Chúa Giêsu - Mục Tử Nhân Lành (Ảnh: Pixabay)
ƠN THIÊN TRIỆU và NGUYỆN ƯỚC TRUNG THÀNH
Giuse Phan Quang Trí, O.Carm.
Rôma, 24.04.2021
Mục lục
1.
Trung thành theo đuổi “đức ái trọn hảo”
2.
“Trung Thành” theo Chúa như các tổ phụ
3.
“Trung Thành” trong Ơn Gọi Thánh Hiến
4.
“Trung Thành” như Thánh Giuse
WHĐ (24.04.2021) – Ngày Chúa Nhật
IV mùa Phục Sinh năm 1964, Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI đã chính thức cử hành
ngày thế giới cầu cho ơn thiên triệu lần thứ Nhất. Kể từ đó đến nay, mỗi khi
Giáo Hội cử hành lễ Chúa Chiên Nhân Lành là mỗi lần dân thánh Chúa được nhắc nhớ
để nâng cao ý thức về tầm quan trọng và sứ mạng đặc biệt của ơn thiên triệu
trong đời sống của Hội Thánh. Thánh Giáo Hoàng mời gọi chúng ta không chỉ “xin
Chủ mùa gặt sai thêm nhiều thợ gặt” (x. Mt 9, 38) mà còn phải biết cầu nguyện để
hàng linh mục và tu sĩ trong Hội Thánh được ơn sắt son “trung thành bước theo
chân Chúa Giêsu,” vị Mục Tử Nhân Lành tối cao.[1]
Thực ra, khi lãnh nhận Bí Tích
Thanh Tẩy, mỗi Kitô Hữu đều thực sự là đối tượng của ơn Chúa kêu gọi và đều
lãnh nhận cùng một sứ mạng từ Thiên Chúa; “hãy đi và loan báo Tin Mừng” (x. Mt
28, 19). Chính vì thế mà mọi phần tử của Hội Thánh bất kể là giáo sĩ, tu sĩ hay
giáo dân, ai cũng cần phải sống trung thành với ơn gọi của mình. Hôm nay, nhân
ngày chúng ta cầu nguyện đặc biệt cho các mục tử và tu sĩ của Hội Thánh, chúng
ta cùng tìm hiểu về ý nghĩa và “sức nặng” chất chứa trong lời cam kết trung
thành của bậc sống tu sĩ và giáo sĩ. Qua đó chúng ta nhận ra lý do tại sao xưa
nay, nhiều cơ sở huấn luyện chủng sinh và tu sĩ vẫn hay nhận Thánh Giuse làm
thánh bảo trợ.
1. Trung thành theo đuổi “đức ái trọn hảo”
Giáo huấn của Công Đồng Vaticanô
II về bậc sống tu trì và ơn gọi thánh hiến là nguồn tài liệu phong phú cho phép
chúng ta hiểu được những chiều kích chính yếu của ơn gọi thánh hiến. Theo đó,
ngay từ buổi sơ khai, Giáo Hội “đã có những người nam cũng như nữ, qua
việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm, quyết tự nguyện theo gương
Chúa Kitô với một tinh thần tự do thanh thoát, bắt chước Người cách
trung thành hơn, và mỗi người một cách, tất cả đều sống tận hiến
cho Thiên Chúa.”[2] Nếu như ơn gọi tu trì hay
“việc theo đuổi đức ái trọn hảo qua các lời khuyên Phúc Âm là công
cuộc bắt nguồn từ giáo huấn và gương sáng của Thầy Chí Thánh”[3] thì chúng ta có thể suy ra
hai điều sau đây: 1/ Các hình thức tu trì thánh hiến trong Hội Thánh tuy phong
phú nhưng đều diễn tả chung một thực tại: đó là cách thế con người đáp lại lời
mời gọi “hãy theo Thầy” của Chúa Giêsu. 2/ Nhiệt huyết tông đồ dâng hiến cần phải
được thường xuyên làm mới lại và quá trình canh tân này phải bắt nguồn từ Đức
Kitô, trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần.
