NIỀM
VUI TRONG ĐỜI
“Vui
lên anh em!” (Pl 4, 4)
Đâu phải
Tết đến mới vui, Xuân về mới đẹp. Niềm vui và cái đẹp luôn giàn trải trong vũ
trụ vạn vật, được Thiên Chúa phú bẩm cho đời sống con người mọi nơi mọi lúc.
Tuy nhiên, phải có tâm hồn đơn sơ, trong sáng, ta mới cảm nhận thâm sâu về tất
cả mọi niềm vui và cái đẹp trong đời sống hằng ngày. Vì “kho trời chung
mà vô tận của mình riêng”.
Thiên
Chúa sáng tạo và cứu độ là để thông chia cho con người niềm vui và hạnh phúc của
Người. Chính vì vậy mà Thánh Phaolô đã kêu gọi: “Anh em hãy vui luôn
trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!”(Pl 4, 4). Thánh
Phêrô cũng đã nói: “Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc
anh em”(1 Pr 5, 7).
I. Ý NGHĨA
“Vui” là
một trạng thái tình cảm mà trong đó con người đạt được sự hài lòng, mãn nguyện.
Niềm vui làm cho cuộc sống ta phấn khởi, gia tăng nghị lực và thêm sức sáng tạo,
khiến ta mở rộng trái tim để yêu thương, đón nhận và chia sẻ.
1. Niềm vui
Trong tiếng
Việt, chữ “niềm” trong cụm từ “niềm vui” được dùng để nhấn mạnh trạng thái tình
cảm này là một trạng thái của nội tâm hơn là trạng thái của ngoại cảnh. Trên thực
tế, không bao giờ tồn tại những cảnh vật vui tươi đối với một người đang buồn,
mà cũng không có chuyện gì thật sự đáng buồn đối với một người đang vui: “Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Quả thật, niềm vui đến từ bên trong. Niềm vui là trạng thái
tinh thần của hạnh phúc, trong niềm vui con người sẽ bắt đầu hiểu được giá trị
bên trong của mình và đặt mình vào trong vạn vật, trong mọi tương quan và liên
đới với mọi người. Thừa nhận niềm vui là một quyết định “thuận theo
dòng chảy”, là sự biết ơn đối với cuộc sống, với tất cả những thách thức và
cơ hội mà cuộc sống mang lại, hơn là đặt ra các điều kiện để được hạnh phúc.
Từ đó nhìn vào thực tế cuộc sống, ta có những phân biệt: niềm
vui nhất thời và niềm vui bền vững; niềm vui đúng đạo lý và niềm vui trái đạo
lý. Ngoài ra còn có một niềm vui thượng thặng, siêu việt, là niềm vui đời Kitô
hữu.
2. Niềm vui nhất thời
Niềm vui
nhất thời là niềm vui phụ thuộc vào những điều kiện bên ngoài. Ta vui khi mua được một món hàng giá rẻ, nhưng nếu sau
đó lại phát hiện ra là hàng dỏm, niềm vui ấy sẽ tan nhanh như bọt nước. Thay
vào đó sẽ là sự giận dữ, tức tối. Cũng vậy, ta vui khi gặp người bạn ban đầu rất
dễ thương, nhưng dần dần thấy thương không dễ, tính khí bất thường, nên phải
thay thế bằng nỗi buồn ly biệt. Ta vui khi thấy mình giỏi hơn người này, nhưng
lại buồn khi thấy dở hơn người kia…
Khi những điều kiện thỏa mãn không còn nữa, thì niềm vui của
ta sẽ nhanh chóng biến tan. Mà thực tế trong đời này không bao giờ có được những
điều kiện bền vững, không thay đổi. Tất cả đều liên tục xoay chuyển và không
trường tồn, nên hầu hết những niềm vui của chúng ta có được trong cuộc sống đều
mong manh, tạm bợ. Vì những tâm trạng buồn vui dựa trên các điều kiện,
nên có bao nhiêu niềm vui thì cũng có bấy nhiêu nỗi buồn chực sẵn, chẳng bao giờ
có được niềm vui thực sự. Niềm vui đích thực là niềm vui không bị điều kiện
hóa, không nằm trong sự ham muốn chiếm hữu hay những toan tính nắm bắt thời
cơ. Cũng vậy, niềm vui không nằm trong sự
chiến thắng người khác bằng sức mạnh hay khả năng của mình. Niềm vui đó không mấy
chốc sẽ biến thành nỗi buồn, vì vẫn nằm trong vòng tranh chấp hơn thua, thành bại.
Chỉ có niềm vui thật sự khi chiến thắng chính mình, khi xa lìa được những tật xấu,
khi thoát ly khỏi những ràng buộc, khi có tự do nội tâm để hành động.
3. Niềm vui bền vững
Niềm vui bền vững là niềm vui không dựa trên các điều kiện,
không bị tác động hay lệ thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài: đó là niềm vui của
tình yêu. Chỉ cần ta mở lòng yêu thương thì tự nhiên có niềm vui. Đó là niềm
vui hồn nhiên, đơn sơ, chân thành, nhẹ nhàng, thanh thoát, không đòi hỏi, không
chiếm hữu, không toan tính, không đặt điều kiện.
