. Chúng ta không biện
minh cho những giới hạn và thiếu sót của mình trong quá khứ, đối với thao thức
và lời dạy của Công đồng trong Hiến chế Dei
Verbum. Nhưng dầu sao, hoàn cảnh lịch sử của Giáo Hội Việt Nam 50 năm qua
quả có nhiều điều để nói. Một nửa Giáo Hội chúng ta trong suốt thời gian diễn ra
Công đồng, đã không có điều kiện khách quan để đón nhận những chỉ dẫn và soi
sáng của Công đồng, nói chi đến việc tiếp cận với Dei Verbum! Do hoàn cảnh, có thể nói, mọi nỗ lực chủ yếu là để giữ
đạo và tồn tại. Rồi, từ khi hai miền Giáo Hội hiệp nhất với nhau, cũng lại
những nỗ lực chủ yếu là để giữ đạo và tồn tại, kéo dài một thời gian khá lâu.
Có chăng một số thao thức, cố gắng và thực hiện trong những khả năng rất giới
hạn của mình, để có thể làm một cái gì đó trong việc phiên dịch, phổ biến Kinh
Thánh, tìm đọc và học hỏi, chia sẻ Lời Chúa, v.v. như vừa nêu ở trên. Do đó,
trong vòng 50 năm qua, không biết có nơi nào đã triển khai, chứ chưa dám nói
tới việc đào sâu Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei Verbum! Cũng chưa có những tổ chức cụ thể và có thẩm quyền
trong việc “aggiornamento” (cập nhật) các kiến thức từ các Hội nghị, phong trào
quốc tế rất phong phú của Giáo Hội toàn cầu, cũng như của các Học viện Kinh
Thánh, nhằm thúc đẩy việc học hỏi, đào sâu Lời Chúa. Chúng ta còn rất giới hạn
và chịu nhiều thiệt thòi trong lãnh vực này, chưa có tiếng nói đóng góp đúng
mức với Giáo Hội trong nước, nói chi đến các Giáo Hội trong khu vực, và Giáo
Hội toàn cầu.
d) Lời chứng về việc
Hội Thánh Việt Nam sống Lời Chúa tại THÐGM Thế giới XII
Một hồng ân hiếm có cho Giáo Hội Việt Nam chúng ta: Ðức
Cha Giuse Võ Ðức Minh, Giám mục phó Giáo phận Nha Trang, và Ðức Cha Giuse
Nguyễn Chí Linh, Giám mục Giáo phận Thanh Hoá là những đại biểu của Giáo Hội
Việt Nam, cùng với Cha Vinhsơn Nguyễn Văn Bản (đã được bổ nhiệm làm Giám mục Chánh
toà Ban Mê Thuột) được chính thức tham dự Thượng Hội Ðồng giám mục thế giới lần
thứ XII vừa qua tại Rôma, họp từ ngày 5 đến 26 tháng 10 năm 2008. Khoá họp đã
quy tụ 253 Nghị phụ, được tuyển chọn từ các đại biểu của Toà Thánh, của các Hội
Ðồng Giám Mục thế giới, các đại diện Bề trên thượng cấp các Hội Dòng, v.v., quy
tụ quanh Ðức Giáo Hoàng để bàn về đề tài “Lời Chúa trong đời sống và sứ vụ của
Hội Thánh”. Hai Ðức Cha Giuse và Cha Vinhsơn của chúng ta đã tham gia tích cực
trong các phiên họp khoáng đại cũng như những buổi thảo luận ở tổ; các ngài đã
có những đóng góp ý kiến, những bài phát biểu thay mặt cho Giáo Hội Việt Nam về
những đề tài liên quan đến “Lời Chúa là nguồn an ủi, là sức mạnh, là ánh sáng,
là nguồn hy vọng cho đời sống và sứ vụ của Dân Chúa tại Việt Nam”. Ðặc biệt, Ðức Cha Giuse Võ Ðức Minh
còn được Ban tổ chức Thượng Hội Ðồng mời chia sẻ Lời Chúa trong bài giảng ngày
7-10-2008 liền sau bài giảng của Ðức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI ngày 6-10-2008.
4. Một chút lịch sử:
Hội đồng Giám mục Việt Nam và trách nhiệm phổ biến Kinh Thánh
Một điều hiển nhiên, đó là các vị chủ chăn trong Hội
Thánh Việt Nam rất chú tâm đến việc giúp cho con cái đọc và hiểu được Kinh
Thánh. Do đó, trong thời gian vừa qua, làm được gì là Hội Ðồng Giám Mục sẵn
sàng làm để Lời Chúa ngày càng được phổ biến rộng rãi hơn.
a) Quan hệ với Liên
Hiệp Kinh Thánh Công Giáo (LHKTCG) trước 2002
Một trong những cơ quan mà chúng ta cần tháp nhập vào, đó
là Liên Hiệp Kinh Thánh Công Giáo (Catholic Biblical Federation “CBF”), vì cơ
quan này hỗ trợ chiều hướng mục vụ Kinh Thánh, giúp các thành viên trên thế
giới phổ biến Lời Chúa có phương pháp. Vào ngày 28/11/1995, LHKTCG đã gửi Chứng chỉ công nhận HÐGMVN là thành viên
chính thức của LHKTCG; Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ là thành viên liên kết. Lúc đầu, Ðức Cha
Phêrô Nguyễn Văn Nho, Giám Mục Phó Nha Trang, là người liên lạc (contact
person) với LHKTCG. Sau này, sau khi Ðức Cha Phêrô qua đời, cha Giuse Nguyễn
Công Ðoan, SJ, thay thế ngài trong nhiệm vụ liên lạc với LHKTCG.
