NỖI ĐAU TRONG THỜI COVID-19
Tác giả: Beth L. Hewett[1]
Chuyển ngữ: Nhóm dịch Gioan XXIII
Từ: media.wordonfire.org[2]
WGPMT (24.7.2021) – “Khi
chồng của tôi mất, lí do duy nhất tôi có thể ở cạnh anh ấy đó là anh ấy mong muốn
mất tại nhà. Viện chăm sóc đặc biệt không phải nơi dã ngoại, đó là tôi nói.
Nhưng, ở bệnh viện, COVID có nghĩa là tôi không thể đến thăm anh ấy. Chúng tôi
không thể chịu được điều đó. Nhưng khi nào tôi sẽ có được một tang lễ? Tro cốt
của anh ấy ở trong một cái bình trên lò sưởi của tôi, và không có cách nào để
đưa gia đình tôi đến đây.”
“Cô ấy mất không có
tôi bên cạnh. Chúng tôi là bạn đời của nhau và, dù cô ấy không phải là một người
dễ tính, chứng mất trí đã làm cô ấy khác biệt, cách nào đó dịu dàng hơn mặc dù
cũng hay sợ hơn. Tại nhà chăm sóc dài hạn, nhân viên nói với tôi rằng việc tôi
đến thăm có ảnh hưởng tốt biết bao bởi vì cô ấy ăn ngon hơn ngày hôm đó và đêm
đó ngủ ngon hơn. Nhưng tôi không thể thăm cô ấy với COVID, và những video họ gửi
cho thấy cô ấy suy sụp nhanh chóng. Điều đó làm tan nát trái tim tôi. Việc cách
li do COVID đã giết chết cô ấy cũng chắc chắn như chứng mất trí mà tôi đã không
ở đó để nắm tay cô ấy.”
“Tôi làm việc tại một
viện dưỡng lão, và tôi khẳng định rằng những người trong đơn vị của tôi đang chết
nhanh hơn bao giờ hết. Chắc chắn một số do COVID, nhưng những người khác do
hoàn toàn thiếu sự tác động. Gia đình của họ không thể đến thăm, và họ không thể
có thời gian để sinh hoạt chung bởi vì chúng tôi cần giữ họ tách biệt. Ôi, cái
chết của họ ám ảnh tôi. Và tôi phải nói rằng rất nhiều đồng nghiệp của tôi và
gia đình của họ dường như cũng đang hấp hối. Có phải đã luôn có nhiều người chết
như thế trong một năm hay bây giờ tôi mới để ý tới?
Trong cộng đồng mới
dành cho người cao niên của chúng tôi, có một nhóm thương khóc được tổ chức
trong nhà nguyện bởi vì rất nhiều người đang khóc thương – phần đông những mất
mát cũ chứ không phải do COVID nhưng một số do COVID. Trong nhà nguyện, tất cả
chúng tôi cách nhau sáu feet [1,8m], và dù sao có rất nhiều người nặng tai. Người
ta đang trở nên bực bội và cứ thế đi ra ngoài. Nó không giúp gì được cho vợ tôi
và tôi. Chúng tôi nhớ con trai chúng tôi nhiều lắm.”
Tôi làm việc như một chuyên gia mai táng, và những người
trong các câu chuyện tôi vừa chia sẻ là người công giáo. Họ choáng váng bởi sự
mất mát và đôi khi bối rối trong nỗi buồn. Ở đây, tôi chia sẻ làm thế nào và tại
sao COVID-19 đã thay đổi kinh nghiệm của người ta về nỗi buồn và những việc người
Công giáo chúng ta có thể làm để nâng đỡ nhau.
Để đưa ra một điểm tốt về kinh nghiệm virus COVID-19 của đất
nước này, tôi hỏi: Ai không nhận thấy rằng cuộc sống và cái chết đã thay đổi
trong thời COVID này? Một lượng người chưa từng thấy trong thế hệ Hoa Kỳ hiện đại
đã có nhận thức sâu sắc về đau khổ do sự chết và mất mát trong năm vừa qua. Cái
chết và sự mất mát dường như ở mọi nơi. Ví dụ, có khoảng chừng 2.854.838 ca tử
vong ở Hoa Kì hàng năm theo biểu đồ năm 2019 của CDC[3].