Niềm vui bền vững chỉ phát xuất từ một tâm hồn tràn ngập yêu
thương. “No man truly has joy
unless he lives in love” = Không ai thực sự vui
vẻ nếu không sống yêu thương” (Thánh Tôma Aquinô). Niềm vui bền vững phát xuất từ lòng yêu
thương chân thật, vô vị lợi. Điều này không phải là kết quả của sự cố gắng rèn
luyện hay nỗ lực tu tập, mà đơn giản chỉ là những hệ quả tất yếu của một tâm hồn
luôn đong đầy yêu thương.
Cũng từ
những trải nghiệm trên, ta thấy mọi niềm vui của con người có thể được phân
thành hai loại cơ bản: một loại giúp con người nâng cao giá trị của mình, còn một
loại lại làm cho phẩm giá của con người bị hạ thấp. Niềm vui có sự phân biệt rõ
ràng: đích thực và giả tạo, chân chính và bất chính, tội lỗi và thánh thiện,
cao thượng và thấp hèn, xây dựng và phá hủy… Nói cách khác, có sự phân biệt niềm
vui đúng đạo lý và niềm vui trái đạo lý. Trong niềm vui đúng đạo lý, con người
càng được mãn nguyện bao nhiêu thì càng thánh hóa được bản thân và tha nhân bấy
nhiêu. Ngược lại, với niềm vui trái đạo lý, con người càng thỏa mãn càng bị tha
hóa trong nhân cách.
II. NIỀM VUI ĐÚNG ĐẠO LÝ VÀ TRÁI ĐẠO LÝ
1. Niềm vui đúng đạo lý [1]
Niềm vui
đúng đạo lý là niềm vui xây dựng trên nền tảng: chân, thiện, mỹ, nghĩa là
vừa đúng đắn (chân), vừa tốt lành (thiện), vừa đẹp đẽ (mỹ). Đây cũng là ba giá
trị nhân bản mà mọi người đều khát khao hoặc ngưỡng vọng. Trong sự vươn đến
chân, thiện, mỹ, cho dù một bước tiến bé nhỏ cũng có thể đem đến cho con người
sự hài lòng to lớn. Điều này giải thích tại sao bất cứ ai cũng có thể tìm thấy
những niềm vui tuyệt diệu khi nắm bắt được một vài tia sáng của chân lý, trải
nghiệm được một vài ý tưởng thánh thiện, hay thực hiện được một vài hành động đẹp
đẽ.
- Thứ nhất
là niềm vui do trải nghiệm cái đúng đắn (Chân). Chỉ cần sống tốt với bổn phận làm người, niềm vui tự nhiên
xuất hiện. R. Tagore cũng nói lên như thế:
Tôi nằm ngủ và
mơ thấy cuộc đời là Niềm vui
Tôi thức giấc và
nhìn thấy cuộc đời là Bổn phận
Tôi hành động
và, ô kìa, Bổn phận chính là Niềm vui.
Ai cũng
có thể cảm nhận về điều đó. Chỉ cần hành động theo đúng sự thật, niềm vui tự động
dâng tràn. Chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi những nhiễu nhương, muộn
phiền. Dĩ nhiên, sự thật nào cũng đòi phải trả giá, nhưng giá đó làm nên giá trị
nhân cách để khôi phục lại hình ảnh Thiên Chúa nơi con người đã bị mê hoặc bởi
sự giả trá. Riêng với những người có đức tin tôn giáo, mỗi khi chứng nghiệm được
một sức mạnh của tâm linh, một điều kỳ diệu của đức tin hoặc nhận thức được một
nội dung của giáo lý cao siêu, đều thấy cả trí tuệ lẫn tâm linh mình phấn khởi
lạ thường. Đó là những trải nghiệm hồn nhiên và có ý nghĩa về niềm vui dưới ánh
sáng chân lý.
- Thứ hai
là niềm vui do trải nghiệm cái tốt lành (Thiện). Mỗi khi làm được một việc thiện, giúp ích cho tha nhân,
lòng chúng ta thấy vui sướng nhẹ nhàng. Thánh Tôma Aquinô cũng đã định
nghĩa: Sự vui sướng là trạng thái an tĩnh của tâm hồn sau khi đã đạt được
mục tiêu, tức là điều thiện (quies
appetitus in fine: I-II, 34,2,2m).. Việc thiện càng sâu, niềm vui càng lớn;
việc thiện càng nhiều, niềm vui càng rộng. Tâm hồn càng hướng thiện thì càng mở
rộng phạm vi hành thiện. Chính việc hành thiện là sức hút mãnh liệt để cảm hóa
nhân tâm và cải hóa xã hội. Gốc gác con người là tính bản thiện, nhưng vì không
hành thiện nên đời sống ngả nghiêng, khiến cho sự ác xâm nhập càng thêm đảo
điên.
- Thứ ba,
niềm vui do trải nghiệm cái đẹp đẽ (Mỹ). Có
biết bao cái đẹp trong cuộc sống con người, từ thiên nhiên vạn vật cho đến những
tác phẩm nghệ thuật do con người làm nên. Chúng ta tìm thấy niềm vui này ngay cả
khi nhìn ngắm một cánh hoa. Mọi cái đẹp đều cho ta nhận ra kỳ công tuyệt mỹ của
Thiên Chúa ngay trong cấu trúc cơ thể và khả năng tâm trí của con người. Ở mức
độ cao hơn trong đời sống tinh thần, niềm vui ấy còn sâu rộng hơn khi có một
tính cách đẹp, một lối ứng xử đẹp, một cử chỉ đẹp trong sự khiêm tốn, hiền hòa,
bao dung, tha thứ, nhất là lấy tình thương đáp trả hận thù. Đó là sự trải nghiệm
cái thẩm mỹ, cái trác tuyệt trong nhân cách, và ai cũng đầy niềm vui khi thấy
được cái đẹp tinh tế đó nơi mình hay người khác.