Vào năm 2002, Ðức Cha Phaolô Bùi Văn Ðọc và cha Giuse
Nguyễn Công Ðoan, SJ, đã tham dự Ðại Hội
LHKTCG lần IV tại Liban từ 03-12/9, với chủ đề: “Lời Chúa: một phúc lành
cho mọi dân tộc” - Mục vụ Kinh Thánh trong một thế giới đa dạng.
b) Quan hệ với Liên
Hiệp Kinh Thánh Công Giáo Ðông Nam Á
Là thành viên của LHKTCG thế giới, đương nhiên chúng ta
cũng sinh họat với LHKTCG Ðông Nam Á. Cụ thể là:
Ngày 14-18/2/2005, Ðại
Hội Kinh Thánh châu Á và châu Đại Dương lần IV, tại Tagatay City,
Philippines. Chủ đề: Lời Chúa: niềm hy vọng sống động và hoà bình bền vững. Ðại
diện HÐGMVN đi tham dự là ÐC Phaolô Nguyễn Văn Hoà, ÐC Phaolô Bùi Văn Ðọc và
cha PX Vũ Phan Long, OFM; đại diện Nhóm Phiên
dịch CGKPV là cha Giuse Trần Hoà Hưng, SDB.
Ngày 19-21/2/2005, Hội
Thảo ÐNA về việc Tông đồ Kinh Thánh lần IV, cũng tại địa điểm trên. Chủ đề:
Ðáp trả các thách đố về Hoà bình trong thế giới hiện đại. Cha PX Vũ Phan Long
và cha Giuse Trần Hoà Hưng, SDB, tham dự.
c) Sinh hoạt của Tổ
Mục vụ Kinh Thánh (MVKT) 2002 và Ủy Ban Kinh Thánh(UBKT)
Trong kỳ Ðại Hội 2002, HÐGMVN đã thành lập Ủy Ban Giáo lý
Ðức tin trực thuộc HÐGMVN, chọn Ðức Cha Phaolô Bùi Văn Ðọc làm Chủ tịch. Ngày
21/6/2002, UBGLÐT, với Ðức Cha Chủ tịch, đã có buổi họp đầu tiên để xác định
phương hướng.
Ngày 12/12/2002, trong lần họp tiếp theo, UBGLÐT đã thành
lập Tổ MVKT và đề nghị cha FX Vũ Phan
Long, OFM, làm tổ trưởng, cha Phêrô Nguyễn Văn Võ (ÐCV Giuse TpHCM) làm phó.
Cha Ðoan SJ đã đi sang Rôma để làm công tác của Nhà Dòng, nay cha FX Long thay
mặt HÐGMVN để liên lạc với LHKTCG. Kỳ họp này cũng xác định trách nhiệm của Tổ
MVKT: Nghiên cứu để có thể trình bày Lời Chúa dưới nhiều góc cạnh khác nhau
trong lãnh vực mục vụ. Vào lúc này, UB lưu ý: Dùng bản dịch Kinh Thánh nào cũng
được, vì HÐGMVN chưa có bản dịch chính thức; chỉ yêu cầu dùng Bản dịch được
HÐGMVN phê chuẩn để đọc trong Phụng vụ (lúc này chưa có).
Ngày 30/9/2003, Ðức Cha Chủ tịch UBGLÐT gặp các anh chị
em làm công việc phổ biến Lời Chúa, để thảo luận về các lãnh vực mà Tổ MVKT có
thể dấn thân vào: nói chung, Tổ cần suy nghĩ để vận dụng mọi phương tiện có thể
(sách vở, website, phim ảnh) để phổ biến Lời Chúa.
Ngày 15-16/3/2006, Tổ MVKT phối hợp với Học viện Mục Vụ
của Giáo phận TpHCM tổ chức hai ngày sinh hoạt về MVKT với chủ đề: “Lời Chúa
với Dân Chúa”. Ðức Cha Chủ tịch HÐGMVN, Ðức
Cha Chủ tịch UBGLÐT, Ðức Cha Giuse, Giám mục phó Nha Trang, một số Ðức Cha, và đông đảo đại diện các nhóm
trẻ các giáo phận về tham dự. Có các bài thuyết trình và các giờ thảo luận tổ.
Hai ngày sinh hoạt kết thúc bằng thánh lễ “sai đi” tối 16/3/2006.
Ngày 30/9/2006, một nhóm anh chị em đã gặp nhau để trao
đổi về những việc có thể làm. Ngày 04/11/2006, anh chị em của Tổ gặp nhau để phân công viết bài về Tin
Mừng Luca trong Năm sống Thư Mục vụ của HÐGMVN, “Sống đạo hôm nay”. Anh chị em
đã viết được mấy bài đầu; sau đó, một phần vì anh chị em bận quá nhiều việc,
phần vì có Ðức Cha chủ tịch mới, nên muốn chờ xem ngài phác thảo ra chương
trình sinh hoạt thế nào, nên đã ngưng viết.
Ngày 03/12/2006, trang web của Tổ MVKT được chính thức
đưa vào hoạt động: www.kinhthanhvn.org. Các bài
suy niệm Lời Chúa, các gợi ý bài giảng, một số vấn đề Kinh Thánh được đưa lên
trên trang này.