Theo dịch bệnh năm 2020-2021, có khả năng có nhiều ca tử vong hơn bình thường;
vào ngày 7 tháng 3 năm 2021, CDC đã thống kê hơn nửa triệu (522,973) ca tử vong
do virus[4].
Gần như mọi người đều biết một ai đó người bị nhiễm COVID,
và nhiều người biết những người đã chết trong năm vừa rồi (vì COVID và những
nguyên nhân khác). Hơn nữa, nhiều người mất việc làm, việc kinh doanh, và an
toàn kinh tế trong khi nhiều người khác chỉ đang ì ạch cho qua cuộc sống và làm
việc tại nhà với bọn trẻ học từ xa. Ít ra, nhận thức của mọi người về cái chết
và mất mát đã được nâng cao.
Từ cái nhìn của người mất thân nhân, tôi nghe nhiều về thử
thách cam go do nỗi đau gây ra. Đau buồn luôn luôn thử thách, nhưng phản ứng
chung ở Bắc Mỹ là phủ nhận tác động của sự mất mát và động viên chính mình và
người khác “tiến lên”. Sau ba ngày tiễn biệt người mất, hầu hết mọi người phải
đi làm trở lại. Sau một hoặc hai tháng, những tấm thiệp và lá thư [chia buồn]
không đến nữa và các cuộc gọi ít thường xuyên hơn. Sau sáu tháng, gia đình và bạn
bè tất cả đã nghe về sự mất mát và cũng không biết phải nói gì. Nước Mỹ là một
xã hội phủ nhận cái chết, nó khuyến khích bạo lực trong những bộ phim, chương
trình truyền hình, âm nhạc, và trò chơi nhưng không thể chịu đựng để nhận biết
nỗi đau do sự mất mát thật sự. Thật vậy, nhiều người không biết phải than khóc
thế nào. Vì thế, như một thế giới thu nhỏ của nước Mỹ - khoảng 51 triệu, khoảng
một phần năm tổng dân số[5] - người Công Giáo thấy
quá ít sự hỗ trợ khi họ gặp đau buồn.
1. Một sự kiện nổi bật
về phương diện văn hóa
Tuy nhiên, ngay bây giờ sự đau buồn đang cùng lúc chạm đến
nhiều người và với cường độ cao hơn mức nhiều người đã từng kinh nghiệm. Với sự
ra đi của những người thuộc thế hệ thời Thế chiến thứ hai và với các cuộc chiến
gần đây cũng ít tác động đến toàn xã hội, các thế hệ hiện nay đã không trải qua
một sự kiện nào nổi bật về phương diện văn hóa có ảnh hưởng gần như đến mọi người.
Chúng tôi không chắc chắn làm thế nào để xử lí đại dịch này. Một cách nào đó, vấn
đề không phải là bao nhiêu người đã chết bởi vì virus này, mà là bao nhiêu người
ý thức về cái chết, sự mất mát, và nỗi đau vì nó.
Mọi người khắp nơi ý thức nhiều hơn về sự mất mát và đau buồn
nói chung. Trớ trêu thay, việc cách li cần thiết để bảo vệ chúng ta đã làm cho
chúng ta quen hơn với bất hạnh của người khác. Mọi người đã phải từ bỏ một cái
gì đó - mặc dù khác nhau về mức độ - từ giấy vệ sinh đến an toàn thực phẩm. Đối
với lợi ích chung của chúng ta, nhiều người đã hiểu biết hơn về nỗi đau có tính
xã hội vượt trên cái chết, như một ý thức mới hình thành về những tác động đến
cả thế hệ của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và sự bất bình đẳng về kinh tế.
Một trong những vấn đề chúng ta đối mặt là vẫn khó xác định
khi nào dịch bệnh chấm dứt. Không thấy có dấu hiệu kết thúc, chúng ta chưa thể
gạt bỏ nỗi đau tang thương này - như chúng ta có lẽ thường làm - vì vậy chúng
ta phải lẩn quẩn trong sự cách li thể chất và không có cách nào chắc chắn để
nói về nỗi đau riêng và chung của chúng ta. Do đó, chúng ta cần nâng đỡ.
2. Sự nâng đỡ từ Hội
Thánh Công Giáo
Hội Thánh nên cung cấp một số sự hỗ trợ, nhưng Hội Thánh có
thể làm như thế không?
