GIÁO
LÝ – ĐỨC TIN – KINH THÁNH
Phụ nữ trong các dụ ngôn: thoáng nhìn
về các phụ nữ trong Tân Ước
Nguyên tác: Women of the parables: An overview of female characters in the New Testament, tác giả Carolyn Osiek, RSCJ, báo Osservatore Romano, ngày 9-16/8/2019, trang 12-13.
Cái nhìn bao quát về phụ nữ trong các dụ ngôn của Đức Giêsu cho ta thấy
có hai mẫu nhân vật nữ giới khác nhau: những người hiện diện rõ ràng trong câu
chuyện và những người mà sự hiện diện của họ ẩn tàng trong đó, cũng như một
thoáng nhìn về mẫu thứ ba: những người nên hiện diện ở đó nhưng lạ thay lại
vắng mặt. Trước hết, chúng ta phải nhớ rằng hầu hết những ngôn ngữ có biến tố,
trong đó có tiếng Hy Lạp cổ, thường sử dụng những danh từ và tính từ số nhiều
giống đực không những để chỉ một nhóm toàn đàn ông nhưng còn một nhóm hỗn hợp
gồm cả ông lẫn bà. Như vậy có một vài đoạn văn thật khó mà biết được trong đó
nói đến nhóm đàn ông hay nhóm hỗn hợp cả bà lẫn ông. Chẳng hạn trong dụ ngôn
những người thợ làm vườn nho (Mt 20,1-16). Vì những người lên tiếng đều là đàn
ông nên chúng ta cứ cho rằng tất cả là các ông. Nhưng việc thu hoạch nho và quả
ôliu là một công việc gia đình. Có thể đây là một nhóm hỗn hợp các đơn vị gia
đình, gồm đàn ông, đàn bà và con cái được mướn để thu hoạch vụ mùa.
Một ví dụ khác là
câu chuyện những khách được mời dự tiệc cưới (Mt 22,1-14; Lc 14,15-24). Miền
quê Galilê vào thế kỷ thứ nhất không phải thuộc nền văn hóa phụ quyền đến nỗi
phụ nữ không được tham dự các bữa ăn vào những dịp quan trọng. Chúng ta tưởng
tượng những vị khách như thế nào, những người được mời và không được mời, tất
cả đều phụ thuộc vào những giả định của chính chúng ta.
Tự bản chất, các dụ
ngôn lấy chất liệu từ đời sống thường nhật nhưng tùy biến nhẹ để nó vang vọng
lại theo chiều hướng khác với một ý nghĩa mới. Trong các dụ ngôn, phụ nữ cũng
như đàn ông, họ làm những điều mà họ thường làm ở mọi thời đại: trong trường
hợp này, các phụ nữ chuẩn bị bữa ăn, tham dự tiệc cưới, sinh con, quán xuyến
tài chính gia đình. Trước khi làm bánh, hạt lúa mì phải được giã thành bột bằng
tay với cối và chày, một công việc của phụ nữ. Như vậy, hai phụ nữ cùng giã bột
với nhau để làm ra bánh ăn hằng ngày. Nhưng như một minh họa cánh chung, một
người ở lại sau khi người khác được đem đi đột ngột vào thời cánh chung (Mt
24,41; Lc 17,35). Người còn lại có biết điều gì đã xảy ra không? Bà khóc lóc vì
mất một người bạn hay vui mừng vì căn tính mới của người bạn ấy?
Phụ nữ làm bánh
bằng cách rắc men vào khối bột nhão, điều mà các phụ nữ trong các xã hội vùng
Địa trung hải đã làm hằng ngày. Nhưng thay vì trộn, bà giấu (ἐνέκρυψεν) nó vào một
khối bột rất lớn – ba thúng, tương đương 25 ký. Sự kỳ lạ của lượng men nhỏ giấu
vào trong khối bột rất lớn đã trở nên công việc được giấu kín cách mầu nhiệm
của Nước Trời (Mt 13,33; Lc 13,21). Có thể nào người phụ nữ làm bánh là hình
ảnh của Thiên Chúa truyền vào điều bình thường một sự sống mới?