Sau Hội nghị HÐGMVN tháng 9/2006, Ðức Cha Giuse Võ Ðức
Minh được bổ nhiệm làm Chủ tịch Tiểu Ban MVKT (hiểu là “Tổ” MVKT lâu nay được
trở thành Tiểu Ban Mục Vụ Kinh Thánh, ở trong UBGLÐT.
Tại phiên họp Ban Thường Vụ (mở rộng) của HÐGMVN vào
tháng 8-2007, Ðức Cha Phaolô Bùi Văn Ðọc, Chủ tịch UBGLÐT và Ðức Cha Giuse Võ
Ðức Minh, Chủ tịch Tiểu Ban Mục vụ Kinh Thánh, đề nghị tách Tiểu Ban Mục vụ
Kinh Thánh ra khỏi UBGLÐT và thành lập Ủy Ban Kinh Thánh để UB mới này vừa có
thể đẩy mạnh việc học hỏi, nghiên cứu vừa phổ biến Lời Chúa rộng rãi hơn. UB
Kinh Thánh đang vừa quy tụ các chuyên viên Kinh Thánh và những anh chị em yêu
thích Lời Chúa lại để cộng tác với nhau mà phổ biến Lời Chúa vừa tận dụng các
phương tiện truyền thông mà đưa Lời Chúa đến mọi nơi và mọi tầng lớp Dân Chúa.
5. Ðịnh hướng cho
tương lai
(1) Giúp Dân Chúa tôn
kính Lời Chúa như Mình Thánh Chúa
Trong chương VI của Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei Verbum, Công đồng Vatican II mở rộng
kho tàng Lời Chúa cho mọi sinh hoạt của Hội Thánh, cũng như cho mọi thành phần
Dân Chúa trong Hội Thánh. Với tựa đề “Kinh Thánh trong đời sống Giáo Hội”, ở số
21 của Dei Verbum, các Nghị phụ đã
viết như sau: “Giáo Hội luôn tôn kính
Kinh Thánh như chính Thân thể Chúa, nhất là trong Phụng vụ Thánh, Giáo Hội
không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình
Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu. Cùng với Thánh Truyền, Kinh Thánh đã và
đang được Giáo Hội xem như quy luật tối cao hướng dẫn đức tin, được Thiên Chúa
linh ứng và đã được ghi chép một lần cho muôn đời, Kinh Thánh phân phát cách
bất di bất dịch lời của chính Chúa và làm vang dội tiếng nói của Chúa Thánh
Thần qua các Ngôn Sứ cùng các Tông Ðồ. Bởi vậy, mọi lời giảng dạy trong Giáo
Hội cũng như chính Ðạo thánh Chúa Kitô phải được Kinh Thánh nuôi dưỡng và hướng
dẫn. Thực thế, trong các Sách thánh, Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu
mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ. Lời Chúa còn có một sức mạnh và
quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con
cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và
trường cửu cho con cái Giáo Hội. Bởi thế, lời nói sau đây thật xứng hợp cho
Kinh Thánh: “Thực vậy, Lời Thiên Chúa
sống động và linh nghiệm” (Dt 4, 12),
“có khả năng gây dựng và ban gia tài cho mọi người đã được thánh hoá” (Cv
20, 32; 1 Tx 2, 13)”. Thật là kỳ diệu, khi Công đồng quả quyết: “Giáo Hội luôn tôn kính Kinh Thánh như chính
Thân Thể của Chúa”. Tưởng không có lời tuyên xưng nào long trọng và cao quý
hơn lời này mà Công đồng dành cho Kinh Thánh. Từ lời tuyên xưng này mà nẩy sinh
ra trong lòng Giáo Hội từ ngữ “bàn tiệc Lời Chúa” bên cạnh “bàn tiệc Thánh Thể”.
Nhà thần học Lawrence Cunningham, giáo sư Thần học tại
Ðại học Notre Dame, USA, trong hội nghị với các Ðức Giám Mục Hoa Kỳ, được tổ
chức tháng 6 năm 2005, tại Ðại học Notre Dame (South Bend, Ind.), nhằm đánh dấu
kỷ niệm 40 năm Hiến chế Dei Verbum,
đã có một bài thuyết trình thật đặc sắc[9]. Ông nói: “Ðiều gây ấn tượng chớ
không làm ngạc nhiên, là chương VI của Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei Verbum,
thường sử dụng những hình ảnh của ăn và
dinh dưỡng khi nói về Kinh Thánh”.
Từ xưa, trong Giáo Hội, chúng ta đã quen với Mình
Thánh Chúa Giêsu như là lương thực nuôi dưỡng người tín hữu. Nay, Công đồng lại
viết: “Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ
bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu” (ex mensa tam verbi Dei quam Corporis Christi panem vitae). Làm sao
Lời Chúa trở nên “bánh ban sự sống”, trở nên lương thực để nuôi dưỡng Dân Chúa?
Công đồng chỉ rõ cho các tín hữu biết, qua kinh nghiệm ngàn đời trong Hội
Thánh, khi chuyên cần lắng nghe lời rao giảng trong Hội Thánh đã được Kinh
Thánh soi sáng và nuôi dưỡng (nutriatur),
thì Lời Chúa trở nên lương thực cho chính bản thân của mình; khi đó, Lời Chúa
không những là của ăn nuôi dưỡng linh hồn (animae
cibus), mà còn là nguồn nước tinh sạch cho đời sống thiêng liêng (vitae spriritualis fons purus). Hội
Thánh, trong tư cách là Hiền Thê của Ngôi Lời nhập thể, luôn thụ giáo với Chúa
Thánh Thần, để hiểu biết ngày càng sâu rộng hơn về Kinh Thánh, mà không ngừng
thi hành sứ mạng của người Mẹ hiền “lấy Lời Chúa nuôi dưỡng (pascat) con cái mình”.