Trong năm 2020, khắp đất nước nỗ lực dập tắt dịch bệnh dẫn đến
việc các nhà thờ trước là bị đóng cửa cho giáo dân và sau đó, các nhà thờ được
phép mở cửa lại, với yêu cầu cho phép ít người tham dự Thánh lễ, còn những người
không có thể ở trong nhà thờ cách thể lí thì tham dự Thánh lễ trực tuyến và
video. Đối với những người không có những công nghệ như vậy, không có Thánh lễ.
Đối với nhiều giáo xứ, việc mở cửa nhà thờ cách hạn chế có nghĩa là giáo dân
đóng góp ít hơn và, hậu quả là cắt giảm nhân viên giáo xứ và giảm giờ làm của
các văn phòng giáo xứ. Những sự cắt giảm lại dẫn đến các tác vụ bị hạn chế hoặc
đóng cửa. Ngay khi cần đến Hội Thánh nhất, thì khả năng giúp đỡ bất cứ ai lại bị
hạn chế nhất. Tuy nhiên các nhu cầu và đòi hỏi cũ vẫn còn đó. Các nhu cầu và
đòi hỏi mới cũng phải được giải quyết. Và mọi người sẽ phải làm với nguồn lực hạn
chế. Trong suốt thời gian dịch bệnh hay những hoàn cảnh khác do sự giãn cách,
các nguồn lực hạn chế hoàn toàn không đủ. Mọi người đang tăng cảm giác trầm cảm,
tội lỗi, tức giận, sợ hãi, cô đơn - tất cả các cảm giác đó có xu hướng đi kèm với
đau buồn. Các giáo sĩ đang kiệt sức và sợ lây COVID cho giáo dân hoặc
bị lây nhiễm.
Hội Thánh cố gắng giúp đỡ chúng ta, nhưng theo nhiều cách,
chúng ta phải tự tìm phương thế riêng. Chúng ta có thể làm gì với nỗi đau của
mình? Làm sao chúng ta có thể chịu được đau khổ và buồn phiền để giúp nhau và
giúp chính mình?
3. Đau buồn, than
khóc, và Chúa Giêsu
Trước tiên, chúng ta cần biết bản chất của đau buồn. Đau buồn
là một kinh nghiệm bên trong về sự mất mát, nó đi vào chúng ta cách tự nhiên, bị
động, và thường dữ dội sau cái chết của người thân hoặc một mất mát khác. Nó
không phải là thứ gây xúc động hoặc cảm giác tiếc thương cho bản thân; nó hoàn
toàn là nhận thức nội giới rằng một người chúng ta thương đã ra đi hoặc một sự
chúng ta quan tâm đã đổi thay mãi mãi. Khóc than là biểu lộ bên ngoài của nỗi
buồn mà chúng ta thể hiện bằng cách khóc, nói về sự mất mát, tưởng niệm và vinh
danh người hoặc sự gì đã mất, và đưa đau buồn vào cuộc sống của mình - cũng
thay đổi chúng ta mãi mãi. Vì thế, không ngạc nhiên gì khi Chúa Giêsu dạy:
“Phúc cho những ai than khóc” (Mt 5,4).
Mặc dù chúng ta có thể không nghĩ như vậy khi chúng ta cảm
thấy hết sức tồi tệ, đau buồn cũng có ích của nó. Đau buồn thường không được
coi như một ân sủng, nhưng theo nhiều cách, nó đúng là như vậy. Đau buồn luôn
đi với tình yêu. Chúng ta không đau buồn vì những điều không quý với chúng ta,
dù nó là một người, công việc, sự mong chờ, hay là một điều gì khác. Đau buồn
đơn giản là cái giá phải trả vì thương một người hay một vật, và tình thương
chúng ta đã trải qua thường xứng với cái giá chúng ta trả.