Trên thực
tế, ba giá trị Chân, Thiện, Mỹ thường xuất hiện đồng thời. Chẳng hạn, thái độ
bao dung đem lại an hòa vừa là một lối hành xử đẹp, tốt lành và đúng đắn. Niềm
vui có mặt trong mọi giây phút khi lòng ta luôn thanh tịnh, không bị vọng động
bởi những xao động và tác động bên ngoài. Một tâm hồn như vậy càng gặp những thử
thách qua những nghịch cảnh càng cảm nhận được những niềm vui thanh khiết, vì
những cái khắc nghiệt ấy của cuộc đời là cơ hội để trui rèn và làm sáng lên những
giá trị nhân bản rất chân thật, tốt lành và thánh thiện nơi chính mình. Những
giá trị đó làm cho thế giới loài người trở nên sinh động và đáng yêu.
Những con
người của niềm vui trong chân, thiện, mỹ, cũng là những người góp phần tốt nhất
cho việc xây dựng hòa bình thế giới. Vì nơi họ, sự an bình trong tâm hồn tự động
lan tỏa trong mọi môi trường sinh hoạt của xã hội, như hương trong hoa, như men
trong bột. Như vậy, dù không là Kitô hữu, họ cũng đã sống tốt mối phúc thứ bảy,
và đáng được gọi là con Thiên Chúa.
2. Niềm vui trái đạo lý
Những niềm
vui trái đạo lý là những cái vui không phù hợp với ba giá trị căn bản của nhân
loại tính. Đó là những cái vui không đúng đắn, chẳng tốt lành, mà cũng chẳng đẹp
đẽ. Niềm vui nào cũng nằm trong sự chọn lựa giữa cái xấu và cái tốt. Ai cũng có
tự do để chọn lựa niềm vui, như lời bài hát của Trịnh Công Sơn:
Mỗi ngày
tôi chọn một niềm vui
Chọn những
bông hoa và những nụ cười…
Mỗi ngày
tôi chọn một niềm vui
Cùng với
anh em tìm đến mọi người…
Và như thế
tôi sống vui từng ngày
Và như thế
tôi đến trong cuộc đời
Đã yêu cuộc
đời này bằng trái tim của tôi
Tự do để
lựa chọn, nhưng chọn cái gì, chọn như thế nào, tâm ý của mình và đối tượng ra
sao… Chính vì vậy mà tự do vừa cao quí vừa bi đát do cách chọn lựa của con người.
Thiên Chúa chỉ dựng nên những điều tốt, nhưng con người đã làm nên những điều xấu
bằng sự tự do quá đà, vượt giới hạn, làm phá đổ trật tự hài hòa mà Thiên Chúa
đã đặt để. Đời mất vui khi con người mất đi sự tự do làm chủ chính mình, để
mình bị lôi kéo theo thất tình lục dục:
- Thất
tình là bảy trạng thái tình cảm: mừng (hỷ), giận (nộ), buồn (ai), vui
(lạc), thương (ái), ghét (ố), sợ (cụ). Chúng đều là những trạng thái dễ bị kích
thích, gây nên bấn loạn khi con người chịu những tác động từ bên ngoài mà không
có sự chủ động an định nội tâm. Những niềm vui thất tình phát sinh và tồn tại dựa
vào lục dục, nên chúng chỉ là những hưng phấn giả tạm do sự thỏa
mãn các ham muốn tâm-sinh lý trong bản năng vô thức của con người. Nói cách
khác, những niềm vui này bắt nguồn từ những “xung lực phát ra từ những
tổ chức thể chất” và là sự thỏa mãn những đòi hỏi thể chất trong tâm
thần của con người[2].
- Lục dục là sáu loại ham muốn phát xuất từ lục căn. Lục căn
bao gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, và ý),
là sáu cơ quan tối trọng trong đời sống mỗi người. Nếu con người biết
làm chủ lục căn, sử dụng chúng vào những việc đúng đạo lý, thì lục dục sẽ trở
thành sáu phép mầu để thông thiên đạt địa. Ngược lại, nếu ta không làm chủ được
lục căn, thì lục dục sẽ trở nên mù quáng [àm thành“sáu ngã đường tà” khiến
con người chỉ còn tìm vui trong tội lỗi.
Nếu vui
vì mắt được nhìn thấy những sắc đẹp và đem lòng ham muốn thì đó là cái vui của nhãn
dục. Nếu vui do tai được nghe những lời tâng bốc, gièm pha, xu nịnh, gây hiềm
thù, thì đó chỉ là cái vui của nhĩ dục. Nếu vui do mũi được ngửi những
mùi hương tạo nên sự kích thích thân xác thì đó là cái vui của tỹ dục.
Nếu vui do lưỡi được nếm những thức ăn ngon, đó chỉ là cái vui của thiệt
dục. Nếu vui do thân được thỏa mãn cảm giác của xác thịt, đó chỉ là cái vui
của thân dục. Và nếu vui do tư tưởng được thỏa mãn những suy nghĩ
càn quấy, phóng túng, đó chỉ là cái vui của ý dục.