Quả thế, kể từ những hình thức tu
trì lâu đời nhất cho đến các cộng đoàn dòng tu mới thành lập gần đây, ơn gọi
thánh hiến luôn duy trì ít là hai đặc điểm sau đây, một là “tâm tình tự nguyện
hiến dâng để thuộc trọn về Chúa”, hai là “khao khát tháp nhập bản thân vào mẫu
gương vâng phục, khiết tịnh và khó nghèo của Đức Giêsu Kitô.” Chính vì vậy mà “lòng
trung thành” và “đức mến trọn hảo” được xem là hai giá trị cốt lõi làm nên nét
đẹp riêng biệt của ơn thiên triệu. Để hiểu đúng giá trị của lòng trung thành
trong ơn gọi thánh hiến, chúng ta hãy bắt đầu từ thao thức và cảm nghiệm của những
nhân vật Thánh Kinh, những người đã từng được Thiên Chúa kêu gọi trước nhất.
2. “Trung Thành” theo Chúa như các tổ phụ
Trong Kinh Thánh Cựu Ước, chúng
ta nhận thấy các tổ phụ như Abraham, Isaác, Môsê, rồi cả các ngôn sứ Isaia,
Hôsê, Giêrêmia, Êlia, và các thủ lãnh tiêu biểu dân Israel xưa, tất cả đều giống
nhau ở điểm; họ đã được Thiên Chúa kêu mời, tuyển chọn và trao phó sứ mạng. Ngẫm
về ơn gọi của các vị Tổ Phụ và Ngôn Sứ lớn, chúng ta nhận thấy “theo Chúa”
chính là “trung thành với đường lối của Chúa” và “quyết tâm phụng sự chỉ một
mình Chúa mà thôi” (x. 1Vua 14, 8; 18, 21; Gr 2, 2; Hs 11, 1; 2 Sm 15, 13; Tv
81, 2).[4] Đến thời Tân Ước, cụm từ “kiếm
tìm Tôn Nhan Thiên Chúa” không chỉ được hiểu một cách đơn giản là “giữ giới luật”
nữa mà còn được mặc thêm một số ý nghĩa mới khiến cho lối nói này thêm sinh động
và biểu cảm.
Trong Giao Ước Mới, Thiên Chúa vô
hình của thời Cựu Ước từ nay xuất hiện hữu hình nơi Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập
thể, Đấng có xương có thịt hữu hình và cư ngụ giữa nhân loại chúng ta. Do đó
“khao khát Thiên Chúa” từ là một ước nguyện hoàn toàn siêu nhiên trừu tượng trở
nên một lối sống gắn liền với những thực hành và những lựa chọn vô cùng xác thực.
“Theo Chúa” hay “lựa chọn đường lối của Chúa” chính là “thi hành những gì Con
Chúa nêu gương, vì ý muốn và kế hoạch thâm sâu của Thiên Chúa Cha đã được “mặc
khải” cách rõ ràng và chính xác nhất nơi Đức Giêsu Kitô, “hình ảnh tuyệt hảo của
Thiên Chúa Cha vô hình” (x. Ga 14, 9). Như vậy, “theo Chúa” trong nhãn quan Tân
Ước là “trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô” (Rm 8, 29).[5]
Kinh Thánh Tân Ước ghi nhận nhiều
lối nói khác nhau về hành vi đáp trả của con người trước lời mời gọi “Hãy theo
Thầy” của Chúa Giêsu. Thông thường, “đứng dậy và đi theo” là hai hành động rõ
ràng và cụ thể nhất mà các tác giả Tân Ước hay sử dụng. Chẳng hạn như Simon,
Anrê, Giacôbê và Gioan, những môn đệ đầu tiên được Chúa gọi, họ đã bỏ mọi sự lại
phía sau để “đi theo” Người (Mc 1, 16-20; Mt 4, 18-22; Lc 5, 1-11). Ở những đoạn
khác trong Tin Mừng Nhất Lãm, động từ “đi theo” và danh từ “kẻ đi theo” được hiểu
như là hành động của “môn đệ”, “môn sinh” hay “học trò”. Khi ấy, “theo Thầy”
ngoài nghĩa cụ thể là “đi theo” trên phương diện thể lý còn có nghĩa ẩn dụ là
“theo” cả trong tinh thần. Thánh Gioan, Người Môn đệ Chúa yêu, là người đã gắn
thêm cho hành động “theo Thầy” một ý nghĩa khác thâm sâu hơn những gì chúng ta
đã nhắc đến. Theo Thánh Gioan, ơn gọi “môn đệ” vô cùng cao quý vì chỉ có môn
sinh mới có vinh dự được thông chia số phận của thầy mình (x. Ga 12, 26; 13,
36-37; Kh 14, 4). Ơn gọi theo Chúa chính vì thế đòi buộc người môn đệ trước là
phải “tin”, sau là phải biết “phó thác” cho đấng họ muốn theo (x. Ga 8, 12; 10,
4).
