NGƯỜI TRẺ TRƯỞNG THÀNH TOÀN DIỆN VÀ HUẤN LUYỆN LƯƠNG TÂM: ĐỐI THOẠI GIỮA
LƯƠNG TÂM VÀ HUẤN QUYỀN
BS Trần Như Ý- Lan, Dòng Đức Bà
WHĐ (22.12.2020) – Hiện nay, vấn đề lương tâm là
một chủ đề nóng. Lương tâm giữ một vị trí ưu tiên trong phân định và chọn lựa
luân lý. Về cơ bản, lương tâm và Huấn quyền không đối kháng nhau vì cả hai cùng
xuất phát từ Thiên Chúa, cùng tìm kiếm chân lý[1].
Thực tế, đôi khi cả hai dường như không chung tiếng nói. Trong Giáo hội vẫn có
nhiều người nại đến tự do lương tâm cá nhân để không tuân phục giáo huấn Giáo hội
về cấm ngừa thai nhân tạo, sống thử, phá thai, thụ thai nhân tạo, ly dị tái
hôn, luyến ái đồng tính, chuyển giới, nghiên cứu tế bào gốc từ phôi người...
Đây thật là một cơn bão xoáy về luân lý. Chúng ta được dạy rằng lương tâm có
quyền tự do bất khả xâm phạm. Cùng lúc, chúng ta thường được dạy bảo các quy luật
nhiều khi mang tính tuyệt đối đến mức chúng ta tự hỏi lương tâm đóng vai trò thế
nào? Và, vài câu hỏi thực tế: chúng ta có hiểu đúng về lương tâm? Có lạm dụng
tiếng nói lương tâm? Có hiểu đúng những gì Giáo hội dạy? Huấn quyền có dành chỗ
đứng xứng đáng cho lương tâm trong đời sống?
Chính vì thế việc huấn luyện lương tâm trở thành
một điều thiết yếu đối với việc đào tạo người trẻ trưởng thành toàn diện, cách
riêng người linh mục để hướng dẫn mục vụ sau này. Các vị mục tử có trách nhiệm
đào tạo lương tâm Kitô giáo của người trẻ, biết nhận ra lời mời gọi của Thiên
Chúa trong mọi cảnh huống của đời sống và biết đáp trả theo những đòi hỏi xác
thực của niềm tin Kitô giáo và của đức ái. Trong năm mục vụ Giáo hội Việt Nam
hướng đến người trẻ trưởng thành toàn diện, bài viết tập trung vào việc đối thoại
giữa Huấn quyền và lương tâm.
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu bối cảnh trong
đó Huấn quyền và lương tâm hoạt động và tương tác.
I. CẤU TRÚC SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO (GLHTCG)
Trong một bài trình bày bố cục của sách GLHTCG
đăng trên tuần báo Osservatore Romano,
ngày 06/01/1993, Đức giám mục Christoph von Schoenborn, thư ký ủy ban soạn thảo
sách GLHTCG, lưu ý rằng bốn phần của sách nối kết với nhau thành một toàn thể,
tựa như cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Một đàng là Thiên Chúa đến với
con người qua nhiệm cục cứu độ, qua việc tạo dựng, cứu độ và thánh hóa (Kinh
Tin kính, phần thứ nhất); Người ban cho nhân loại ơn thánh (các bí tích, phần
thứ hai) cũng như những điều cần thiết khác để ta có thể sống đẹp lòng Người (cầu
nguyện, phần thứ bốn). Đàng khác, con đường dẫn con người đến cùng Thiên Chúa
không phải chỉ giới hạn trong phần thứ ba (Mười Điều Răn), nhưng bao gồm toàn bộ
cuốn sách bốn phần. Đức Cha Von Schoenborn nhận định rằng cấu trúc này dựa theo
sách Tổng Luận Thần Học của thánh Tôma Aquinô.
II. THẦN HỌC LUÂN LÝ THEO THÁNH TÔMA AQUINÔ
Có thể tóm Thần học Luân lý (THLL) của thánh
Tôma vào ba điểm[2]:
1. Luân lý dựa trên các nhân đức: ba
nhân đức đối thần: tin, cậy, mến; và bốn nhân đức trụ: khôn ngoan, can đảm, tiết
độ, công bằng.
Trước hết, điều trên có nghĩa là luân lý không
phải chỉ gồm những điều tiêu cực ngăn cấm, nhưng còn gồm những điều tích cực,
khuyến thiện. Hơn nữa, mỗi nhân đức được thánh Tôma gắn với một ơn thánh của
Chúa Thánh Thần và một chân phúc của Bài Giảng Trên Núi, diễn tả rằng đời sống
luân lý của Kitô hữu cần phải đạt đến sự trưởng thành siêu nhiên, khi con người
biết để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn sống theo tinh thần mà Đức Kitô đã đề ra
trong Bài Giảng Trên Núi.
Khi đặt đức tin đứng đầu trong các nhân đức,
Thánh Tôma cho thấy rằng luân lý Kitô giáo có đặc nét riêng so với các nền luân
lý khác bởi vì nó phản ánh một thực tại mới về con người, nhờ đức tin chúng ta
biết được qua Thiên Chúa mạc khải. Theo vị thánh, chân lý nền tảng của luân lý
là con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Điều đó giả thiết rằng con
người cần phải luôn chiêm ngắm Thiên Chúa để tìm ra mẫu mực mà cư xử cho “giống”
Người; mặt khác, con người chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc và triển nở toàn vẹn
khi được kết hợp với Đấng đã tạo dựng nên mình và đồng thời cũng là cứu cánh đời
mình.
2. Luân lý xây dựng trên hạnh phúc con người
Ngay từ đầu của phần luân lý, Thánh Tôma bàn đến
hạnh phúc của con người. Con người tự bản năng khao khát hạnh phúc, và tìm cách
để đạt tới hạnh phúc ấy. Các hành vi luân lý như những phương thế để tìm về hạnh
phúc: cái gì dẫn tới hạnh phúc là tốt, cái gì làm cho ta mất hạnh phúc là xấu.
Hiểu như vậy, xác định điều đúng sai, thiện ác không xuất phát từ một mệnh lệnh
bên ngoài, nhưng là nằm trong bản chất nội tại của con người, tùy theo nó giúp
cho con người đạt được cứu cánh của đời người hay không.