Ðây chính là Ðề
nghị 7 THÐGMTG XII trình lên Ðức giáo hoàng: “Lời Chúa trở thành xác thịt
bí tích trong biến cố Thánh Thể và đưa Kinh Thánh tới chỗ hoàn tất. Thánh Thể
là nguyên lý giải thích của Kinh Thánh, cũng như Kinh Thánh soi sáng và giải
thích mầu nhiệm Thánh Thể. Trong chiều hướng
này, các Nghị phụ ước mong rằng một suy tư thần học sẽ được cổ võ về phương
diện bí tích của Lời Chúa. Nếu không có sự nhận biết sự hiện diện thực hữu của
Chúa trong Thánh Thể, sự hiểu biết về Kinh Thánh vẫn chưa được hoàn tất”.
(2) Giúp
Dân Chúa gặp được Chúa Giêsu Ngôi Lời, để đi đến những thay đổi đời sống
Cần phải
giúp cho giáo dân gặp được chính Ðức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa, trong Kinh
Thánh, chứ không chỉ đọc Kinh Thánh như những lời kỷ niệm vô hồn (Ðề nghị 9). Như vậy phải giúp họ cầu
nguyện bằng Lời Chúa (Ðề nghị 22).
Cũng cần phải giúp người tín hữu gặp được Lời Chúa như thế trong Phụng vụ
(Thánh Thể và Các Giờ kinh: Ðề nghị 14).
Khi đã gặp được Ðức Giêsu là sức mạnh giao hoà và hoán cải Thiên Chúa gửi đến
cho nhân loại, người tín hữu sẽ thay đổi đời sống: “Trong những thời gian xung
đột đủ loại và căng thẳng giữa các tôn giáo, trung thành với công trình hoà
giải Thiên Chúa đã thực hiện nơi Ðức Giêsu, người công giáo dấn thân vào việc
cống hiến những tấm gương về hoà giải, bằng cách tìm cách chia sẻ những giá trị
nhân bản, luân lý và tôn giáo như nhau trong các tương quan của họ với Thiên
Chúa và với người khác. Họ tìm cách xây dựng một xã hội công bình và hoà bình”.
Như thế họ chứng tỏ được rằng Lời Chúa đã thật sự đi sâu vào đời sống họ (Ðề nghị 8).
(3) Nhấn
mạnh việc chuyên cần đọc và học hỏi Kinh Thánh
Ðể “Lời Chúa trở
nên đèn rọi bước chân, ánh sáng cho nẻo đường đi” (Tv 119, 105) của người
tín hữu, Công đồng đã khuyên nhủ mọi tín hữu chuyên cần và siêng năng đọc Lời Chúa: “Vì thế, tất cả các giáo sĩ, trước hết là các linh mục của Chúa Kitô và
những người có bổn phận phục vụ Lời Chúa, như các Phó tế và những người dạy
giáo lý, phải gắn bó với Kinh Thánh nhờ việc chăm đọc và ân cần học hỏi, để khi
họ truyền đạt kho tàng bao la của Lời Chúa, nhất là trong Phụng vụ thánh, cho
các giáo hữu được ủy thác cho họ, không ai trong họ sẽ trở thành “kẻ huênh
hoang rao giảng Lời Thiên Chúa ngoài môi miệng bởi không lắng nghe Lời Thiên
Chúa trong lòng”. Thánh Công Đồng cũng tha thiết và đặc biệt khuyến khích mọi
Kitô hữu, cách riêng các tu sĩ, hãy năng đọc Kinh Thánh để học biết “khoa học
siêu việt của Chúa Kitô” (Pl 3, 8). Vì “không
biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô”. Việc năng đọc Kinh Thánh, trong truyền thống ngàn đời của Giáo Hội - trước
kia đặc biệt dành riêng cho các Ðan viện - được gọi là Lectio divina (việc đọc sách Kinh Thánh). Ðức Hồng Y Carlo Maria
Martini, SJ, qua kinh nghiệm bản thân là nhà nghiên cứu, là bậc thầy nổi tiếng
về Kinh Thánh và là mục tử sáng chói ở Giáo phận Milano trong nhiều thập kỷ vừa
qua, chia sẻ cho chúng ta phương pháp của ngài về việc đọc sách thánh cho hữu
ích qua 3 quá trình: lectio, meditatio, contemplatio (đọc, suy gẫm, chiêm
niệm). Ðây là Ðề nghị 9 của THÐGM
XII.