Tắt một lời, người môn đệ đi theo
Chúa không chỉ đơn thuần là Chúa bước đi trước, môn đệ nối gót theo sau. “Theo
Chúa” thực thụ đồng nghĩa với việc noi gương bắt chước, uốn mình theo khuôn
vàng thước ngọc là cuộc đời và sứ mạng của Chúa Giêsu Kitô.[6]
Chúa Giêsu đã nêu gương vâng phục và yêu mến Thiên Chúa Cha thế nào thì người
môn đệ cũng phải biết vâng phục và yêu mến y như vậy. Thật không dễ dàng chút
nào.
3. “Trung Thành” trong Ơn Gọi Thánh Hiến
Hiến Chế Lumen Gentium - Ánh Sáng Muôn
Dân, cẩn thận chỉ ra rằng “mến Chúa yêu người là dấu hiệu xác nhận
người môn đệ đích thực của Đức Kitô.”[7]
Các môn đệ là những người luôn noi gương cũng như làm chứng cho tình yêu
và sự khiêm nhường của Đức Kitô, họ cố gắng thực thi những điều Chúa
khuyên dạy. “Trong những lời khuyên ấy, phải kể đến tặng phẩm cao quý
của ân sủng được Chúa Cha ban cho một số người (x. Mt 19, 11; 1 Cr 7, 7)
để họ có thể dễ dàng tận hiến cho một mình Thiên Chúa với một con
tim không phân chia trong đời sống khiết tịnh hay độc thân (x. 1 Cr 7,
32-34).”[8]
Điểm độc đáo của bậc tu trì
thánh hiến, theo Công Đồng Vaticanô II, hệ tại việc các tu sĩ không những noi
theo một cách chính xác “nếp sống mà Con Thiên Chúa đã đón nhận khi
Người xuống thế để thi hành thánh ý Chúa Cha” mà còn thực hiện việc
“noi gương” đó một cách liên lỉ giữa lòng Hội Thánh.[9]
Sức nặng và cũng là giá trị cao quý của đời tu hệ tại việc “liên lỉ noi gương”.
Quả vậy, khi nói về ơn gọi thánh hiến, Thánh Công Đồng quả quyết nhân đức
trung thành của người tu sĩ chính là “kho tàng quý giá” và ghi nhận rằng:
“bằng sự kiên trì và khiêm tốn trung thành với hồng ân thánh hiến và
bằng thái độ quảng đại phục vụ mọi người dưới nhiều hình thức khác
nhau” tu sĩ là những người góp phần điểm trang cho Hội Thánh, Hiền Thê Đức
Kitô ngày thêm rạng rỡ đẹp xinh.[10]
Dựa trên nền tảng Thánh Kinh,
giáo huấn Công Đồng Vaticanô II khẳng định với chúng ta rằng “trung thành bước
theo Chúa Kitô” là “tiêu chuẩn tối hậu của đời sống tu trì thánh hiến.”[11] Và như thế, mọi tu sĩ, nam
cũng như nữ, thuộc bất kể hình thức tu trì hay thế hệ nào đi nữa, đều là những
người được kêu gọi và tuyển chọn để bước theo Chúa Kitô cách triệt để và noi
gương Người cách trung thành nhất.[12]
4. “Trung Thành” như Thánh Giuse
Nơi Thánh Cả Giuse, Bạn Trăm Năm
của đức Trinh Nữ Maria và cũng là Dưỡng Phụ của Đấng Cứu Thế, chúng ta nhận ra
một mẫu gương tuyệt hảo về nhân đức “trung thành”. Tuy Kinh Thánh không ghi lại
bất cứ một lời giảng dạy nào thốt ra từ miệng Thánh Giuse nhưng tính cách khiêm
hạ, thái độ vâng phục và đời sống nội tâm sâu sắc của người lại làm nên mẫu
hình lý tưởng mà bất cứ phàm nhân nào muốn theo Chúa đều có thể học hỏi. Cuộc đời
Thánh Giuse chứa đựng bí quyết giúp chúng ta trở nên “đồng hình đồng dạng với Đức
Giêsu Kitô” (x. Rm 8:29).