3. Vai trò của luật luân lý
Thánh Tôma đặt câu hỏi và cũng chính ngài trả lời.
Làm sao biết được điều gì giúp con người đạt tới cứu cánh và điều nào thì
không? Lý trí con người không luôn sáng suốt để nhận biết điều ấy! Chính vì vậy
mà cần có người chỉ bảo cho nó: đó là luật. Luật như là phương thế mà Thiên
Chúa dạy bảo con người. Khi trình bày về luật, Thánh Tôma đã theo sát diễn
trình của mạc khải : trước tiên là mạc khải qua việc tạo dựng, nghĩa là Luật Tự
Nhiên; kế đó là Luật Cũ (luật Môsê) và tiếp theo là Luật Mới (Luật Tin Mừng).
Luật Mới hệ tại chính Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta. Luật Mới không viết
trên bia đá, nhưng ghi khắc trong tâm khảm con người.
Luật Mới chính là điểm đặc trưng của luân lý
Kitô giáo: Kitô hữu phải sống theo Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho ta nhờ
công cuộc cứu độ của Đức Kitô, mà ta lãnh nhận qua đức tin và các bí tích. Đặc
trưng của Luật Mới là không những Chúa Kitô dạy bảo cho ta con đường phải đi,
mà chính Người là Đường, và Người còn ban cho ta ơn thánh để ta có thể hoàn tất
cuộc hành trình trần thế, để trổ sinh hoa trái của Thánh Thần và các chân phúc
nữa. Luân lý Kitô giáo không chỉ gồm luật lệ, mà trước hết chất chứa nguồn lực
năng động thúc đẩy con người đi tìm những gì tuyệt hảo nhất để biểu lộ sức sống
mới của Chúa Thánh Thần, của đức ái.
Như thế, THLL Kitô giáo theo cái nhìn của Thánh
Tôma được trình bày gắn liền với lịch sử mạc khải, với Thiên Chúa, đồng thời
hòa hợp với những khuynh hướng tự nhiên của con người như mong muốn hạnh phúc,
muốn sống, muốn biết chân lý, muốn tương quan với tha nhân.
III. CÁC MỐI QUAN TÂM CỦA THẦN HỌC LUÂN LÝ HIỆN
NAY[3]
THLL quan tâm đến mạc khải của Thiên Chúa về
tình yêu Thiên Chúa tỏ lộ trong Đức Giêsu, và qua Chúa Thánh Thần, như lời mời
gọi sự đáp trả của chúng ta. THLL nhìn sự đáp trả của con người đối với sáng kiến
của Thiên Chúa về tình yêu dâng hiến như là chính tâm điểm của đời sống luân
lý.
THLL còn muốn tìm hiểu về phương thức mà người
tín hữu đáp trả lại sáng kiến tình yêu của Thiên Chúa, qua đời sống đức tin và
luân lý của mình. Do đó, THLL chú tâm vào việc thực hành đức tin Công Giáo vào
sự hình thành thể loại người mà Kitô hữu phải trở thành (‘đạo đức của hữu thể’,
the ethics of being, hay ‘đạo đức về tính cách’, characters ethics); và thể loại
hành vi mà chúng ta phải thi hành (‘đạo đức về hành xử, the ethics of doing). Cả
hữu thể và hành xử, hay tính cách và hành vi, tạo nên mối liên kết phụ thuộc và
tác động lẫn nhau mà THLL phải luôn xem xét cùng lúc.
Đạo đức về hữu thể: Luân lý quan tâm về nội tâm
con người, hay là tính cách nhân vị. Nói cách khác, “chúng ta là ai” là điều có
ý nghĩa thiết thân về mặt luân lý. Vì lý do này, THLL phải chú ý đến đạo đức của
hữu thể, vốn tập trung vào những gì đang xảy ra cho con người thực hiện hành
vi. “Đạo đức của hữu thể” trong một bối cảnh Kitô giáo sẽ hỏi “tôi phải trở
thành thể loại người nào bởi vì tôi tin vào Đức Kitô?”
Đạo đức về hành xử: Tuy nhiên, nội tâm, cũng như
ý định tốt, tầm nhìn, cũng chưa đủ cho luân lý. Nội tâm biểu đạt qua hành vi.
Các hành vi đúng đắn xuất phát từ con người tốt lành, “nhìn quả biết cây”. “Đạo
đức của hữu thể” chú ý vào con người tốt; “đạo đức về hành xử” chú ý vào hành
vi đúng đắn. Trong bối cảnh Kitô giáo, nó hỏi “kiểu loại hành động nào tôi phải
thực hiện bởi vì tôi tin vào Đức Kitô?” Có thể minh họa điều này bằng câu chuyện
người Samari nhân hậu, kết thúc bằng lời dạy của Đức Kitô: Hãy đi và làm như vậy!
Bước đầu đời sống luân lý, hành vi được hướng dẫn
bởi luật lệ. Nhưng nếu chỉ tập trung vào hành vi và luật lệ thôi thì chưa đủ
cho sự hiểu biết về phạm vi hoạt động của luân lý. Nếu quá tập trung vào các
hành vi, chúng ta có nguy cơ nhìn chúng như là những gì ở bên ngoài chúng ta và
như là có một thực tại riêng của các hành vi đó. Hành vi diễn tả con người. Sự
tốt lành luân lý là phẩm chất của con người, được cấu thành không chỉ do bởi
các hành vi tuân giữ lề luật mà còn và quan trọng không kém, bởi sự vun đắp các
nhân đức, thái độ sống và tầm nhìn. Hơn nữa, nếu quá chú ý vào luật lệ, chúng
ta đánh mất cái nhìn về đời sống luân lý Kitô hữu trước hết là đáp trả lời mời
gọi bước theo Đức Kitô, sống theo Chúa Thánh Thần, trở thành những con người biết
yêu thương đúng đắn.
Lưu tâm của đạo đức về hành xử là thực hiện quyết
định để giải quyết các xung đột về các giá trị luân lý để chúng ta có thể đạt đến
hành vi đúng. Từ quan điểm này, suy tư THLL không chỉ về trách nhiệm và bổn phận
của người làm hành động mà còn về hoàn cảnh tạo nên các tình huống luân lý. Những
điều này được xem xét dưới ánh sáng của các quy phạm hay nguyên tắc luân lý.