Cái vui của
ý dục là môi trường dung dưỡng những cái vui của mọi loại dục vọng khác. Đằng
sau khả năng nhận thức sinh lý học của các cơ quan thể chất còn có khả năng nhận
thức tâm lý học của những bản năng vô thức tương ứng. Những ham muốn do bản
năng vô thức mới là phần đáng sợ nhất của lục dục.
Đối với
những ham muốn do bản năng vô thức, con người không thể kiểm soát và chế ngự
chúng bằng ý thức hay lý trí, nhưng phải bằng một quá trình tu tập lâu dài. Tuy
nhiên, bản tính con người vốn mỏng dòn, yếu đuối, không thể chỉ dựa vào sức lực
và khả năng của mình để tu tập. Việc tu tập nào cũng không thể thành, nếu chỉ
là nỗ lực đơn thuần của con người, nhưng nhất thiết phải có ơn trên độ trì.
Không ai có thể tự phụ mình đã đạt tới niềm vui đạo lý nếu không nằm trong
Thiên ý. Bản chất niềm vui trước tiên là một ân ban từ trong tâm, và chỉ dành
cho ai biết khiêm tốn đón nhận. Không có gì cao đẹp trong đời sống con người mà
chỉ là nhân bản thuần túy; cũng không có gì cao quí nơi vạn vật mà chỉ là tự
nhiên đơn thuần, nhưng tất cả đã được nâng lên một bình diện cao hơn và mang
tính cách linh thánh nhờ sự cứu chuộc của Đức Kitô. Vì thế mà niềm vui đạo lý
được bao hàm trong niềm vui đời Kitô hữu: là một thực tại siêu nhiên ngay trong
những gì xem ra rất tự nhiên, do tình yêu Thiên Chúa đã đổ tràn trên cuộc sống
của con người.
III. NIỀM VUI ĐỜI KITÔ HỮU
Niềm vui
đời Kitô hữu trước tiên là một ân ban được làm con cái Thiên Chúa. Đó là
niềm vui khai mở mọi niềm vui. Biết rằng, bước theo Chúa là từ bỏ mình,
vác thập giá hằng ngày mà đi theo, nhưng đó lại là sự “hãnh diện” của đời Kitô
hữu (x. Gl 6, 14), và là con đường đi lên làm triển nở nhân cách vẹn toàn.
Hơn nữa, sau thập giá còn là vinh quang dành cho những tâm hồn quả cảm.
1. Niềm vui được làm con Thiên Chúa
Niềm vui
đời Kitô hữu trước tiên là hoa trái của Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho chúng ta
trở nên con cái Thiên Chúa, cảm nghiệm và hưởng nếm được sự tốt lành của Người,
và gọi Người là “Abba”, Cha ơi (x. Rm 8,15). Niềm vui là dấu chỉ Thiên Chúa
đang hiện diện và hành động nơi chúng ta.
Niềm vui
đời Kitô hữu cũng là niềm vui đúng đạo lý, nhưng lại mang tính siêu vượt, vì
còn là niềm vui của con cái Thiên Chúa, được xác lập bởi mối liên hệ sung mãn với
Đức Kitô, là đời sống trong Đức Kitô. Đức Kitô đã không ngừng hiện diện trong Chúa Cha, nên chúng ta cũng không
ngừng hiện diện trong Đức Kitô, Đấng cứu độ duy nhất cho
toàn thể nhân loại. Niềm vui lớn lao duy nhất vượt trên mọi niềm vui, chính là
niềm vui ơn cứu độ mà Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta, qua cái chết và sự phục
sinh của Ngài. Và Bát phúc chính là bí quyết phát sinh niềm vui bất tận cho đời
Kitô hữu mà Chúa Giêsu đã công bố. Vì thế“Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần
thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,12). Từ đó
chúng ta nhận thấy rằng:
- Niềm vui đời Kitô hữu cũng đặt cơ sở trên sự
thật, nhưng là sự thật phát xuất từ Thiên Chúa: là sự thật trên mọi sự thật, được
mạc khải qua Đức Giêsu Kitô, chứ không phải sự thật của những triết thuyết hay
giáo thuyết nào khác. Mọi sự thật do con người tìm kiếm hay trải nghiệm có thể
bất túc hay bất toàn. Sự thật tuyệt đối chỉ có nơi Thiên Chúa, Đấng Toàn Chân,
mà mọi sự thật đều qui hướng về.
- Niềm vui đời Kitô hữu cũng đặt cơ sở trên sự
thiện, nhưng không chỉ là sự thiện luân lý mà còn là sự thiện trên mọi sự thiện,
sự thiện nơi Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thánh thiện, Đấng ban cho chúng ta
được thông phần bản tính Thần Linh của Người trong Đức Kitô (x. 2Pr 1, 4). Sự
thiện tuyệt đối chỉ có nơi Thiên Chúa, Đấng Toàn Thiện, mà mọi sự thiện đều qui
hướng về.
- Niềm vui đời Kitô hữu cũng đặt cơ sở
trên cái đẹp, nhưng là cái đẹp bắt nguồn từ Thiên Chúa. Người đã thể hiện cái đẹp
siêu phàm của tình yêu Người qua Đức Giêsu, Đấng đã chết vì tội lỗi nhân loại
chúng ta, vì “không có tình yêu nào cao đẹp cho bằng tình yêu của người
đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15, 13). Cái đẹp tuyệt đối
chỉ có nơi Thiên Chúa, Đấng Toàn Mỹ, mà mọi cái đẹp phải qui hướng về.