Song song với việc chuyên đọc và học hỏi Kinh Thánh
của người tín hữu, cần có sự trợ giúp của các mục tử trong việc đào tạo Kinh
Thánh cho người giáo dân. Ðề nghị 33 của
THÐGM XII nói rằng: “Rất nên ao ước là trong mỗi miền văn hoá được thiết lập
những trung tâm đào tạo Lời Chúa cho các giáo dân và các nhà thừa sai, tại đó,
người ta học để hiểu biết, để sống và loan báo Lời Chúa. Ngoài ra, tùy theo các
nhu cầu khác nhau, phải thiết lập các học viện chuyên môn về nghiên cứu Kinh
Thánh cho các nhà chú giải, để họ có một sự hiểu biết thần học vững chắc và họ
nhạy cảm với các bối cảnh của sứ mạng của họ. Ðiều này cũng có thể thực hiện
được bằng cách cứu xét lại hoặc củng cố các cơ cấu hiện có, như các chủng viện
hoặc các phân khoa. Cuối cùng, cần phải cung cấp một nền đào tạo tương hợp về
các ngôn ngữ Kinh Thánh, cho những người sẽ dịch Kinh Thánh ra các ngôn ngữ
hiện đại khác nhau”.
(4)
Cung cấp những bản dịch tốt bằng ngôn ngữ bản xứ
Thật vậy, Công đồng đã nêu ra một nguyên lý vững vàng:
“Mọi lời giảng dạy trong Giáo Hội cũng
như chính Ðạo thánh Chúa Kitô phải được Kinh Thánh nuôi dưỡng và hướng dẫn” (MK 21). Chính vì thế, Công đồng long
trọng tuyên bố: “Phải mở rộng lối vào
Kinh Thánh cho các Kitô hữu” (MK
22). Do đó, cần tạo điều kiện cho các tín hữu tiếp cận với Lời Chúa trong Kinh
Thánh, lý tưởng nhất là trong chính nguyên bản, được viết bằng tiếng Do-thái và
A-ram (bộ sách Cựu Ước) và bằng tiếng Hy-lạp (bộ sách Tân Ước); trên thực tế,
cần tạo điều kiện để có những bản phiên
dịch tốt, có chất lượng ra tiếng bản xứ, đặc biệt dịch từ nguyên bản. Giải
thích điều này, chính Công đồng đã nói rõ: “Chính
vì thế mà từ buổi đầu, Giáo Hội đã công nhận như của riêng mình bản dịch Cựu
Ước bằng tiếng Hy-lạp, một bản văn rất cổ và được gọi là bản Bảy Mươi. Ngoài ra
Giáo Hội luôn coi trọng các bản dịch của Ðông Phương hay các bản dịch latinh,
nhất là bản thường gọi là bản “Phổ thông”. Vì phải đem Lời Chúa đến cho mọi thời đại, Giáo Hội như một người mẹ ân
cần lo liệu cho các sách thánh được dịch ra các thứ tiếng cách thích hợp và
đúng đắn, đặc biệt dịch từ nguyên bản. Mọi Kitô hữu có thể sử dụng những bản
dịch được thực hiện chung với cả những anh em ly khai trong trường hợp thuận
tiện và được Giáo quyền chấp thuận” (MK
22). Dịch Kinh Thánh ra tiếng bản xứ, mới chỉ là bước khởi đầu, lối vào Kinh
Thánh cho các Kitô hữu còn cần phải có các
môn học chuyên về Kinh Thánh, thường được gọi là dẫn nhập vào Kinh Thánh,
chú giải Kinh Thánh, v.v. Học Viện Kinh Thánh Giáo Hoàng ở Rôma đã được Ðức
Thánh Cha Piô X thiết lập vào năm 1909, mục đích đào tạo những chuyên viên về
Kinh Thánh trong Hội Thánh; rồi nhiều Phân khoa, Học viện về Kinh Thánh cũng
được thiết lập tại Giêrusalem cũng như tại một số nơi khác. Tất cả những Học
viện và Phân Khoa này thực hiện quyết tâm của Giáo Hội trong tư cách là “Hiền Thê của Ngôi Lời nhập thể, được Chúa
Thánh Thần dạy dỗ, hằng cố gắng hiểu biết Kinh Thánh ngày càng sâu rộng hơn,
hầu không ngừng lấy Lời Chúa nuôi dưỡng con cái mình. Do đó, Giáo Hội có lý khi
khuyến khích việc học hỏi các Thánh Giáo Phụ Ðông Phương và Tây Phương cũng như
Phụng vụ thánh. Thánh Công đồng khuyến khích con cái Giáo Hội đang chuyên cần
học hỏi những khoa học Kinh Thánh, hãy tiếp tục theo đuổi công trình đã khởi sự
cách tốt đẹp với những năng lực ngày được đổi mới, và bằng tất cả hăng say hợp
với cảm thức của Giáo Hội” (MK
23). Ngoài ra, Công đồng cũng lập lại điều mà Ðức Thánh Cha Lêô XIII, trong
Thông điệp Providentissimus Deus đã
nói “Kinh Thánh là Linh hồn của Khoa Thần
học thánh”; vì Kinh Thánh chứa đựng Lời Chúa và vì được linh hứng, nên thực
sự là Lời Chúa. Do đó, “Khoa Thần học
thánh dựa trên Kinh Thánh và Thánh Truyền như dựa vào một nền tảng vĩnh cửu.
Trên nền tảng này, thần học được củng cố, trở nên vững chắc và được trẻ trung
mãi, trong khi tìm kiếm, dưới ánh sáng đức tin, tất cả chân lý tiềm ẩn trong
Mầu nhiệm Chúa Kitô” (MK 24).