Cũng quan trọng để biết rằng đau buồn đại diện cho sự bất hạnh,
đau đớn, sợ hãi, hối tiếc, tức giận, và những cảm xúc khác mà Thiên Chúa đã ban
để giúp chúng ta cảm nhận và hiểu biết sự mất mát. Thiên Chúa đã không ban cho
chúng ta nỗi đau mất mát mà lại không ban cho chúng ta cách đối phó với nó. Hãy
nhìn vào Chúa Giêsu. Người đã để mình khóc, cảm nhận sự mất mát của Lazarô và
niềm đau chung của gia đình Lazarô, ngay cả khi Người biết Người sẽ hồi sinh
Lazarô từ cõi chết. Một điều chúng ta học được từ việc Chúa Giêsu khóc là mặc
dù chúng ta đảm bảo được phục sinh, chúng ta có thể có và bày tỏ cảm xúc đau
xót mà không phải lo rằng chúng ta giữ đạo sai. Nếu Con Thiên Chúa có thể khóc
công khai trước cái chết của một người bạn, một người bạn chốc nữa sẽ được sống
lại, thì chúng ta cũng có thể.
Chúng ta trở nên người hơn khi chúng ta đối mặt sự mất mát.
Chính Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm nhiều nỗi buồn trong cuộc sống trần thế ngắn
ngủi của Người. Ngoài việc khóc thương Lazarô và những người thân yêu của Người,
Chúa Giêsu phải gặp thực tế tồi tệ này là đồng hương Nazareth của Người đã
không muốn người thợ mộc trước đây đóng vai trò ngôn sứ và thầy dạy. Chúa Giêsu
nhanh chóng nhìn thấy tất cả nỗi đau của thế giới khi Ngài bắt đầu sứ vụ của
mình, việc chữa lành và an ủi người đau ốm và bị tổn thương. Người đã tỏ lộ nỗi
buồn sâu xa tại Vườn Giêtsêmani và cầu xin Cha Người “cất chén này” khỏi Người
(Lc 22,42). Vâng, Chúa Giêsu đã biết đến sầu khổ của con người và cái đau đớn
mà nó gây ra, nên chúng ta cũng thế.
Nhưng cái chết của Chúa Giêsu đã không ngăn được những kinh
nghiệm của Người về sầu khổ của con người. Trên đường Emmaus, một Chúa Giêsu -
đã phục sinh, không được nhận ra - đồng hành với hai môn đệ đau buồn đang hoang
mang bởi Khổ hình thập giá và tin báo về ngôi mộ trống. Người đã trở thành bạn
đồng hành của họ trong đau buồn, lắng nghe nỗi đau của họ khi họ bước đi và sau
đó an ủi họ bằng Kinh Thánh, cho họ hi vọng. Làm bạn đồng hành đúng nghĩa có nghĩa là cùng nhau bẻ bánh, là việc
Chúa Giêsu đã làm với những kẻ đang than khóc trước khi Người biến đi trước mắt
họ.
4. Ở với sự đau buồn
Đau buồn có thể làm tổn thương rất nhiều đến nỗi chúng ta có
lẽ muốn thoát ra khỏi nó, và đó là nguyên nhân tạo nên ý tưởng chung là chúng
ta không nên đau buồn lâu và chúng ta nên “tiếp tục” với cuộc sống của chúng
ta. Tuy nhiên chúng ta phải ở với đau buồn một thời gian bởi vì nếu nó bị phớt
lờ, nó sẽ lưu lại trong thân thể, tâm hồn, và tinh thần của chúng ta. Đau buồn
không biến đi chỉ vì chúng ta không muốn cảm nhận nó. Bởi vì nó đến từ bên
trong chúng ta, đau buồn của chúng ta biết rõ nơi sẽ đưa dẫn chúng ta về thể lí
vào trong thế giới, về tâm hồn vào trong những vùng sâu thẳm của tâm thần, và về
tâm linh trên hành trình tìm kiếm chốn cao hơn. Việc lắng nghe điều sự đau buồn
nói với chúng ta những gì và than khóc nỗi đau buồn cách chủ ý có tính quyết định
đối với con người hiện tại của chúng ta, đối với con người chúng ta sẽ trở
thành, và cách chúng ta yêu thương trong tương lai. Nói cách khác, đau buồn và
than khóc thay đổi chúng ta, cách chúng ta đối phó với chúng giúp quyết định
cách chúng ta sẽ thay đổi.