Như thế, đạo đức về hành xử lưu tâm đến Luật Thiên Chúa, giáo luật và dân luật
nói chung.
Tóm lại, về cơ bản, THLL quan tâm đến đời sống nội
tâm con người, tương quan con người với Thiên Chúa, và cách thức con người thể
hiện đức tin trong các mối tương quan với chính mình, với tha nhân, với thế giới
trong đó con người sống, bằng những tầm nhìn, nhân đức, thái độ, chọn lựa, hành
vi cụ thể hằng ngày. Hiểu đúng lương tâm luân lý là nền tảng cho cách hiểu của
chúng ta về luân lý và cách sống ở đời.
IV. LƯƠNG TÂM
1. Quan điểm Kinh Thánh về Lương Tâm[4]
Lương tâm trong Cựu Ước
Từ Syneidesis,
theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là lương tâm, xuất hiện một lần duy nhất trong sách
Khôn ngoan (Kn 17, 10). Theo các nhà chú giải, đây là một câu văn chịu ảnh hưởng
của văn hóa Hy Lạp: “Kẻ gian ác tự đưa ra bằng chứng để lên án chính mình là
hèn hạ bị lương tâm dày vò, nó luôn cảm thấy mình khổ sở”.
Người Do Thái nhìn kinh nghiệm về điều tốt và điều
xấu theo một viễn tượng ngoại tại, khách quan, và đôi khi mang tính tập thể.
Các truyền thống và những người lãnh đạo tôn giáo làm trung gian cho thánh ý
Thiên Chúa. Tuy nhiên họ cũng có kinh nghiệm về tiếng nói của Thiên Chúa từ bên
trong chính mình. Cách hiểu lương tâm mang tính nội tại như thế là một đóng góp
lớn lao của các ngôn sứ trong dân Do Thái. Lương tâm là cái gì sâu kín nhất nơi
con người, tại nơi đó họ được mời gọi trung thành với Thiên Chúa của Giao ước.
Ở đây ta có thể nói nền tảng của Cựu Ước là Nhân
học tôn giáo của người Do Thái. Trong bối cảnh giao ước, Thiên Chúa ngỏ lời với
con người: “Vì LỜI ở rất gần ngươi, nơi miệng ngươi, nơi lòng ngươi để ngươi
thi hành” (Đnl 30, 14). Ý nghĩa và giá trị tôn giáo trong cuộc sống của người
Do Thái nằm ở chỗ trung thành với lời Chúa dạy. Muốn được như thế, con người phải
biết chăm chú lắng nghe lời Chúa, trong đó họ tìm thấy sự khôn ngoan để phân biệt
tốt xấu. Thế mà luật Chúa lại ở tận đáy lòng (Tv 40, 9) và cũng từ nơi đáy lòng
mình, con người giữ trọn lời Chúa để khỏi lỗi phạm đến Người (Tv 119, 11). Sự
hiện diện của lời Chúa là món quà và con người có tự do đón nhận hay từ chối.
Theo lối nhìn này, sự phân biệt tốt xấu liên kết với lời Chúa, là Đấng mời gọi
con người sống trung thành với Người.
Đây là cuộc gặp gỡ giữa lời Chúa và sự đáp trả của
con người. Giao ước, lời Chúa, con người lắng nghe và vâng phục, những điều này
tạo thành một cái nền cho phép hiểu hiện tượng lương tâm trong Cựu Ước. Với bối
cảnh hiện sinh như thế trong đó người Do Thái đặt mình trong mối tương quan
giao ước giữa họ với Chúa, thì chuyện không thấy có từ ngữ lương tâm trong Cựu
Ước không phải là một điều gì khiếm khuyết nghiêm trọng. Người Do Thái nhận thức
mối tương quan đó như một giá trị sống còn cho đời sống tôn giáo của họ và thực
trạng đặc biệt này đưa họ đến việc chấp nhận những đòi hỏi luân lý nghiêm túc,
để rồi từ nơi sâu thẳm nhất trong con người mình, họ tự do thực hiện những đòi
hỏi đó.
Theo Cựu Ước, từ cõi lòng, nơi sâu thẳm nhất
trong con người, qua Chúa Thánh Thần tác động, con người lãnh nhận một thiên hướng
bên trong (inner disposition) và lời mời gọi tránh điều dữ, làm điều lành, để
chân thành tìm kiếm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực thi thánh ý Người. Cõi lòng bị
lung lay nếu ta không tuân theo tiếng nói nội tâm này.
Người Do Thái cho rằng Chúa Thánh Thần có thể chạm
đến và kêu gọi họ từ nơi cõi lòng. Tuy nhiên chính cõi lòng sẽ khen chê hành vi
của ta: “Lòng tôi không xấu hổ thẹn thùng về bất cứ ngày nào trong đời tôi” (G
27, 6). Hoặc khi vua Đa-vít muốn chứng tỏ sức của mình và của dân Ít-ra-en bằng
cách cho lệnh kiểm tra dân số thì “lòng ông bùi ngùi sau khi kiểm tra dân số”
(2Sm 24, 10) vì đây là hành vi bị Thiên Chúa coi là không tin tưởng vào sự quan
phòng và dẫn dắt của Người. Điều này có nghĩa là từ trong cõi lòng, người làm
điều xấu biết rằng mình đã làm điều sai trái chống lại Chúa. Đây không phải là
cái biết theo lý trí, nhưng chính là sự dằn vặt sâu xa nơi cõi lòng.
Không chỉ làm công việc tố cáo tội ai sau khi
người đó làm điều xấu mà thôi, nhưng cõi lòng còn có thể lắng nghe Chúa Thánh
Thần, là Đấng soi sáng và hướng dẫn con người sống ngay chính. Nếu ai có làm điều
gì xấu thì Chúa Thánh Thần thúc đẩy họ chạy đến gặp gỡ Chúa (x. Is 65, 14). Từ
trong đáy lòng được Chúa Thánh Thần tác động, tác giả Thánh Vịnh đã cầu nguyện:
“Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho
con nên chung thủy, xin đừng nỡ đuổi con không cho gần nhan thánh Chúa, đừng cất
khỏi con Thần Khí thánh của Ngài” (Tv 50, 12-13). Như thế sự sám hối trong Cựu
Ước thường bắt đầu với cõi lòng tan vỡ.