Xuất
thân từ dòng dõi Vua Đavit cao sang quyền quý nhưng Thánh Giuse lại chọn nếp sống
thanh bần giản dị. Ngài không những trân trọng giá trị của lao động chân tay mà
chính bản thân ngài cũng từng “đổ mồ hôi sôi nước mắt” nuôi sống bản thân và
gia đình. Biết bao nhiêu vị Giáo Hoàng đã từng long trọng tuyên dương phẩm chất
âm thầm khiêm tốn của Thánh Cả Giuse
và vinh danh ngài như mẫu gương của giới lao động bình dân, của những người
giúp thăng tiến các giá trị con người thông qua sức lao động chân chính của họ.[13] Thánh Giuse là mẫu mực cho
những người khiêm hạ mà Kitô giáo nâng lên những địa vị cao sang; ngài “là bằng
chứng cho thấy rằng để trở thành một môn đệ tốt và chân chính nối gót Chúa
Kitô, không cần đến những điều vĩ đại – chỉ cần các nhân đức thông thường, đơn
sơ và nhân bản, nhưng phải là những nhân đức đúng nghĩa và chân thực.”[14] Nếu khiêm nhu, nhân hậu, hiền
hòa, nhẫn nại được xem là đặc tính riêng của dân thánh Chúa, của những người
“được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương” (Cl 3:12) thì Thánh
Giuse hội đủ mọi điều kiện để được xem là mẫu gương cho dân thánh Chúa, nhất là
cho những ai muốn trở nên môn đệ đích thực của Đức Kitô.
Thánh Giuse đích thực là mẫu
gương cho chúng ta về đức vâng phục.
Trong tất cả các câu chuyện Thánh Kinh liên quan đến Thánh Giuse, kể từ lúc
ngài xuất hiện cho đến khi âm thầm rút lui, không một tình huống nào là êm ả
thuận lợi: Từ việc ngài đón nhận tin Maria người vợ sắp cưới đang mang thai bởi
quyền phép Chúa Thánh Thần (x. Lc 2:1-7; Mt 1:18-25), đến việc vất vả cùng
Maria về quê khai sổ bộ (x. Lc 2:1-5); từ việc phải bẽ bàng chịu người đời xua
đuổi miệt thị cho đến việc phải một mình giúp đỡ Maria hạ sinh Hài Nhi Giêsu
nơi máng cỏ Bêlem (x. Lc 2:6-7); từ việc phải thức dậy trong đêm vội vã đưa Hài
Nhi và Mẹ Người lánh sang Ai Cập cho đến khi hồi hương và bỡ ngỡ lập nghiệp nơi
thôn làng Nazarét (x. Mt 2:13-23); từ việc đôn đáo chu toàn nghi lễ cắt bì cho
con trẻ Giêsu cho đến việc hớt hãi tìm con trong Đền Thờ Giêrusalem (x. Lc
2:21-50), tất cả đều nhuốm màu giông tố. Trong mọi tình huống, Thánh Giuse
không một lời phản kháng kêu ca. Ngài chỉ biết hết lòng vâng phục và chu toàn mọi
huấn lệnh Chúa truyền. Gương vâng phục của Thánh Giuse thật đáng để chúng ta
nghiêng mình bái phục nhưng đó cũng là lý do khiến cho không ít người phải thắc
mắc hoài nghi.