Bây giờ là những
người tiệc tùng. Một anh chăn chiên lại bỏ chín mươi chín con để tìm con chiên
lạc và vui mừng với các cậu bạn bè và hàng xóm vì con chiên lạc đã được tìm
thấy (Lc 15,3-6). Cũng vậy, một chị phụ nữ đánh rơi đồng bạc đã khóc lóc và tìm
kiếm cho đến khi tìm được, rồi mở tiệc vui cùng với các bà và hàng xóm vì đồng
bạc mất đi đã được tìm thấy (15,8-10); cuối cùng, người cha vui mừng khi người
con lạc đã trở về, ông tổ chức tiệc mừng trong sự càu nhàu của người con cả
(15,11-32). Trong khi Matthêô chỉ cho chúng ta dụ ngôn người chăn chiên đi tìm
con chiên lạc (Mt 18,12-13) thì Luca đã tạo nên sự cân bằng giới tính khi thêm
vào câu chuyện người phụ nữ với đồng bạc đánh rơi. Dụ ngôn người phụ nữ với
đồng bạc lạc mất là yếu tố trung tâm của bộ ba dụ ngôn về sự lạc mất và tìm
thấy.
Trong hoạch định
của Luca, sự cân bằng giới tính là điều quan trọng giữa người chăn chiên nam
giới và người nội trợ nữ giới. Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng không chỉ nam
giới mới là người chăn chiên. Dụ ngôn người chăn chiên được giải thích cứng
nhắc như vậy bởi vì Đức Giêsu tự đồng hóa mình với người chăn chiên trong Gioan
10 nên thật khó cho chúng ta khi nhớ lại rằng nữ giới, thậm chí là các cô gái
trẻ, cũng là người chăn chiên, chẳng hạn như cô Rakhen (Stk 29,5-9) hay các cô
con gái của ông Rơuel (Xh 2,16). Trong khi người chăn chiên này là nam giới như
ý định thì các bản văn khác cho chúng ta thấy rằng người chăn chiên có thể
thuộc cả hai giới tính.
Trong Tin Mừng
Luca, Đức Giêsu dùng câu chuyện người phụ nữ không bỏ cuộc để minh họa cho sự
cần thiết của tính kiên trì khi cầu nguyện (Lc 18,1-8). Người góa phụ tìm kiếm
công lý chống lại ai đó đã hãm hại bà, và bà đã không để cho ngài thẩm phán
được nghỉ ngơi cho đến khi ông cho bà điều bà yêu cầu. Thế nhưng, “công bình”
(justice) có lẽ là một từ dịch sai của từ ekdikeō. Có lẽ đúng hơn đó là sự báo thù (vengeance) mà bà muốn chống lại đối thủ của bà: bà
muốn được chứng minh là đúng và nhận được đền bù mà bà đáng hưởng. Đây là câu
chuyện kỳ quặc không thích hợp để làm ẩn dụ, dù rằng phần giới thiệu (c. 1) đề
nghị người góa phụ là mẫu gương cầu nguyện và là một ai đó cầu xin với một nhân
vật đầy quyền lực, hiểu rằng đó là Thiên Chúa. Nhưng ông thẩm phán này thì
không gương mẫu chút nào! Ông chẳng kính sợ Thiên Chúa cũng chẳng kính nể người
ta – khó mà làm một người vị vọng. Dù cho có nhiều huấn thị trong Kinh Thánh
nói rằng phải đối xử công bình với các quả phụ (chẳng hạn Xh 22,22-24 và Đnl 10,18)
thì ông này bất cần biết đến bà, mong bà bỏ cuộc và đi cho khuất mắt. Chính ông
thẩm phán đã sống cách bất công khi không thèm xét xử. Nhưng ai cũng có giới
hạn của mình và bà góa này đã biết cách đẩy ông ra khỏi giới hạn của mình. Dù
ông chẳng tốt đẹp gì nhưng ông sẽ làm như bà muốn chỉ vì để thoát được bà. Ông
không kính sợ Thiên Chúa cũng không kính nể người ta nhưng ông sợ những tổn hại
mà bà góa dám nói dám làm này có thể gây ra cho ông. Phần lớn các bản dịch câu
5 đều nói rằng bà sẽ làm ông mệt mỏi, nhức đầu nhức óc. Nhưng từ hypopiazein được dùng ở đây có thể
mang ý nghĩa gây phiền hà thậm chí còn có một nghĩa rộng mạnh hơn: một sự tấn
công thể lý, đánh vào mặt. Có lẽ ông sợ rằng bà quá thất vọng nên tấn công ông,
tát ông giữa công chúng, ông sẽ xấu hổ và trông lố bịch vì xô xát với đàn bà.