Lối nhìn sâu sắc này về cõi lòng con người nơi
đó họ được Thần Khí Chúa chạm đến và đánh động, vượt lên trên tính luân lý bề
ngoài. Sứ điệp lớn lao được các vị ngôn sứ công bố đó là Thiên Chúa muốn viết lề
luật của Người nơi cõi lòng là nơi sâu thẳm nhất nơi con người (x. Gr 31,
29-34; Ed 14, 1-3 và 36, 26). Dù cõi lòng con người có thể trở nên chai đá,
nhưng sứ điệp của các ngôn sứ cho thấy Thiên Chúa có thể đổi mới ngay cả những
cõi lòng chai đá nhất. Người ban cho họ sự nhạy cảm mới và giúp họ biết cởi mở
cõi lòng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.
Tóm lại, chính cõi lòng lắng nghe tiếng Chúa, hiện
diện trước mặt Chúa và trở thành nơi cho lương tâm ngự trị. Nói cách khác, cõi
lòng chính là lương tâm của con người.
Lương tâm trong Tân Ước
Tân Ước cũng không có từ chuyên biệt để chỉ
lương tâm. Chúa Giê-su cũng lấy lại chủ đề cõi lòng làm tính nội giới và nguồn
gốc cho giá trị luân lý nơi con người (x. Mt 5, 8; 5, 28; 6, 21; Mc 7,20; Lc
6,45). Việc nhận thức các giá trị tôn giáo và luân lý cũng như việc quyết định
có thái độ luân lý và tôn giáo như thế nào đều nằm trong cõi lòng của ta (Ga 3,
19-21; 9, 39-41; Mt 4,17).
Như thế, cõi lòng được coi là khả năng nhận thức
những giá trị luân lý và cũng là khả năng tự quyết định của cá nhân trong tương
quan với điều tốt hay điều xấu, tùy theo mối liên hệ của những điều này với
Chúa. Cho nên cõi lòng giữ vai trò chủ yếu trong việc thiết lập mối liên hệ giữa
Thiên Chúa với con người. Cõi lòng là nơi gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa.
Trong mối liên hệ nền tảng này, cõi lòng trở thành nhân chứng hay vị quan tòa đối
với những giá trị luân lý của hành vi nhân linh. Chính cõi lòng khiển trách (x.
Mc 6, 16, câu chuyện Hê-rô-đê chém đầu Gio-an Tẩy Giả), gợi lên sự hối hận (x.
Mc 14, 66-72 câu chuyện Phê-rô chối Chúa). Đó là kinh nghiệm tôn giáo, kinh
nghiệm về lương tâm.
Theo Tự điển bách khoa Kinh Thánh, từ “cõi lòng”
được dùng trong Tân Ước cả thảy 30 lần, trong đó đến 25 lần được dùng bởi
Phao-lô. Với tư cách là tông đồ, Phao-lô đã đem lối nhìn của Cựu Ước, kinh nghiệm
về việc Chúa kêu gọi và đổi mới cõi lòng ông vào trong sứ vụ rao giảng của
mình. Dường như, sự nhạy cảm của Phao-lô liên quan đến lương tâm người khác
phát xuất từ lương tâm tinh tế của chính ông (x. 2Cr 1, 12), từ sự nhận thức
liên tục về lòng thương xót của Chúa đối với chính bản thân ông” (x. 2Cr 5,
11).
Sau đó Phao-lô đã chuyển sứ điệp này cho dân ngoại
bằng chính ngôn ngữ của họ khi dựa trên kinh nghiệm của họ về lương tâm và lòng
mộ đạo; nhưng cùng một lúc ông cố gắng đưa tất cả những thứ đó vào dưới ánh
sáng của Đức Kitô. Ông không chỉ chấp nhận “những gì là chân thật, cao quý, những
gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt,
những gì là đức hạnh đáng khen” (Pl 4, 8), mà còn sử dụng cả khái niệm chủ yếu
của nền đạo đức phái Khắc kỷ, đó là Syneidesis.
Qua đó Phao-lô nhắm tìm ra những gì là tích cực và có thể chấp nhận được trong
khái niệm Hy Lạp về Syneidesis, nhưng
đồng thời những gì ông nghĩ, rao giảng và viết lách đều đã bắt nguồn sâu xa từ
truyền thống Kinh Thánh. Vì thế ông có khả năng đem sứ điệp của Chúa đến với
ngôn ngữ của người nghe đương thời. Theo vài tác giả, ngay cả khi vay mượn những
tiếng từ ngôn ngữ triết học thời của mình, sau đó Phao-lô cũng đã củng cố những
từ ngữ đó bằng truyền thống trong Thánh Kinh về vai trò của cõi lòng.
Ngoài chức năng đánh giá phẩm chất hành vi cá
nhân của mình, cõi lòng còn có khả năng đánh giá hành vi của người khác (x. 1Cr
10, 28-29; 2Cr 4,2; 5,11). Đồng thời thánh Phao-lô khuyên khi hành động ta phải
lưu ý đến việc hành vi của ta dù đúng vẫn có thể gây vấp phạm cho những người
khác có cõi lòng yếu đuối, không hiểu rõ vấn đề (x. 1Cr 8, 7; 10, 12). Rồi
Phao-lô còn nói đến cõi lòng như quy luật của cuộc sống, nên có một cõi lòng
ngay chính đủ để hành động an toàn về mặt luân lý (Rm 13, 5 và 1Cr 10, 25.27).
Với những trường hợp điển hình nêu trên, lương tâm được coi như ánh sáng soi dẫn,
chứng nhân, nhà lập luật, quan tòa.
Còn trong các thư mục vụ, Phao-lô cho rằng cõi
lòng tốt, trong sạch làm cho cuộc sống người Kitô hữu hài hòa với đức tin của
mình. Như thế cõi lòng trở thành yếu tố cần thiết cho đời sống luân lý thánh
thiện để phục vụ Chúa (x 1Tm 1,5.19; 2Tm 1,3.5). Ngoài ra trong khi sử dụng
khái niệm Syneidesis, Phao-lô còn muốn
truyền đạt sứ điệp của các ngôn sứ về cõi lòng con người, nơi đó Thiên Chúa làm
cho con người biết luật yêu thương của Người. Sứ điệp cốt lõi của Phao-lô là
Thánh Thần đổi mới cõi lòng người ta, chỗ nào có sám hối và hoán cải chỗ đó có
sự tái sinh cõi lòng. Rõ ràng ở đây Phao-lô muốn chỉ điều ta nói về lương tâm.