Tự bản chất, niềm
vui người Kitô hữu vượt trên tất cả, vì là niềm vui của con cái Thiên Chúa. Nơi
nào có Thiên Chúa, ở đó có niềm vui thực sự, vì “Chỉ Thiên Chúa mới đem
lại sự thỏa mãn” (Tôma Aquinô). Niềm vui của đời Kitô hữu không chỉ vượt xa hẳn những lợi lộc vật chất và sự thỏa mãn trần
tục, không chỉ là niềm vui thỏa đáng cho khát vọng thâm sâu, mà còn vì mọi niềm
vui hôm nay đều hướng đến niềm vui vô tận là chính Thiên Chúa, Đấng là suối nguồn
hạnh phúc muôn thuở của con người.
2. Niềm vui trong Chúa
Niềm vui
trong Chúa được
phác họa qua cuộc đời Thánh Phaolô, như là nhà
vô địch và là sứ giả của niềm vui, cho dẫu rằng ngài đang trải nghiệm sự thất vọng
và đang trong tình trạng bị giam cầm. Ngài viết “vì đối với tôi, sống
là Đức Kitô và chết là một mối lợi” (Pl 1, 21), nên ngài có thể giữ niềm
vui ngay cả khi ngài trong tù, khi bị đánh đập, hoặc là khi bị đặt trong những
tình trạng nguy hiểm. Đó là niềm vui trong Chúa, không phụ thuộc vào bất cứ
hoàn cảnh nào bên ngoài. Từ những trải nghiệm đó, ngài đã phấn
khích các Kitô hữu một cách mạnh mẽ: “Vui lên anh em” (Pl
4,4).
Chính vì
được gặp gỡ Chúa, ở bên Chúa, sống trong Chúa, cảm nếm ngọt ngào được tình yêu Chúa, nên người Kitô
hữu vui ngay cả khi họ đang đói khát, mệt mỏi, đau đớn, cô đơn, tù đày, bị ngược
đãi hoặc bị đối xử tàn nhẫn. Quả thật, “Vui mừng là một trong những đặc
tính của sự thánh thiện” (P. Faber).
Niềm vui
trong Chúa không phải từng lúc, từng nơi, mà là niềm vui không ngơi như một
dòng chảy qua mọi tình trạng của cuộc sống. Càng biết khiêm tốn nép mình trong
Chúa thì niềm vui còn nằm ngay trong những khía cạnh tiêu cực của cuộc đời. Ta
có thể vui ngay trước những lời chê bai, phê bình chỉ trích của người khác, bởi
vì điều quan trọng là sự thật về bản thân mình. Thánh Têrêsa rất vui khi người
ta phê phán tiêu cực về Ngài, và Ngài rất sợ những lời khen lao ca ngợi của người
khác. Vì thế mà Ngài luôn xin ơn được người đời khinh chê.
Chính
Chúa cũng đã bị cáo gian, bị hiểu lầm, bị phủ nhận, bị chụp mũ…. huống chi cuộc
sống yếu hèn của mỗi người chúng ta, ai lại không lầm lỗi. Vì thế, có bị chê
bai, cười nhạo đi nữa cũng là chuyện thường tình. Ta cũng có thể vui trước những
yếu đuối và lầm lỗi của mình. Thánh Têrêsa nói rằng: “Em còn rất nhiều yếu
đuối và bất toàn, nhưng em rất vui. Đối với em, sa ngã hằng ngày
cũng chẳng hệ gì, vì nhờ vậy mà em thấy mình yếu hèn và biết nương
tựa vào Chúa hơn”.
Để niềm
vui trong Chúa được lớn thêm mỗi ngày, ta cần đào sâu tinh thần lạc quan, tin
tưởng và phó thác:
- Vui với cái nhìn lạc quan
Mọi diễn
biến trong cuộc sống thường không đơn giản, không như ta mong muốn mà có khi
còn ngược lại. Điều quan trọng là tâm trạng và phản ứng của mỗi người như thế
nào trước mỗi tình cảnh. Điều đó tùy thuộc góc độ nhìn và cách thế nhìn vấn đề
của mỗi người: “Hai người cùng nhìn ra song cửa. Kẻ thấy bùn đen, kẻ thấy
sao” (F. LangBridge).
Đối với
người có cái nhìn lạc quan thì biết rằng mọi sự có thể do con người tạo nên,
nhưng tất cả đều nằm trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Vì thế, trước
những bóng tối người ta vẫn thấy ánh sáng; trước đám mây u ám người ta vẫn thấy
bầu trời trong lành.
Chúa
Giêsu đầy lạc quan khi Ngài trình bày dụ ngôn về Nước Trời giống như hạt
cải gieo trong ruộng (x. Mt 13, 31), hay như nắm men vùi trong
bột (x. Mt 13, 33). Như Chúa Giêsu, người Kitô hữu luôn lạc quan khi
nhìn sự việc, cho dù xem ra có nhiều điều trắc trở. Sống tinh thần lạc quan
không có nghĩa là như con Đà Điểu chui đầu vào đống cát để tránh né nguy hiểm
đang xảy ra, nhưng là luôn giữ quân bình nội tâm giữa những khó khăn hằng ngày.
Người lạc
quan là con người thực tế, biết mình cần phải làm gì để góp phần giải quyết vấn
đề một cách tích cực hơn theo khả năng của mình, chứ không làm ngơ mặc tình cho
cuộc sống dun dủi, đẩy đưa, may nhờ rủi chịu.