Trong đau buồn, chúng ta vượt qua ngưỡng cửa từ cuộc sống cũ
vào trong cuộc sống mới. Ở lưng chừng cái cũ và cái mới, chúng ta cư trú một
lúc trong một khoảng trung gian vô cùng mầu nhiệm, gọi là khoảng không chuyển tiếp (liminal space). Khoảng
không này ở giữa cuộc sống cũ mà chúng ta đã biết và cuộc sống mới mà chúng ta
đang bước vào. Việc tồn tại trong khoảng trung gian này có thể gây kinh sợ hoặc,
ít nhất, gây khó chịu. Thỉnh thoảng người ta bày tỏ rằng họ cảm thấy như thể họ
đang “phát điên”, nhưng thật ra họ chỉ đang đau buồn. Thú vị thay, khoảng trung
gian này cũng có thể là nơi nghỉ ngơi giữa những sự kiện đã đưa đến niềm đau và
việc than khóc đầy khó khăn vẫn chưa đến. Những người mà tôi gần đây có liên hệ
với họ đã bày tỏ rằng ngay bây giờ họ đang ở trong khoảng trung gian làm hỏng mọi
kế hoạch một cách kì quặc. Ví dụ, vì việc cách li cần thiết để tự bảo vệ khỏi
COVID, họ ở khoảng giữa: họ muốn và cần sự nâng đỡ xã hội mà họ không có được đầy
đủ khi bị cách li tại nhà, nhưng họ cũng thấy dễ chịu vì họ không cần từ chối
những lời mời có tính xã hội mà họ không có khả năng tham gia.
Một khi chúng ta cảm nhận sâu sắc sự mất mát và biết cách
than khóc sự mất mát đó, chúng ta bước vào một giai đoạn mới của cuộc sống nhân
loại. Bây giờ chúng ta nhận ra rằng chúng ta phải khoan dung hơn với nỗi đau
riêng cũng như chung. Cần chú ý, tốt cho chúng ta khi phải trải qua đau khổ và
giúp đỡ nhau trong trải nghiệm đó với tư cách là người và là Kitô hữu. Chúng ta
cần học biết những lợi ích của đau buồn trong sự hiệp thông với Thiên Chúa là Đấng
đã hi sinh Con của Ngài, trong sự hiệp thông và thương xót đối với người khác,
và trong những bước tiến của nhân loại (có lẽ phải đau đớn mới có được).
5. Hành động thiêng
liêng của lòng thương xót
Là gia đình Hội Thánh, chúng ta cần những cách thức tốt hơn
để nâng đỡ nhau như thế. May mắn thay, Hội Thánh Công giáo đề nghị chúng ta một
con đường hướng đến. Nghi thức an
táng Kitô giáo phác thảo những nét căn bản cho tác vụ an ủi, phản ánh
được một trong các hành động thiêng liêng của lòng thương xót:
Khi một chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô qua đời, các tín hữu
được mời gọi thực thi tác vụ an ủi đối với những người chịu sự mất mát người họ
thương mến. Sự an ủi Kitô giáo ăn sâu trong niềm hi vọng xuất phát từ niềm tin
vào sự chết và phục sinh ban ơn cứu độ của Chúa Giêsu Kitô.[6]
Đã từng có một Ban nâng đỡ tang quyến ở cấp quốc gia
(National Catholic Ministry to the Bereaved) làm theo những quy tắc dành cho
Tác vụ an ủi, đã huấn luyện và trao tác vụ cho những người trợ giúp tang quyến.
Đại dịch đang dạy chúng ta - giáo sĩ và giáo dân - rằng chúng ta cần tái lập một
tác vụ như thế để những người được gọi đồng hành với tang quyến có thể học biết
lí do và cách thế tốt nhất làm công việc đó, rồi củng cố những người khác.
Chúng ta có thể làm bạn đồng hành với nhau trong đau buồn. Một
khi đã được huấn luyện thích hợp, chúng ta có nhiều phạm vi để giúp đỡ tang quyến
theo nhiều cách khác nhau: thông qua một ban mục vụ giáo xứ thiết thực, với sự
trợ giúp cá nhân, và trong các nhóm hỗ trợ. Tác vụ an ủi căn bản của chúng ta
là yêu thương nhau, và tác vụ mở rộng của chúng ta là sử dụng sự hiểu biết của
mình về đau buồn và than khóc để lắng nghe, đồng hành, và giúp đỡ những người mất
mát tìm thấy lối đi của họ - thường bằng cách hiện diện lặng lẽ chỉ để làm chứng
cho nỗi đau và buồn phiền.