Phao-lô còn đề cập đến sự rạn nứt nơi sâu thẳm
con người ta khi mình nói biết Thiên Chúa mà lại chống lại ân sủng Chúa và lời
mời gọi của đức tin: “Với những kẻ nhiễm uế và không có đức tin, thì không có
gì là trong sạch cả; trái lại trí khôn và lương tâm của họ đã bị nhiễm uế. Họ
tuyên bố là biết Thiên Chúa nhưng trong hành động họ lại chối Người. Họ là đồ
ghê tởm, không vâng lời và không có khả năng làm một việc gì tốt” (Tt 1,15-16).
Ơn cứu độ không chỉ giải thoát ta khỏi tâm trí và suy luận dối trá, nhưng còn
chạm đến nơi sâu thẳm hơn đó là cõi lòng, mà nay chúng ta hiểu là lương tâm con
người.
2. Các lập trường thần học về lương tâm như một khả năng thiêng liêng[5]
Lương tâm còn đi xa hơn sự nhận thức thực hành về
các giá trị, vì nó còn xuất hiện như khả năng của tâm hồn đảm bảo cho những đòi
hỏi của bổn phận. Lương tâm là tiếng vang trong nội tâm cho ta biết sự cứu độ
hay hư mất của mình, chúng liên kết với việc ta có lập trường theo điều thiện
hay theo điều ác.
Thánh Augustinô đã giải thích một cách sâu sắc
lương tâm như một khả năng. Lấy lại ý tưởng của trường phái Khắc kỷ coi lương
tâm như là sự tham dự vào Lex aeterna.
Sau đó vị Thánh chủ trương sự thánh thiện của Thiên Chúa làm cho con người được
tham dự vào lề luật của Thiên Chúa. Ánh sáng thần linh xâm nhập vào tận nơi sâu
kín nhất trong cõi lòng con người và cõi lòng lại không ngừng thúc đẩy ta hướng
về Chúa. Con người được dựng nên để yêu mến Thiên Chúa và sự thiện. Đây đích thực
mới là bản chất sâu xa của con người.
Thần học kinh viện phân biệt rõ ràng giữa lương
tâm như một khả năng thường xuyên với lương tâm như một hành vi trong mỗi lần
xét xử. Lương tâm như một khả năng: Khả năng này được hiểu như một cố gắng thiết
yếu của con người để bảo toàn chính bản thân khi hành động theo bản tính của
mình, và hoàn lại cho Thiên Chúa những bổn phận do bản tính con người đòi hỏi.
Như vậy, lương tâm là một khả năng nằm trong nơi sâu thẳm và tâm điểm của con
người. Nó ý thức được ơn gọi riêng của mình trong kế hoạch của Thiên Chúa và cảm
nghiệm được sự đòi hỏi của ơn gọi ấy. Ngoài ra nó còn thôi thúc con người về mặt
tâm linh và tình cảm hãy chu toàn các đòi hỏi xuất phát từ ơn gọi ấy. Tất cả
các điều ấy cho thấy tự bản chất lương tâm mang một chiều kích tôn giáo. Đây là
nơi con người được kêu gọi lãnh trách nhiệm trước mặt Chúa. Cho nên ta hiểu được
lý do tại sao khi bất phục tùng tiếng gọi của lương tâm sẽ làm ta cảm thấy có tội.
Theo quan niệm trên, ta có thể nói lương tâm có khả năng giúp con người biết
các nghĩa vụ luân lý của mình và thúc đẩy con người chu toàn các nghĩa vụ đó.
Theo Richard Gula, trong quá khứ các tác giả cố
gắng giới hạn lương tâm vào chức năng của ý chí hoặc lý trí, còn ngày nay ta hiểu
lương tâm như sự diễn đạt toàn thể con người. Nói cách đơn giản lương tâm là
“chính tôi đi đến quyết định”. Điều này không những bao hàm những khía cạnh nhận
thức và ý chí, nhưng còn cả những khía cạnh cảm tính, trực giác, thái độ và thể
xác nữa. Sau cùng lương tâm là sự dấn thân toàn thể con người tới các giá trị.
Người ta phải có những phán đoán dưới ánh sáng sự dấn thân áp dụng các giá trị
này.
Với ý nghĩa toàn diện của lương tâm ta có thể lượng
giá ba chiều kích của lương tâm theo truyền thống Giáo hội: 1/Synderesis, khuynh hướng nền tảng hay khả
năng trong ta biết điều tốt và làm điều tốt. 2/ Kiến thức luân lý (moral
science) là tiến trình khám phá những điều tốt phải làm và những điều xấu phải
tránh. 3/ Sự phán đoán rành mạch về điều tốt “tôi phải làm” trong tình huống cá
biệt. Đây không phải là ba thực tại cách biệt, cũng không phải là ba giai đoạn
phân biệt qua đó lương tâm đi từ trạng thái chưa trưởng thành đến trạng thái
trưởng thành, nhưng chỉ là ba ý nghĩa hay ba chiều kích, trong đó ta có thể hiểu
một thực tại duy nhất của lương tâm mà thôi.
Chiều kích 1: Lương tâm như một khả năng (Synderesis)
Đây là khả năng biết và làm những điều tốt và
tránh những điều xấu.
Hướng chiều về điều tốt có thể cho thấy sự khác
biệt sống động giữa điều gì là đúng, với điều gì là sai trong mỗi chọn lựa luân
lý. Việc kinh nghiệm những khác biệt luân lý trong cuộc sống khẳng định chính sự
hiện diện của lương tâm. Vì có synderesis,
nên ta chia sẻ ý thức chung về giá trị luân lý và cảm thức này tạo nên một sự
khác biệt giữa việc làm một điều đúng và tránh một điều sai. Ta không thể sống
một cách luân lý nếu không có chiều kích 1 này của lương tâm, nhưng tự nó chiều
kích 1 này chưa đủ để làm cho ta có khả năng lựa chọn điều đúng trong mỗi trường
hợp đặc thù.