Thật là một câu chuyện khá bất thường để nêu gương cầu nguyện!
Dụ ngôn các cô gái
trẻ dự tiệc cưới thì khá mù mờ xét về khía cạnh phản ánh các thực hành nghi
thức lễ cưới lúc bấy giờ, nhưng có một việc rõ ràng: năm cô đã không chuẩn bị.
Giống như tất cả những người không nhìn xa trông rộng, họ bị bỏ lại đàng sau và
đánh mất cơ hội vì thiếu chuẩn bị. Sự thiếu chuẩn bị của họ mang chiều kích
viễn cảnh cánh chung – hãy sẵn sàng khi chú rể đến! Nhưng các dụ ngôn có thể
được tiếp cận từ nhiều phía và nó cũng đáng để tra vấn về một bối cảnh rộng lớn
hơn cũng như vấn đề các cô mang đủ dầu nhưng sao không chia sẻ với nhau một ít
mà vẫn đến được nơi mà họ muốn đến. Các cô không quảng đại, sợ rằng hết dầu và
như vậy là chỉ lo cho mình. Thay vì tách nhóm này khỏi nhóm kia, tinh thần cộng
tác có lẽ đã làm cho họ có thể cùng vào tham dự tiệc. Đây là dụ ngôn về sự
chuẩn bị cánh chung, hay về sự thiếu lòng quảng đại, hay cả hai? (Mt 25,1-13).
Tin Mừng Gioan
không có những câu chuyện dụ ngôn mở rộng, nhưng phong phú về hình ảnh và ẩn
dụ: nước, bánh hằng sống, mục tử nhân lành và cửa chuồng chiên, cây nho và
cành. Một ám chỉ ngắn ngủi về kinh nghiệm sinh con của phụ nữ. Người đàn bà sắp
sinh thấy lo âu, biết rằng có nhiều gian nan chờ đợi mình phía trước. Nhưng một
khi qua cơn gian nan, sự buồn sầu biến thành niềm vui vì một sự sống mới được
sinh ra trong thế gian (Ga 16,21). Điều bình thường, cái thường nhật, song biến
cố đe dọa mạng sống là sinh con đã trở thành bình minh cho sự sống mới và viễn
tượng mới, một khởi đầu.
Đến lúc này chúng
ta đã có những người xay bột và làm bánh, người giữ đồng tiền, các cô chưa
chồng ở đám cưới, bà quả phụ kiên quyết, và người phụ nữ sắp sinh con. Khi
chúng ta xét đến những nhân vật nữ giới không phải là diễn viên trực tiếp trong
các dụ ngôn, chúng ta bắt gặp gương mặt xấu xí của chế độ nô lệ trong thế giới
Rôma. Dụ ngôn người nô lệ không tha thứ (Mt 18,23-35) là một thảm kịch. Vì món
nợ tăng dần và không trả được, người nô lệ được chủ giao tài sản cho và đã quản
lý tồi khiến anh thấy mình đối diện với việc phải bán không những chính mình mà
còn cả vợ con cũng như hết tài sản để trả nợ (c. 25). Cả gia đình anh phải đối
diện với sự ly hương và bất ổn về định mệnh của mình. Người phụ nữ nô lệ vô danh
là nạn nhân vô tội của lỗi lầm nơi chồng mình. Bà hẳn đã vui mừng với anh vì
lòng thương xót của ông chủ và van xin anh hãy làm như thế đối với con nợ của
mình. Tuy nhiên bà rơi vào tuyệt vọng cùng với con cái mình khi câu chuyện chấm
dứt với việc chồng bà bị bỏ tù và hành hạ.
Câu chuyện người
Pharisiêu thử thách Đức Giêsu giải thích luật được gọi là Levirate (Mt
22,23-28; Mc 12,18-23; Lc 20,27-33; Đnl 25,5-6) nói về người đàn bà làm vợ bảy
anh em liên tiếp nhau. Trong trường hợp từ người thứ hai cho đến người thứ bảy,
hôn nhân có ý sản sinh hậu duệ cho dòng dõi người chồng thứ nhất. Ở đây người
đàn bà đứng giữa bổn phận gia đình và loạt đàn ông gây bối rối mà bà được cho
là phải liên hệ. Có ai đã từng hỏi bà rằng bà muốn gì trong vấn đề này không?