Trong thời đại mà chủ nghĩa thế tục
và chủ nghĩa cá nhân đang hoành hành rộng khắp và thậm chí còn tấn công mạnh mẽ
cả vào môi trường nhà tu như hiện nay, thì nhân đức khiêm hạ và thái độ phục
tùng dường như chỉ còn là những khái niệm tồn tại trên lý thuyết. Chính vì vậy
mà nhiều người, nhất là các bạn trẻ cảm thấy băn khoăn nghi ngại: “Liệu rằng
chúng ta có thể bắt chước Thánh Giuse tận trung một lòng vì Chúa hay không?” Nếu
có thì đâu là bí quyết? Tông huấn Redemptoris
Custos cung cấp cho chúng ta một đáp án khá thuyết phục. Trước hết, chúng
ta phải thừa nhận rằng bao trùm lấy tất cả mọi câu chuyện Thánh Kinh liên quan
đến Thánh Giuse là một bầu khí thinh lặng nhiệm mầu. Chính sự thinh lặng ấy bộc
lộ chân dung nội tâm chiêm niệm của Thánh Giuse.[15] Hàm chứa trong từng “hành động”
của ngài là cả “một bầu khí chiêm niệm sâu xa.”[16]
“Sự hy sinh hoàn toàn, mà qua đó Thánh Giuse hiến dâng trọn vẹn cuộc sống cho
những đòi hỏi của [công trình cứu độ], chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng đời
sống nội tâm sâu xa của ngài mà thôi. Chính đời sống nội tâm này […] mang đến
cho ngài những suy luận và sức mạnh mà chỉ những tâm hồn đơn sơ và trong sáng mới
có được. [Đời sống nội tâm ấy cũng giúp ngài đủ sức] chấp nhận các điều kiện,
trách nhiệm và gánh nặng của một gia đình, và từ khước tình yêu đôi lứa tự
nhiên vốn là nền tảng nuôi dưỡng gia đình để chọn một tình yêu trinh khiết
không thể sánh ví.”[17]
5. Kết: Ước mơ đời tận hiến
Đời sống nội tâm chiêm niệm sâu
xa là không gian gặp gỡ nối kết giữa hai trái tim người cha: cha trần thế kín
múc sức mạnh và ánh sáng khôn ngoan từ Cha Trên Trời. Nhờ đó, mà Đấng Công
Chính biết cách hoàn thành xuất sắc sứ mạng bảo vệ và nuôi lớn Đấng Cứu Thế cho
nhân loại chúng ta được hưởng nhờ. Hơn nữa, chính trái tim của Thánh Giuse, patris corde đã truyền tải cảm hứng và
ít nhiều tác động đến việc hình thành nên các nét tính cách tuyệt vời nơi con
người của Chúa Giêsu. Ngài không chỉ dưỡng dục mà còn góp phần trang bị cho Hài
Nhi Giêsu những hành trang cần thiết cho hành trình loan báo Tin Mừng sau này.[18] Thánh Giuse được xem là
quan thầy các mầm non thiên triệu vì lẽ ngài thấu hiểu những khó khăn thách đố
có thể xảy đến cho các thợ gặt tương lai, và quan trọng hơn là ngài nắm giữa bí
quyết giúp họ vượt qua những truân chuyên thử thách đó. Nơi mẫu gương Thánh
Giuse chiêm niệm, khiêm tốn và vâng phục, những ai thật sự khao khát nên giống
đức Kitô có thể tìm ra bí quyết để biến ước mơ này thành hiện thực. “Ai trung
tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn” (Lc 16: 9). Gương
Thánh Giuse đang truyền cảm hứng khích lệ ơn gọi trẻ mạnh dạn tuân theo thánh ý
Chúa, sẵn sàng gác lại những dự phóng và mơ ước đời tư để hiến thân phục vụ và
kiên quyết trung thành với ơn gọi “môn đệ” trong đời sống thường ngày.[19]
Bên cạnh đó, Thánh Têrêsa Avila nhà thần bí Dòng Cát Minh đã quả quyết rằng khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức.[20] Một tâm hồn muốn thăng tiến trên đàng nhân đức thì nhất định phải rèn luyện cho được đức khiêm nhượng. Vì thánh Cả Giuse là mẫu gương khiêm hạ và vâng phục nên ngài cũng là bậc thầy của mọi nhân đức. Ngài không chỉ là đấng bảo trợ mà còn là thầy dạy của những ai năng thực hành cầu nguyện.[21] Cha Nuôi Chúa Giêsu vì vậy mà trở nên rất gần gũi với tu sĩ và chủng sinh, những người khám phá ra giá trị của cầu nguyện và chọn lựa cầu nguyện làm sứ vụ trên hết trong hành trình theo Chúa. Không phải nhờ danh xưng nhưng nhờ chứng tá, Thánh Giuse xứng đáng được tuyên dương là bậc thầy mẫu mực có đủ khả năng truyền đạt bí quyết thành công cho những ai muốn dõi bước đi theo Đức Giêsu Kitô. Thợ gặt lành nghề được Chúa sai đi nhất định phải mang theo hành trang là “lòng trung thành trong nguyện cầu và sắt son trong yêu mến” vì chưng Chúa là cây nho và chúng ta là cành, “cành nào kết hiệp cùng cây sẽ trổ sinh hoa trái” (x. Ga 15, 5).