Chính trong buổi tiếp kiến các đại biểu tham dự Khoá hội nghị về Kinh Thánh vừa
qua ở Rôma, Ðức Thánh Cha cũng có một nhận định tương tự: “Lời Chúa không già cỗi bao giờ; vì thế, Giáo Hội cần được đổi mới không
ngừng”. Công đồng cũng không quên nhắc nhở những ai thi hành “thừa tác vụ Lời Chúa - nghĩa là việc rao
giảng mục vụ, dạy giáo lý và toàn thể giáo huấn Kitô giáo, trong đó bài giảng
phục vụ phải chiếm một chỗ quan trọng - phải được nuôi dưỡng lành mạnh và gia
tăng sinh lực cách thánh thiện nhờ lời Kinh Thánh” (MK 24).
(5) Trau
dồi bài giảng, bằng cách học hỏi Lời Chúa và cầu nguyện
Muốn cho Lời Chúa đến được với các tín hữu trong tình
trạng tốt nhất, chúng ta không thể nào không nghĩ đến bài giảng (homélie). Có biết bao thừa tác viên đã
nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của các tín hữu bằng Lời Chúa được trình bày
sống động, phong phú, mà luôn tôn trọng được bản chất của Lời. Nhưng cũng không
thiếu thừa viên đã để cho các công việc khác lấn chiếm, nên việc giảng Lời Chúa trong thánh lễ đã trở thành một việc chiếu lệ.
THÐGM XII đã lưu ý là các thừa tác viên phải hiện tại hóa
Lời Chúa trong bài giảng và đề nghị cho soạn một “Cẩm nang về bài diễn giảng”.
Lời Chúa được hiện tại hoá đưa người tín hữu đến mầu
nhiệm được cử hành, mời ra đi truyền giáo và chia sẻ niềm vui và những
đau đớn, các hy vọng và các nỗi sợ hãi của các tín hữu (Ðề nghị 15). THÐGM đề nghị là các vị giảng thuyết (giám mục, linh
mục, phó tế) phải dọn lòng trong cầu nguyện, để cho các ngài rao giảng cách xác
tín và say mê. Các ngài phải đặt ra cho mình ba câu hỏi: (1) Các bài đọc nói
gì? (2) Các bài đọc nói gì với riêng tôi ? (3) Tôi phải nói gì với cộng đoàn,
trong tình trạng cụ thể của cộng đoàn này?
Vị giảng thuyết trước hết phải để cho Lời Chúa mà mình
loan báo thôi thúc, cật vấn mình. Bài giảng phải được nuôi dưỡng bằng giáo lý
và truyền đạt giáo huấn của Hội Thánh để củng cố đức tin, kêu gọi hoán cải
trong khung cảnh cuộc cử hành và chuẩn bị đi vào cuộc hoàn tất mầu nhiệm Vượt
Qua trong cử hành Thánh Thể. Chúng ta chờ đợi đề nghị của các Nghị phụ nên
thành sự: làm một quyển Cẩm nang về bài giảng để trình bày các nguyên tắc của
thuyết giảng và nghệ thuật truyền thông, nhất là nội dung các chủ đề Kinh Thánh
thường có trong các Sách Bài đọc được sử dụng trong Phụng vụ.
(6) Quan
tâm đưa Lời Chúa hội nhập vào trong môi trường văn hoá
Chúng ta không thể nào phủ nhận yếu tố hội nhập văn hoá
trong công việc phổ biến Lời Chúa.
Mặc khải được thành hình nhờ kín múc trong các nền văn
hoá khác nhau của loài người những giá trị trung thực khả dĩ diễn tả chân lý,
mà để cứu độ chúng ta, Thiên Chúa đã thông tri cho loài người (x. MK 11). Quả thế, Lời Chúa, trong tư cách
là Mặc khải, đã nhấn chìm vào trong các nền văn hoá sự hiểu biết chân lý, mà
nếu làm cách khác, chân lý này hẳn là sẽ không được biết đến và đã tạo ra sự
tiến bộ và phát triển về văn hoá. Lệnh truyền Chúa đã ban cho Hội Thánh là loan
báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo (x. Mc 16,15) hàm chứa việc gặp gỡ của Lời
Chúa với tất cả các dân tộc trên trái đất và nền văn hoá của họ. Ðiều này giả
thiết là cũng có một tiến trình hội nhập văn hoá của Lời Chúa, đã xảy ra trong
Mặc khải.
Như thế, Lời Chúa phải thấm nhập vào mọi môi trường
sao cho văn hoá sản sinh ra những cách diễn tả độc đáo sự sống, phụng vụ, tư
tưởng Kitô giáo. Những đức tính của mọi thời như được Lời Chúa làm cho phong
phú từ bên trong, được củng cố, bổ túc, và tái tạo trong Chúa Kitô (MV 58), và bằng cách đó gợi ra những
cách thức mới diễn tả đời sống Kitô hữu.
Nhằm một việc hội nhập văn hoá trung thực sứ điệp Tin
Mừng, ta phải đảm bảo việc đào tạo các nhà truyền giáo bằng những phương tiện
thích hợp để hiểu biết tận chiều sâu môi trường sống, hoàn cảnh văn hoá xã hội,
sao cho họ có thể tháp nhập vào trong môi trường, trong ngôn ngữ cũng như trong
các nền văn hoá bản địa. Trách nhiệm đầu tiên của Hội Thánh địa phương là làm
cho sứ điệp Tin Mừng có thể hội nhập văn hoá trung thực, trong khi dĩ nhiên vẫn
lưu ý đến nguy cơ chiết trung. Phẩm chất của công việc hội nhập văn hoá tùy
thuộc mức độ chín chắn của cộng đoàn có nhiệm vụ loan báo Tin Mừng.