Tuy nhiên
người lạc quan có những khi cũng phải biết chấp nhận sự giằng co giữa lý thuyết
và thực tế. Lý thuyết bao giờ cũng đẹp, nhưng thực tế thì bản thân mình và cộng
đoàn còn phải phấn đấu vươn lên từng ngày. Người lạc quan không ảo tưởng, vì biết
rằng chẳng ai và chẳng cộng đoàn nào là hoàn hảo. Cuộc sống không có sự hoàn hảo
đúng nghĩa mà chỉ có hoàn hảo hơn mỗi ngày. Vì thế, ta vẫn vui trước những khó
khăn, những thiếu hụt và giới hạn của mình, của người khác. Như vậy người lạc
quan cũng là người khôn ngoan:“Người khôn ngoan là người không buồn về những
gì mình không có, nhưng biết vui về những gì mình đang có” (Epidetus).
- Vui với lòng tin tưởng
“Tin tưởng
là sức mạnh của cuộc đời” (Léon Tolstoi).
Sở dĩ người ta lạc quan là vì người ta tin tưởng: tin vào Chúa và tin vào chính
mình, nghĩa là tin vào quyền năng và lòng thương xót Chúa đi đôi với nỗ lực của
chính mình. Nhờ đó người ta luôn có cái nhìn tích cực trước mọi hoàn cảnh và sự
việc: biết tìm kiếm những gì tốt đẹp trong những cái dở dang; biết thu lượm những
cái nguyên vẹn trong những gì đổ vỡ; biết khai thông một lối nhỏ trên lộ trình
bế tắc; biết sáng tạo và tận dụng mọi khả năng của mình để biến khó khăn thành
cơ hội...
Bà
Magarita, thân mẫu của Cha Don Bosco, mỗi tối bà thường đem các con ra trước
sân nhà, giơ tay chỉ lên bầu trời và nói: “Chỉ khi nào màn đêm buông xuống,
chúng ta mới có thể nhìn thấy những vì sao lấp lánh trên trời”.
Suốt đời
Cha Don Bosco đã ghi nhớ lời khuyên dạy đầy khôn ngoan của mẹ. Đó là những tia
sáng hy vọng đã thắp lên, nhờ đó Cha Don Bosco đã trở nên thầy dạy, là nhà giáo
dục đức tin cho giới trẻ, nhất là các học sinh nghèo, những người bị đẩy ra bên
lề xã hội. Với tâm hồn lạc quan và tin tưởng, ngài đã huấn luyện các học sinh của
ngài cởi bỏ cái nhìn bi quan để khám phá những điều tốt lành chung quanh, tin
vào khả năng của mình và hướng nhìn tương lai với niềm hy vọng. Cũng như người
thanh niên nọ mỗi sáng vừa thức dậy, anh ta mở toang cửa sổ, hít thở không khí
trong lành của ngày mới và mỉm cười cất tiếng hát: “Đây là ngày Thiên Chúa dựng
nên, chúng ta hãy vui mừng hoan hỉ”.
Cho dù
trước mắt có những tình cảnh éo le và những thảm trạng không ngừng xảy ra,
nhưng Thánh Phaolô nói rằng, chúng ta bước đi bằng lòng tin, chứ không phải bằng
mắt (x. 2Cor 5, 7). Lòng tin mở ra một chân trời mênh mông cho lẽ sống làm người
và làm con cái Thiên Chúa: tin mình được cứu độ, được tha thứ, và được yêu
thương vô cùng. Thật vui mừng biết bao!
Thiên
Chúa cao cả không phải vì Ngài “toàn năng”, nhưng vì Ngài “toàn ái”. Ngài siêu
việt vì Ngài là “Tình yêu tuyệt đối”. Với đức tin, mắt phàm biến thành mắt thần,
nghị lực biến thành dũng lực. Người có đức tin trông thấy những điều mà kẻ khác
không trông thấy, làm được những cái kẻ khác không thể làm được. Đức tin là điều
kiện tiên quyết, cần và đủ để phép lạ xảy ra (x. Lc 7, 50; 8, 48). “Con
có tin không?”, đó là câu hỏi của Chúa Giêsu trước khi Ngài làm phép lạ
để cứu chữa bệnh nhân, để rồi sau đó Ngài kết thúc bằng câu: “Đức tin
con đã cứu con”. Chúa Giêsu không thể làm gì được cho con người khi họ
không có lòng tin (x. Mc 6, 5-6).
Thánh
Têrêsa cũng đã xác quyết “Chúa Giêsu có thể làm được mọi sự; lòng trông cậy
làm được những phép lạ”. Và Thánh nữ cho biết rằng: “Điều xúc phạm đến
Chúa Giêsu và khiến Thánh Tâm Ngài phải sầu khổ, đó là lòng thiếu tin tưởng vào
Ngài”.
Ngay cả đối
với các trọng tội, Têrêsa cũng không hề thất vọng: “Con cảm thấy dù lương
tâm con có đầy những tội ác tầy trời con có thể phạm, con cũng không mất lòng cậy
trông tin tưởng... Không gì có thể làm con sợ hãi, vì con biết phải xử làm sao
với tình yêu và lòng thương xót Chúa. Con biết muôn vàn tội lỗi con sẽ tiêu tan
trong nháy mắt như một giọt nước rơi vào giữa lòng than hồng”.