[1] Xem Thông Điệp Radio của Đức Giáo Hoàng Phaolo VI, ngày
21/04/1964, tham khảo bản tiếng Ý http://www.vatican.va/content/paul-vi/it/messages/vocations/documents/hf_p-vi_mes_19640411_i-word-day-for-vocations.html. Truy cập 23/04/2021.
[2] Sắc Lệnh của Công Đồng Vaticanô II về việc thích nghi canh tân
đời sống tu trì với nhan đề Perfectae
Caritatis, tạm dịch Đức Ái Trọn Hảo, #1.
[3] Xem Sắc Lệnh Perfectae
Caritatis, #1 và Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội - Lumen Gentium, #43. Bản dịch của cả hai văn kiện này đều do Ủy Ban
Giáo Lý Đức Tin trực thuộc HĐGMVN thực hiện. Tham khảo https://catechesis.net/nhung-van-kien-doi-tu-tap-1-sac-lenh-ve-canh-tan-va-thich-nghi-doi-tu/ , truy cập 24/04/2020.
[4] G. Turbessi, O.S.B, “La sequela e l’imitazione di Cristo nella
vita religiosa” (Tạm dịch: Dõi Theo và Noi Gương Chúa Kitô trong Đời Tu) trong
tập san Vita Religiosa e Concilio Vatican
II, Tập 1, Rôma: NXB Teresianum, 1966, 47.
[7] Công Đồng Vaticanô II, Hiến
Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), Thành Vaticanô,
21/11/1964, #42.
[13] Giáo huấn của nhiều vị Giáo Hoàng tiền nhiệm đã được đúc kết lại
trong Redemptoris Custos (Người Chăm Sóc
Đấng Cứu Thế), do ĐGH Gioan Phaolô II ban hành ngày 15/08/1989.
[18] Xem Michael D. Griffin, OCD ed., Thánh Giuse trong Thiên Niên Kỷ
Thứ Ba, Teresian Charism Press, 1999, 355-356.
[19] ĐTC Phanxicô, Sứ Điệp ngày
Quốc Tế cầu cho ơn thiên triệu thứ 58 - Thánh Giuse: Ước Mơ của Ơn Gọi,
2021. Tham khảo https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2021-03/su-diep-dtc-phanxico-ngay-the-gioi-cau-nguyen-cho-on-goi.html. Truy cập ngày 22/04/2021.
[21] Têrêsa Giêsu, Tự Thuật, Ch.
VI, 9 (bản Tiếng Anh do David Lewis dịch từ thủ bản tiếng Tây Ban Nha, Tan
Books and Publishers, 1997, trang 37), trích trong Bề Trên Tổng Quyền hai nhánh
O.Carm và OCD, Thánh Giuse-Bổn Mạng Dòng
Cát Minh: Thư Gửi Đại Gia Đình Cát Minh dịp KN 150 Năm Công Bố Thánh Giuse Bổn
Mạng Giáo Hội Hoàn Vũ, 6. Tham khảo https://www.ocarm.org/en/citoc/st-joseph-patron-carmel, truy cập 20/04/2021.