Kết luận
1. Lời
Chúa, nguồn Hy vọng
Ðể kết thúc, chúng ta nên nhìn lại quá khứ một chút,
để rồi nhìn về tương lai với niềm hy vọng: sau Năm Thánh Mẫu của Hội Thánh toàn
cầu năm 1985 và sau lễ phong hiển thánh 117 vị Tử đạo Việt Nam vào năm 1988,
người ta ghi nhận có một hiện tượng bất ngờ: một con số đông các dân tộc thiểu
số rải rác trên các vùng đồi núi của đất nước chúng ta, đã hàng loạt trở lại
đạo Công giáo hoặc các giáo phái Tin Mừng và Tin lành: người Mường, người H’mong...
tại miền Bắc ; người Bana, Sêđang, Giarai... tại giáo phận Kontum; người K’Ho,
người Churu trong giáo phận Ðà Lạt. Bí mật của hiện tượng này, chính là sức thu hút phi thường của Lời Chúa.
Nhiều người mới trở lại với đức tin công giáo đã tuyên bố rằng họ vẫn nghe đều
đặn các chương trình phát thanh hằng ngày của Ðài Phát thanh ở Manila, phổ biến
sứ điệp Kinh Thánh và Tin Mừng. Chính các hoàn cảnh ngẫu nhiên đã dẫn đưa họ
đến với Hội Thánh Công giáo. Có những người đã nghe các bài suy niệm Kinh Thánh
được Ðài Phát thánh Chân lý Á châu, cũng ở tại Manila, phổ biến và đã trực tiếp
tìm ra nẻo đường về với Hội Thánh Công giáo. Các giáo phận Kontum, Ban Mê
Thuột, Ðà Lạt và Nha Trang, tại đó, các dân tộc thiểu số chiếm một tỷ lệ quan
trọng về dân số, đã lên cả một chương trình truyền giáo có tổ chức chặt chẽ,
năng động và hữu hiệu. Một trong các mục tiêu ưu tiên là dịch Kinh Thánh ra
ngôn ngữ địa phương. Cho tới nay, người ta đã xuất bản Tân Ước bằng tiếng H’mong
tại Hưng Hoá; bằng tiếng Bana, tiếng Sêđang, tiếng Giarai tại Kontum; tiếng K’Ho
tại Ðà Lạt; tiếng Raglai tại Nha Trang. Lời Chúa mở âm thầm nhưng hữu hiệu con
đường hy vọng cho các dân tộc thiểu số đang ở giữa những dân tộc nghèo nhất của
đất nước. Niềm vui và sự hãnh diện được lắng nghe Lời Chúa trực tiếp bằng tiếng
mẹ đẻ và đáp trả Lời Chúa bằng những bài ca và những lời kinh đã được thích ứng
với tinh thần của nền văn hoá của họ củng cố thêm chân tính văn hoá của họ và
góp phần thật sự vào việc phát triển họ toàn diện. Những người Việt, còn được
gọi là người “Kinh”, chiếm 85% dân số của toàn đất nước, cũng đã sống một kinh
nghiệm tương tự khi trở thành Kitô hữu.
2.
Huyền nhiệm Thánh Giá
Lịch sử Hội Thánh tại Việt Nam đã cho thấy các hoa
trái phong phú tuyệt vời của huyền nhiệm
Thánh Giá được đã được sống và được chuyển cho Dân Kitô hữu bởi vị giám mục
đầu tiên, Ðức Cha Pierre Lambert de la Motte. Lời cứu chuộc của Thiên Chúa,
diễn tả tình yêu cứu chuộc lớn lao nhất của Ngài (x. Ga 3,16), đạt tới đỉnh cao
trong mầu nhiệm Thánh Giá, nguồn an ủi, sức mạnh và khôn ngoan (x. 1 Cr
1,22-25). Tình yêu đối với Thánh Giá đã được tỏ ra mạnh mẽ và gắn bó trong lòng
của các Thánh Tử đạo Việt Nam, đến nỗi các ngài đã sẵn sàng chết vì tình yêu
đối với Ðức Chúa chịu đóng đinh của các ngài hơn là chà đạp dấu chỉ ơn Cứu
chuộc dưới chân. Lời cứu chuộc này cô đọng trong quyển sách Thánh Giá đã đào
luyện ra một đoàn các chứng nhân - các vị tử đạo theo nguyên ngữ - trước tiên
là những chứng nhân về niềm hy vọng. Quả thật, khi hy sinh mạng sống các ngài
trên mặt đất, các ngài hy vọng tìm lại được sự sống vĩnh cửu trên trời (x. Ga
12,25) ; khi từ chối chà đạp Thánh Giá dưới chân, các ngài hy vọng khuyến
khích được con cháu hoặc những anh chị em đồng đạo sống trung thành với đức
tin ; khi chấp nhận chịu bách hại và chết như Chúa mình, các ngài hy vọng
trở thành hạt lúa mì rơi xuống đất, chết đi và mang lại hoa trái dồi dào (x. Ga
12,24). Và trong thực tế, máu các ngài đổ ra, được Lời Chúa đã được suy gẫm và
cầu nguyện làm cho nên phong phú, đang mang lại hoa trái dồi dào, mà các dấu
chỉ nhận ra được hôm nay là đời sống đức tin mạnh mẽ của Dân Thiên Chúa và con
số ngày một gia tăng các ơn gọi tu sĩ và linh mục tại quê hương. Tất cả các
thánh Tử đạo chúng ta, trước khi bị hành hình, đã xin phép được cầu nguyện,
thay vì ăn một bữa ăn thịnh sọan người ta cho như một dấu chỉ về lòng nhân đạo
in extremis theo luật hình sự Việt Nam. Lời cầu nguyện, theo lời rất soi sáng
của Ðức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong Thông điệp Spe salvi ngày 30-11-2007, “là
trường học đầu tiên hoặc nơi chính yếu để học tập về niềm hy vọng”, và Ðức
Thánh Cha đã trích dẫn hai quyển sách của Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn
Văn Thuận[10], mà ngài coi như một chứng nhân về một niềm hy vọng to lớn không
qua đi, cho dù ở ngay trong những đêm đen cô độc[11]. Lời cầu nguyện mà các
thánh Tử đạo chúng ta đã quý hơn bữa ăn, đã không những dạy các ngài về niềm hy
vọng, mà còn ban cho niềm hy vọng của các ngài dấu ấn tối hậu và vĩnh viễn như
một triều thiên chiến thắng khiến các ngài trở thành những chứng nhân vĩ đại về
niềm hy vọng ban ơn cứu độ (x. Rm 8,24).