Chiều kích 2: Lương tâm như một kiến thức luân lý (moral science)
Sức mạnh của khả năng phân biệt tốt xấu làm cho
ta có khả năng tìm thấy những giá trị luân lý khách quan trong mỗi tình huống
riêng biệt, để khám phá những điều đúng phải làm. Còn việc khám phá ra những
giá trị luân lý thực tiễn (operative) lại là công việc của chiều kích thứ 2 này
của lương tâm.
Công việc chủ yếu của nó là sự nhận thức xác
đáng và lý luận đúng về mặt luân lý. Vì lẽ đó, người ta lưu tâm rất nhiều đến
kiến thức hiểu biết về luân lý trong vấn đề giáo dục lương tâm hay trong những
tranh luận về luân lý. Kiến thức hiểu biết về luân lý có thể đưa đến sự sáng suốt
hay mù quáng, bất đồng hay lầm lạc mang tính chất luân lý.
Cho nên lương tâm cần phải được giáo dục, đào tạo,
hướng dẫn, kiểm tra và biến đổi. Kiến thức, hiểu biết luân lý trở thành mục
tiêu của tiến trình đào tạo lương tâm, giúp ta nhìn đúng và nghĩ đúng. Chịu
trách nhiệm trước sự thật luân lý, lương tâm được soi sáng và trợ giúp bằng nhiều
cách để nhận ra và có được sự thật này. Điều đó có nghĩa sự hiểu biết, kiến thức
luân lý được đào tạo trong một cộng đoàn và nhờ từ nhiều nguồn khôn ngoan về
luân lý để biết mình có thực sự ở trong sự thật luân lý hay không. Lương tâm
không tự trị. Cho nên hoạt động của nguồn kiến thức hiểu biết luân lý giống như
một tiến trình.
Chiều kích 3: Lương tâm như một phán đoán
Đây là một chiều kích khác của lương tâm hiểu
theo nghĩa hẹp của từ ngữ, nó đưa ta đi từ nhận thức, lý luận đến hành động. Ở
đây hướng chiều tổng quát về điều tốt và tiến trình xem xét những nhân tố xác
đáng đều hội tụ lại để đưa ra phán quyết về điều hiện giờ tôi phải làm và dẫn
tôi đến sự dấn thân làm điều đó. Để đi đến sự phán đoán này, nhiều người có thể
giúp tôi; nhưng không ai có thể thay tôi phán đoán, vì đây là điều chỉ mình tôi
có thể làm được mà thôi. Đặc điểm của phán đoán trong lương tâm là đây luôn là
một phán đoán cho cá nhân tôi. Nó không bao giờ là một phán đoán về một điều gì
mà một người nào đó phải làm, nhưng chỉ phán đoán về điều tôi phải làm mà thôi.
Tinh hoa của phẩm giá là tự do của lương tâm đều
nằm trong chiều kích thứ ba này của lương tâm: tôi luôn phải làm điều tôi cho
là đúng và tránh điều tôi cho là sai. Nếu người ta thực sự tin vào lương tâm của
mình cho rằng hành động này hơn hành động khác, nó là lời mời gọi khách quan của
Chúa. Nên hành động này không còn đơn thuần là một sự lựa chọn giữa nhiều sự lựa
chọn khác, thì về mặt luân lý, hành động này là hành động mà người ta cần phải
có. Đó chính là điều mà mệnh lệnh “buộc phải theo lương tâm mình” muốn nói. Cho
nên người ta không thể xâm phạm chiều kích thứ 3 này của lương tâm. Và đây cũng
chính là điều Công Đồng Vatican II gọi là “tâm điểm sâu kín nhất và là cung
thánh của con người” (GS s. 16) ở đó,
con người hiện diện một mình với Thiên Chúa.
Dưới ánh sáng hiểu biết về lương tâm như trên,
ta có thể đánh giá sự thật về câu thành ngữ: “Hãy để lương tâm bạn hướng dẫn”.
Nếu theo câu thành ngữ này mà không biết phê phán gì cả, không nắm bắt kiến thức
luân lý, tức là ta đã “tiêm” vào bản chất của lương tâm một “liều độc dược” cá
nhân chủ nghĩa, tự do lệch lạc và cắt đứt chiều kích thứ 3 của lương tâm ra khỏi
việc nó cần được hướng dẫn bởi những nguồn khôn ngoan luân lý khác.
“Hãy để lương tâm bạn hướng dẫn” phải được giải
thích theo chiều kích thứ 3 này của lương tâm. Khi chiều kích thứ 1 và thứ 2 của
lương tâm làm tốt công việc chuẩn bị, đến lúc chiều kích thứ 3 của lương tâm thực
hiện vai trò. Sự phán đoán trong mỗi trường hợp sẽ đáng tin cậy tương xứng với
công việc chuẩn bị kỹ lưỡng mà người ấy đã làm trong việc đào tạo lương tâm
mình. Cuối cùng chiều kích thứ 3 của lương tâm sẽ chỉ là người hướng dẫn chắc
chắn cho hành động đối với người hiểu biết và tự do đích thực. Nên khi xâm phạm
đến chiều kích thứ 3 này của lương tâm là xúc phạm đến sự trung thực của con
người. Và chúng ta cũng thấy rõ hơn, để chiều kích thứ 3 này của lương tâm có
được sức mạnh của nó, đòi hỏi hai chiều kích kia của lương tâm phải được chuẩn
bị đầy đủ.
Có các hiểu biết trên, chúng ta sẵn sàng để hiểu
về lương tâm theo giáo huấn chính thức của Huấn quyền:
Con người khám phá ra tận đáy lòng một tiếng nói
kêu gọi con người phải làm lành lánh dữ. Con người không đặt ra cho mình tiếng
nói này, mà vẫn phải tuân theo. Tiếng nói ấy vang lên đúng lúc trong thâm tâm của
chính con người: làm điều này, tránh điều kia. Đó chính là lương tâm, là lề luật
được Chúa khắc ghi trong tâm khảm mỗi người. Vâng theo lề luật ấy chính là phẩm
giá của con người và chính con người cũng sẽ bị xét xử theo lề luật ấy (Rm 2,
14-16).
Lương tâm là cõi lòng sâu kín nhất và là cung
thánh của con người, nơi đây chỉ một mình con người hiện diện với Thiên Chúa và
tiếng nói của Người vang dội trong đáy lòng người ấy. Nhờ lương tâm, lề luật được
thực hiện trong sự yêu mến Thiên Chúa và anh em và được biểu lộ cách kỳ diệu
(Mt 22, 37-40 và Ga 7,14). (GLHTCG s. 1776, trích Gaudium et spes, GS s.