Theo Đệ Nhị Luật, chính người phụ nữ chủ động đối với cuộc hôn nhân kế tiếp nếu
người anh em không muốn (Đnl 25,7-10). Hẳn nhiên, dụ ngôn là mánh khóe của các
đối thủ Đức Giêsu, những người Sađucêô không tin vào sự phục sinh sau cái chết,
để xem rằng họ có làm cho ngài im lặng bớt đi được không. Tuy nhiên, Đức Giêsu
đã xoay toàn bộ cuộc gặp gỡ thành giáo huấn về sự siêu việt của đời sống phục
sinh khác xa với cơ chế của con người, và người đàn bà không còn phải đối diện
với thế lưỡng nan ấy nữa.
Cũng có những sự
vắng mặt kỳ lạ của các phụ nữ trong những dụ ngôn quen thuộc. Trong Luca
11,5-8, một chủ nhà kia có anh bạn hàng xóm có khách đến thăm bất ngờ mà không
có đủ lương thực dự trữ. Anh đến gõ cửa nhà bên để xem có mượn được ít bánh
không. Người được hỏi xin lúc đầu đã từ chối vì cửa đã khóa, ông và con cái
cùng giường đang ngủ. Tuy nhiên, vì sự khẩn khoản của người hàng xóm đứng trước
cửa nhà, ông đã chỗi dậy, và giống như ông thẩm phán bất lương, đã cho người
hàng xóm điều ông ấy cần chỉ vì để mong thoát được ông ấy. Nhưng bà vợ của ông
đâu, ai là người quyết định cho đi lương thực ở trong nhà? Liệu bà ấy có phải
là người phản đối việc giúp đỡ hàng xóm lúc cần thiết? Liệu đây có phải là lý
do mà bà không được đề cập đến trong dụ ngôn này không?
Một phụ nữ khác bị bỏ
sót cách kỳ lạ là trong dụ ngôn đứa con lạc mất, hay hai người con, hay người
cha đầy lòng thương xót (Mt 15,11-32), câu chuyện thứ ba trong bộ ba dụ ngôn
của Luca về sự lạc mất và tìm thấy. Chính câu chuyện dường như là sự mở rộng
của Luca về một dụ ngôn đơn giản hơn của Matthêô nói về người cha có hai con
trai đáp ứng cách khác nhau, đứa nói “vâng” và rồi lại không làm điều được sai
bảo, đứa nói “không” nhưng rồi lại làm (Mt 21,28). Khi đọc câu chuyện, ta tự
hỏi rằng người mẹ đóng vai trò gì khi cho phép cậu trẻ ra đi sống tự lập cách
thiếu khôn ngoan như thế cũng như dỗ dành người anh bớt “đành hanh” hơn để một
lần nữa chia sẻ cảm xúc của cha mẹ mình. Trong bức họa nổi tiếng của Rembrandt,
người em quỳ gối nơi chân cha, cầu xin được cha đón nhận lại, có một cái bóng
mờ không xác định được xuất hiện ở hậu cảnh mà nhiều người cho rằng đó là người
mẹ bị bỏ quên.
Ta tiếp tục tra vấn
về các phụ nữ bị bỏ sót: họ nằm trong số những khách mời và thậm chí là những
người qua đường được mời dự đại tiệc (Mt 22,1-10), hay những người nghèo, tàn
tật, đui mù, què quặt (Lc 14,16-24)? Chắc chắn họ ở trong đám đông thuộc mọi
dân tộc được xét xử vào ngày cuối cùng về việc họ đối xử ra sao với tha nhân:
cho kẻ đói ăn, tiếp đón khách lạ, mặc quần áo cho người trần truồng, thăm viếng
bệnh nhân và tù nhân – và phụ nữ cũng nằm trong số những người đói khát, vô gia
cư, trần truồng, đau bệnh và bị tù đày, những người tiếp nhận lòng thương xót
của các phụ nữ.
Đôi khi ta đã loại
các phụ nữ ra khỏi sự hiện diện đầy đủ hơn của họ trong các dụ ngôn của Đức
Giêsu chỉ vì sự tưởng tượng của riêng mình.
Lm.
Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ
Nguồn:
gpquinhon.org