- Vui trong sự phó thác
Lạc quan,
tin tưởng gắn liền với tinh thần phó thác. Đó là đỉnh cao của niềm vui. Phó
thác theo ý Chúa muốn chứ không theo ý mình muốn. Vì chỉ có Chúa mới thấy những
gì tốt đẹp nhất cho cuộc đời mình. Luôn nhớ rằng, mọi công việc ta làm là của
Chúa, thành công hay thất bại của ta cũng chính là thành công hay thất bại của
Chúa. Chúa chỉ cần ta cố gắng hết mình. Phần còn lại, chính Chúa sẽ hành động,
cứ phó thác hết cho Ngài.
Ngay cả
anh chị em lương dân cũng biết: mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên.
Tài năng cỡ nào đi nữa mà Trời không muốn thì con người cũng đành bó tay. Cho
nên người quân tử theo Nho giáo xem ra rất lạc quan, vì luôn sống theo thiên mệnh:
làm hết sức, nhưng cũng phó thác hết mình.
Khi ta đã
sống tận tình, thì dù cuộc sống có còn nhiều tăm tối, nhiều cái trì trệ, dở
dang từ bản thân cho tới cộng đoàn, từ con người cho tới công việc, thì chúng
ta cứ hãy an tâm phó thác hoàn toàn cho quyền năng và lòng thương xót Chúa.
Cũng có đôi khi Chúa muốn để tình trạng yếu kém như thế là để chúng ta biết dựa
vào Chúa, chứ đừng dựa vào mình theo sự khôn ngoan của loài người. Thánh Têrêsa
cho đó là một ân ban lớn lao. Điều nguy hiểm khi con người chỉ cậy dựa vào sức
mình, đó mới chính là vực thẳm đáng sợ nhất.
Trong sự
cậy dựa vào Chúa, qua thư gởi chị Céline, Têrêsa viết : “Quả thực, em không
luôn trung tín đâu, nhưng không bao giờ em nản chí, em phó thác mình trong tay
Chúa Giêsu. Như hạt sương nhỏ, em chìm sâu vào tận đài ‘Hoa Đồng nội Cực
Thánh’, và nơi đó em tìm lại được những gì đã mất, và còn hơn thế nữa”.
Thánh Nữ
còn dám quả quyết: “Dù em có thấy lửa tình yêu như tắt lịm trong lòng, em vẫn
cố ném vào đống tro tàn những cọng rác nho nhỏ và em tin chắc thế nào rồi lửa
cũng bùng cháy lại”.
Quả là một
sự tin tưởng và phó thác hết mình, một sự liều lĩnh hoàn toàn trong tình yêu, để
Têrêsa có được niềm vui ngay trong mọi hoàn cảnh khốn khó. Phó thác không phải
là thái độ nhắm mắt đưa chân, nhưng là can đảm bước qua trong sự liều lĩnh để
tiến tới tình yêu. Liều lĩnh trong tình yêu đối với người đời thì quả thật nguy
hiểm, nhưng đối với Thiên Chúa lại là một sự an toàn. Trong mọi tình huống,
Chúa luôn là niềm vui khôn tả cho cuộc đời chúng ta, chỉ có điều chúng ta có
dám phó thác cuộc đời mình cho Chúa đề Ngài hành động?
Người sống
trong niềm vui là người luôn biết mở nụ cười. Một nụ cười bằng mười
thang thuốc bổ, không chỉ bổ thân xác mà bổ đời sống tinh thần, không
chỉ bổ cho mình mà còn bổ cho mọi người chung quanh. “Nụ cười là sức mạnh
lớn nhất của thế giới. Ở đâu không có nụ cười, ở đó sự sống kể như đã tắt. Ở
đâu có nụ cười, ở đó cuộc sống trở nên phong phú” (Zundel).
Nụ cười
chính là sức mạnh của Thiên Chúa trao ban cho những tâm hồn thuần khiết. Hãy cười
lên! nụ cười hồn nhiên của trẻ thơ, nụ cười ngọt ngào của tình yêu, nụ cười hân
hoan của cuộc sống trong Chúa mỗi ngày.
IV. PHƯƠNG SÁCH ĐỂ DUY TRÌ NIỀM VUI MỌI NGÀY
1. Lời Chúa
Lời Chúa chính là “sách lược”
hữu hiệu để người Kitô hữu vẫn giữ được niềm vui khi đối mặt với mọi tình huống.
Bởi vậy, “Gặp được lời Chúa, con đã nuốt vào, lời Ngài làm cho con hoan hỉ,
làm vui thoả lòng con” (Gr 15,16). Nhờ
vậy mà người Kitô hữu có thể:
- Vui trong
khốn khó: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can
đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
- Vui trong
thử thách: “Anh em hãy cho mình là chan chứa niềm vui khi gặp thử
thách trăm chiều (Gc 1,2-3).
- Vui trong
yếu đuối: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn
nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2
Cr 12,10).
- Vui trong
thiếu thốn: “Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn
vẹn” (Ga 16,24).
- Vui trong
bất hạnh: “Tang tóc họ, ta biến thành hoan hỷ, và sau cảnh sầu thương,
sẽ cho họ được an ủi vui mừng” (Gr 31,13).
- Vui trong
châu lệ: “Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng
hò reo” (Tv 30,6).
- Vui trong
đau buồn: “Bây giờ anh em đau buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng
anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” (Ga
16, 22).