16).
Khả năng, kiến thức hiểu biết, và khả năng phán
đoán của lương tâm được xây dựng dần dần trong tiến trình tăng trưởng của mỗi
người, chịu ảnh hưởng của cả các tác động bên ngoài của môi trường, vì thế
lương tâm có thể lầm lạc. Thói quen phạm tội làm cho lương tâm dần trở nên mù
quáng (MV16). Do đó, cần huấn luyện
lương tâm.
3. Huấn luyện lương tâm
“Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải
biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý
Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2).
Phán quyết của lương tâm về tính đúng sai, tốt xấu
của một hành vi định làm không chỉ là một phán quyết về giá trị của chính hành
vi, nhưng còn là một phán quyết về người thực hiện hành vi. Lựa chọn hành động
của người ấy cũng chính là chọn lựa tính cách luân lý của người đó. Những hành
vi của ta góp phần làm nên con người của ta, nói cho ta biết ta là ai. Chọn làm
điều tốt là chọn trở nên một con người tốt; chọn làm điều xấu tức là chọn trở thành
một con người xấu. Phán quyết của lương tâm là một phán quyết mang tính quyết định.
Một mặt, “Con người luôn luôn phải tuân theo
phán đoán chắc chắn của lương tâm mình. Nếu chủ ý hành động nghịch với phán
đoán ấy, con người tự kết án chính mình” (GLHTCG, s.1790). Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhận ra điều này là phán
quyết của con người có khả năng sai lầm. Thậm chí, khi một người đưa ra phán
quyết chắc chắn là mình đúng, thì có thể người ấy vẫn chưa hiểu đúng vấn đề,
chưa đủ kiến thức cần có, hoặc chưa ý thức đủ về tất cả các sự kiện. Trong những
trường hợp này, về mặt chủ quan, người đưa ra phán quyết đang hành động với một
đức tin tốt lành và không bị kết tội, thế nhưng về mặt khách quan, người ấy vẫn
sai lầm và sự dữ trong hành động ấy vẫn diễn ra.
Người ta cũng có thể trở nên đáng trách do thiếu
sự phán quyết đúng đắn hay vì sự thiếu hiểu biết của chính mình. “Điều này xảy
đến khi: ‘Con người không mấy lo lắng tìm kiếm chân lý và điều thiện, cũng như
khi vì thói quen phạm tội mà lương tâm dần dần trở nên mù quáng’. Trong các trường
hợp đó, con người phải chịu trách nhiệm về điều xấu đã làm” (GLHTCG, s.1791, trích dẫn GS, 16). Các nguồn gốc sai lầm trong luân lý có thể khác nhau: “Xuất
phát từ thiếu hiểu biết về Đức Kitô và Tin Mừng; gương xấu của người khác; nô lệ
các đam mê; nghĩ sai lạc về tự do lương tâm; khước từ quyền bính và giáo huấn của
Hội Thánh; thiếu hoán cải và bác ái” (GLHTCG,
s.1792).
Trong tất cả trường hợp – dù sự thiếu hiểu biết
đó đáng trách hay không – người ta luôn có bổn phận phải làm tất cả những gì cần
để hiểu biết đầy đủ hơn, để có thể đưa ra phán đoán đúng đắn, từ đó có thể sống
đúng đắn. Sự thiếu hiểu biết như thế luôn luôn có hại.
Có vài quy tắc “vàng” giúp giáo dục lương tâm,
như được phác thảo trong sách GLHTCG: 1/ Không bao giờ được phép làm điều xấu để
đạt một kết quả tốt (mục đích không biện minh cho phương tiện); 2/ Tất cả những
gì mình muốn người ta làm cho mình thì chính mình hãy làm cho người ta; những
gì mình không muốn người ta làm cho mình thì mình đừng làm cho người ta; 3/ Đức
ái Kitô giáo luôn luôn đòi chúng ta tôn trọng tha nhân và lương tâm của họ
(GLHTCG, s.1789).
Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường để rèn luyện
lương tâm. Chúng ta phải đón nhận Lời Chúa trong đức tin, trong kinh nguyện và
đem ra thực hành; phải kiểm điểm lương tâm dưới ánh sáng Thánh Giá Ðức Kitô; nhờ
ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp, có các chứng từ và lời khuyên nhủ của các thánh,
hiền nhân, được giáo huấn của Huấn quyền hướng dẫn (GLHTCG s.1785).
Để lương tâm được đào luyện đúng cách, cần phải nỗ
lực để nên chính trực và thật thà. Có nghĩa là cố gắng sao cho những phán đoán
của lương tâm được hình thành dựa trên nền tảng là những suy tư tốt đẹp và biết
chấp nhận những sự thiện, chân lý mà Thiên Chúa đã mạc khải. Mang thân phận con
người, chúng ta thường dễ bị ảnh hưởng bởi các thế lực tiêu cực, bị cám dỗ phạm
tội như tổ tông xưa. Chúng ta dễ bị lôi cuốn vào một thứ tự trị sai lầm cũng
như sự cám dỗ chối bỏ cả những giáo huấn đúng đắn có thẩm quyền hợp pháp[6].
“Đào luyện lương tâm là nhiệm vụ phải theo đuổi
suốt đời. Ngay từ thời thơ ấu, trẻ con phải được hướng dẫn để nhận biết và thực
hành luật nội tâm đã được lương tâm công nhận. Một nền giáo dục tốt dạy con người
sống đức hạnh, bảo vệ và giải thoát con người khỏi sợ hãi, ích kỷ và kiêu căng,
những mặc cảm tội lỗi và thái độ tự mãn, những thứ phát xuất từ sự yếu đuối và
dễ sai lầm của con người. Đào luyện lương tâm bảo đảm tự do và tạo bình an
trong tâm hồn.” (GLHTCG, s.1784)
Phán quyết của lương tâm là tâm điểm của mối
tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa, và với tha nhân. Nó là điều cốt lõi của
đời sống cũng như hạnh phúc của chúng ta, bởi vì chính lương tâm định hướng cho
chúng ta, giúp chúng ta sống theo đường lối mà Đấng Tạo Thành đầy yêu thương đã
vạch ra cho các thụ tạo. Ngày ngày, chúng ta luôn phải đối diện với nhiều lựa
chọn, và tất cả những lựa chọn ấy đều dẫn chúng ta theo một hướng nào đó. Không
phải lúc nào chúng ta cũng sẵn sàng để trả lời các tình huống xảy ra, thế
nhưng, chúng ta buộc phải mở tâm trí và con tim mình cho sự thật vốn được tỏ lộ
cho chúng ta qua lý trí và đức tin. Chúng ta buộc phải lắng nghe tiếng nói của
Thiên Chúa vốn được lý trí và đức tin nhận biết[7].