Cũng thế, đau khổ không chỉ là một nơi khác để học tập
về niềm hy vọng, mà còn được biến đổi bởi sức mạnh của niềm hy vọng, phát xuất
từ đức tin, thành lời kinh ca ngợi và tạ ơn. Ðể minh họa phương diện này, Ðức
Thánh Cha đã trích trong Thông điệp Spe
salvi cả một đoạn từ bức thư nổi tiếng của thánh tử đạo Phaolô Bảo Tịnh
[12].
* * *
Nhìn lại biết bao điều kỳ diệu trong Hội Thánh kể từ
ngày Thánh Công đồng công bố Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei Verbum thời gian hơn 40 năm qua, chúng ta chỉ biết dâng lời
chúc tụng, tôn vinh, cảm tạ Thiên Chúa Ba Ngôi đã đoái thương ban cho Hội Thánh
kho tàng mặc khải vô cùng quý báu ẩn chứa nơi bộ Kinh Thánh; để nhờ đó, chúng
ta khám phá ra điều mà Mẹ Maria đã tuyên bố trong lời kinh Magnificat: “Lòng nhân nghĩa
Chúa trải qua đời nọ đến đời kia, trên những kẻ kính sợ Chúa”; và trong tư
cách là con cái của Hội Thánh Việt Nam, chúng ta sẽ mãi mãi hiệp thông với mọi
thành phần Dân Thiên Chúa thuộc mọi thời đại trên toàn thế giới, để “thành kính lắng nghe Lời Thiên Chúa mà có
thể tin tưởng công bố Lời của Ngài” (MK
1).
––––––––––––––––––––––––
[1] Ngày 11-10-1962, Công đồng Vatican II được khai
mạc bằng một nghi thức long trọng.
[2] John Onaiyekan,
“From Dei Verbum to Novo
Millennio Ineunte - The Reception Process of Dei Verbum”, Dei Verbum 76/77 (2005) 24tt.
[3] Walter Kasper, “The Constitution on Devine Revelation Dei Verbum”, Dei Verbum 76/77 (2005) 14tt.
[4] Paul Claudel
trong tác phẩm “L’ Ecriture Sainte dans
La Vie intellectuelle” 16.
[5] X. Alexandre de
Rhodes, S.J. Histoire du Royaume
de Tunquin et des grands progrez que la prédication de l’Évangile y a faits en
la conversion des Infidèles depuis l’Année 1617, jusques à l’Année 1646. A
[6] “Đây là linh mục
[7] X. Jean-Paul
II, Rosarium Virginis Mariae, s. 21.
[8] Xin ghi lai đây một vài con số: Ngũ Thư (3.000
cuốn); Lịch sử (3.000 cuốn); Ngôn sứ (3.000 cuốn); Giáo huấn (3.000 cuốn); Bốn
Sách Tin Mừng (20.000 cuốn); Ðối chiếu Bốn Sách Tin Mừng (10.000 cuốn); Kinh
Thánh trọn bộ có dẫn nhập và chú thích đơn giản (200.000 cuốn); Kinh Thánh trọn
bộ cỡ lớn để trưng (500 bản); Tân Ước có dẫn nhập và chú thích đơn giản (1.535.000
cuốn); Lời Chúa trong Thánh lễ (80.000 bản); Lời Chúa cho mọi người với dẫn
nhập và chú thích của Bernard Hurault và Louis Hurault (Kinh Thánh trọn bộ:
20.000 bản; Tân Ước: 45.000 bản); Kể chuyện Kinh Thánh cho trẻ em (6-9 tuổi)
dịch từ bản văn của Pat Alexander (10.000 bản); Kể chuyện Kinh Thánh cho thiếu
niên (10-15 tuổi) dịch từ bản của Pat Alexander (10.000 bản).
[9]
http://www.freewebs.com/nguyensj/NamLoiChua/DocKTvaCN.htm
[10] Đây là quyển sách nhỏ quý báu “Prières d’espérance” (x. Spe salvi, s. 32) và quyển Linh thao của
ngài mang tựa đề Témoins de l’espérance”,
Montrouge, Cité Nouvelle (2000) (x. Spe
salvi, s. 34).
[11] X. Bênêđitô
XVI, Spe salvi, s. 32.
[12] X. Spe
salvi, s. 37.