6. Sống cuộc đời có
phúc
Cuộc đời của chúng ta không dành cho chúng ta. Điều này là một thông thiệp Đức Cha Robert Baron
thường giảng dạy. Chúng ta học bài học đó cách tha thiết nhất khi một người
chúng ta thương qua đời hoặc khi một điều gì đó quan trọng nhất trong cuộc sống
của chúng ta thay đổi. Bài học trở nên rõ ràng, bởi vì chúng ta nhận ra ở một mức
độ sâu thẳm rằng chúng ta không kiểm soát được hầu hết những mất mát trong cuộc
sống.
Những mất mát đáng kể mang lại đau buồn. Nghịch lí là: những
lần đau buồn là khi chúng ta cần dành cuộc đời mình cho bản thân nhiều nhất, vì
thế chúng ta có thể tập trung làm công việc than khóc đầy khó khăn. Chỉ khi
chúng ta bắt đầu hiểu rằng thế giới to lớn hơn chúng ta và những nhu cầu riêng
của chúng ta, chúng ta không thể thoát khỏi con đường của mình chỉ vì nỗi đau của
chúng ta quá lớn, và chúng ta phải được an ủi. Chúng ta bây giờ thấy rằng những
người khác cũng đau khổ, và chúng ta muốn sống cuộc đời có ý nghĩa và có mục
đích mặc dù chúng ta bị mất mát thật nhiều để làm điều đó thành hiện thực. Đau
buồn tạo cơ hội để khiến cuộc sống của chúng ta hướng về một điều lớn hơn chính
chúng ta. Làm sao chúng ta đi từ đây đến đó? Chúng ta cần người khác nâng đỡ,
nhưng người ta chỉ có thể giúp chúng ta nếu họ cũng nhận ra rằng cuộc đời của họ
không dành cho họ nhưng dành cho những gì họ có thể làm cho người khác.
Cả bây giờ và sau dịch bệnh, hãy suy nghĩ: Thế giới của
chúng ta sẽ thay đổi thế nào nếu thậm chí một ít trong số 51 triệu người Công
giáo Mỹ được nâng đỡ đầy đủ khi gặp đau buồn? Và nếu một ít trong số họ quay lại
để nâng đỡ những người khác, họ sẽ biến đổi thế giới hơn thế nào nữa cho những
người đang đau buồn khác?
Thánh Giáo hoàng Lêô Cả dạy rằng “không những đức thương người
mà cả ơn bình an cũng đem lại hạnh phúc cho hết thảy những ai lấy lòng bác ái
mà cảm thông với mọi kẻ khốn cùng”[7]. Có rất nhiều phúc lành chỉ
nhờ vào việc chăm sóc những người đau buồn thông qua Tác vụ an ủi. Một trong những
phúc lành đó có thể là chúng ta sẽ có được người đồng hành khi bản thân gặp đau
khổ trong tương lai, bất kể là loại đau khổ nào.
Nguồn: giaophanmytho.net
[1] Beth L. Hewett, PhD,
CT, CEOLS, là giáo sư về đau buồn giàu kinh nghiệm, là nhà diễn giả và trợ giúp
cho các nhóm hỗ trợ đau buồn, các nhóm nghiên cứu về sự mất mát và các kì tĩnh
tâm, và các hội thảo bằng văn bản từ năm 2004.
[2] Trích từ ebook Catholicism
after Coronavirus, A Post-COVID
Guide for Catholics and Parishes (Đạo
Công giáo sau thời Coronavirus, Hướng dẫn dành cho người Công giáo và
các giáo xứ thời hậu Covid) của Word on Fire, trang 1-16.
[3] “Deaths and Morality,” Centers for Disease Control and
Prevention (CDC), https://www.cdc.gov/nchs/fastats/deaths.htm.
[4] “United States COVID-19 Cases, Deaths, and Laboratory
Testing (NAATs) by State, Territory, and Jurisdiction,” Centers for Disease
Control and Prevention (CDC), March 7,2021, https://covid.cdc.gov/covid-data-tracker/#cases_casesper100klast7days
[5] David Masci and Gregory A. Smith, “7 Facts About American Catholics,” Pew Research Center, October 10, 2018, https://www.pewresearch.org/fact-tank/2018/10/10/7-facts-about-american-catholics/
[7] Lêô Cả, Bài giảng
6 về Mùa Chay, 1-2, Kinh Sách, Bài đọc 2, thứ Năm sau lễ Tro.