- Vui trong
phấn đấu: “…vì tên của anh em được ghi trên trời” (Lc 10,20).
- Vui
trong Thánh ý Chúa: “Thánh ý Ngài là gia nghiệp con mãi mãi, vì đó là
hoan lạc của lòng con… mệnh lệnh của Ngài vẫn làm con vui thỏa” (Tv
119,111-143).
- Vui cả
khi bị ngược đãi: “vì Nước trời đã dành cho họ.” (Mt 5,
12).
2. Niềm vui hiến trao
Niềm vui
đời Kitô hữu không phải là niềm vui riêng mình, nhưng tự bản chất là niềm vui
trao ban, chia sẻ, để mọi người được vui trong niềm vui của Thiên Chúa. Niềm
vui trong Chúa chính là niềm vui luôn khơi sâu nới rộng, luôn được dàn trải và
vươn xa tới mọi người. Chẳng ai gặp gỡ và đón nhận Đức Giêsu mà có thể ngồi yên
trong vị thế của mình, nhưng rất hăng say nhiệt tình để đem lại niềm vui sống
cho anh chị em mình.
“Ơn gọi của
Giáo Hội là mang lại niềm vui cho thế giới, một thế giới buồn phiền và âu lo trước
bao nhiêu hiểm họa và đe dọa của sự dữ, chưa biết đặt niềm tin vào đâu. Vì thế,
niềm vui là một chứng từ quan trọng cho vẻ đẹp và tính đáng tin của đức tin
Kitô giáo”[3]. Chính niềm vui đời Kitô hữu mở ra
cho tình yêu Thiên Chúa được lan tỏa và sống động trong nhân loại.
Đời Kitô
hữu không thể hạnh phúc nếu những người xung quanh mình không hạnh phúc. Niềm
vui thu vén và hưởng thụ cho cá nhân mình không phải là niềm vui đời Kitô hữu.
Chính vì vậy mà chúng ta rất vui khi ra khỏi bản thân của mình để đi đến với
tha nhân trong từng cảnh ngộ của họ với tâm tình yêu thương, phục vụ, chỉ cho họ
thấy kho tàng quý giá là chính Chúa Giêsu, Đấng chính là niềm vui bất tận trong
tâm hồn mỗi người.
Trong ý
nghĩa đó, Đức Bênêđictô XVI đã tha kêu gọi
chúng ta: “Hãy đến với những ai đang đau khổ, những ai
đang tìm kiếm, và mang lại cho họ niềm vui mà Chúa Giêsu muốn trao ban. Hãy
mang niềm vui ấy đến cho gia đình các con, trường học của các con, nơi làm việc
của các con và cho bạn bè của các con, ở bất cứ nơi đâu các con sống. Các con sẽ
thấy niềm vui ấy lan truyền như thế nào. Các con sẽ nhận được gấp trăm: niềm
vui cứu độ cho chính các con, niềm vui được thấy Lòng Thương Xót của Thiên Chúa
hoạt động nơi các tâm hồn. Và khi các con đến gặp Chúa vào ngày sau hết, các
con sẽ nghe Chúa nói: “Tốt lắm, đầy tớ tốt lành và trung tín của
Ta, hãy vào hưởng niềm vui cùng chủ ngươi!” (Mt 25,21)[4].
Niềm vui
hiến trao của đời Kitô hữu phác họa lại niềm vui của Mẹ Maria: “Linh hồn
tôi ngợi khen Chúa, tâm trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu Độ
tôi” (Lc 1,46-47). Mẹ đã tận hiến hoàn toàn cho ý định cứu độ của
Thiên Chúa, nên Mẹ chan chứa vui mừng. Mẹ được kêu cầu là “Đức Bà làm
cho chúng con vui mừng” vì Mẹ đã ban cho nhân loại chúng ta Chúa
Giêsu. Tiếp nối tâm tình và tính cách của Đức Maria, Mẹ chúng ta, người Kitô hữu
làm cho thế giới được hân hoan vui mừng trong ơn cứu độ của Thiên Chúa, và đón
chờ ngày hoan lạc trong Chúa muôn đời.
Lời Nguyện
Lạy
Chúa!
Xem ra thú vui thì rất nhiều,
còn niềm vui chẳng có bao nhiêu.
Con
nhận biết không có niềm vui ngoài Chúa,
chỉ có niềm vui trong Chúa.
Chính trong Chúa mà niềm vui lại dâng tràn,
Vì Chúa là suối ngàn của niềm vui.
Con
muốn gạn lọc bản thân mình
khỏi những đam mê phàm tục,
khỏi những thú vui phàm hèn,
để giữ một tâm hồn thanh tịnh
với những niềm vui thanh khiết.
Xin đừng
để con quá tính toán lo toan,
nhưng luôn nhẹ nhàng và thanh thoát,
sống thật vui với Chúa, với mọi người.
Chúa
là niềm vui bất tận cho đời chúng con,
Xin cho con chẳng cần tìm kiếm gì ngoài Chúa. Amen.
Lm. Thái Nguyên
Nguồn: simonhoadalat.com
[1] Trong phần này chúng tôi tóm tắt và khai triển theo:
http://tamgiaodongnguyen.com/VanUyen/NiemVuiCaoDai.htm
[2] D. Stafford-Clark, Freud Đã Thực Sự Nói Gì?, tr. 151.
[3] Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhân Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXVII.
[4] Như trên.