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhắc về sự cần
thiết nối kết lương tâm và chân lý: “Không kém quan trọng trong việc huấn luyện
lương tâm là phục hồi mối liên kết cần thiết giữa tự do và chân lý. Như tôi đã
thường nói, khi tự do bị tách rời chân lý khách quan thì sẽ không thể thiết lập
các quyền nhân vị trên một nền tảng lý trí vững chắc; và như thế mở đường cho
xã hội bị phó mặc vào ý muốn không kìm hãm của các cá nhân hay sự chuyên chế
đàn áp của chính quyền.” (EV s.96)
Thánh Gioan Phaolô II nhắc nhở công việc giáo dục
nối kết việc đào tạo lương tâm để giúp các cá nhân vẫn mãi là người hơn, dẫn dắt
họ đi đến chân lý một cách trọn vẹn hơn, giúp họ có lòng tôn trọng ngày càng
tăng đối với sự sống và huấn luyện họ trong các tương quan liên vị đúng đắn. (EV s.97)
Những nhận định cần thiết vừa nêu trên đưa đến một
kết quả tích cực là một khi đã đào tạo lương tâm cách đầy đủ nhờ biết lưu ý đến
chân lý khách quan, luật tự nhiên và ân sủng của Chúa, việc thanh lọc ý hướng
và tích lũy kiến thức luân lý chắc chắn sẽ có lúc dẫn ta đến việc thấy rằng
mình đã có khả năng dựa vào lương tâm của mình. Việc đào luyện lương tâm không
hạn chế sự tự do của con người. Đúng hơn, nó làm cho sự tự do ấy trở nên đích
thực và trọn vẹn, vì với mỗi lựa chọn được thực hiện dựa trên nền tảng của một
lương tâm được đào luyện tốt, chúng ta tiến gần đến Thiên Chúa, cũng như tiến gần
hơn đến hạnh phúc vĩnh cửu đời người. Đến tầm mức này, để đáp lại lời mời gọi
riêng tư của Chúa đối với cá nhân mình, thì nguyên việc giữ đúng luật mà thôi
không còn đủ nữa. Nhưng dần dần người ta đạt đến tình trạng sống theo nguyên tắc
của thánh Augustinô: “Hãy yêu đi rồi mới làm những gì mình muốn”.
Đây chính là mức trưởng thành tâm linh tuyệt vời
mà các thánh trong Giáo hội đã đạt được.
4. Lương Tâm Luân Lý và Siêu ngã (Superego)[8]
John Glaser phân biệt superego và lương tâm luân lý trong một bài viết thú vị “Lương Tâm
và superego: một phân biệt quan trọng”.
Glaser chỉ ra rằng thất bại trong việc phân biệt superego với lương tâm luân lý có thể gây ra sự nhầm lẫn mục vụ
nghiêm trọng.
Một trong các lỗi lầm thông thường nhất và gây sự
lẫn lộn khi nói về lương tâm, hay khi xem xét lương tâm, là nhầm lẫn điều mà
các thần học gia gọi là “lương tâm luân lý” với những gì mà các nhà tâm lý nói
về siêu ngã, superego như là lương
tâm. Superego như là một phần ký ức của
con người. Superego chất chứa tất cả
những gì “nên làm” và những gì “phải làm” mà chúng ta đã tiếp thu trong tiến
trình lớn lên dưới ảnh hưởng của quyền lực, các hình ảnh, câu chuyện, đầu tiên
là cha mẹ, sau đó là các gương mặt uy quyền khác như là thầy cô, cảnh sát, ông
chủ, các nữ tu, linh mục… Công cụ mạnh mẽ của superego là mặc cảm có lỗi nảy sinh một cách tự động vì các lỗi đơn
giản cũng như vì các vấn đề luân lý nghiêm trọng hơn. Superego bảo chúng ta rằng chúng ta là tốt khi chúng ta làm những
gì chúng ta được bảo làm, và nó bảo chúng ta rằng chúng ta là xấu và làm cho
chúng ta cảm thấy có lỗi khi chúng ta không làm những gì mà quyền lực trên
chúng ta bảo chúng ta làm.
Để hiểu superego,
chúng ta bắt đầu với thời thơ bé. Khi trẻ thơ, cần được yêu thương và được chấp
nhận như là một nhu cầu và động lực cơ bản của đứa trẻ. Khi ấy, đứa bé sợ hình
phạt không chỉ vì sự đau đớn thân xác, nhưng quan trọng hơn bởi vì nó sợ không
còn được yêu thương. Bởi vậy, trẻ thơ điều khiển hành vi của chúng sao cho đừng
bị mất tình thương và sự chấp nhận. Trẻ thơ tiếp thu các mẫu mực và các điều lệ
của cha mẹ, hay của ai đó có uy quyền trên chúng, như là vấn đề của sự tự bảo vệ.
Hình ảnh uy quyền chiếm một chỗ bên trong trẻ và trở thành nguồn của các mệnh lệnh
hay cấm đoán. Gordon Allport mô tả một câu chuyện vui nhằm phác họa cách thức
mà một hình ảnh quyền uy chiếm một chỗ bên trong trẻ thơ đến nỗi mà không chỉ nội
dung các mệnh lệnh mà còn tiếng nói của uy quyền ngoại tại nổi lên từ bên
trong:
Một cậu bé ba tuổi thức giấc lúc 6 sáng và bắt đầu
các tiếng chơi đùa ồn ào. Người cha, nhấp nháy con mắt ngái ngủ, vào phòng cậu
bé và nghiêm khắc ra lệnh: “Quay vô giường và không được thức dậy cho đến 7 giờ
sáng”. Cậu bé vâng lời. Vài phút sau tất cả đều im lặng, nhưng chẳng mấy chốc
có các tiếng động lạ khiến người cha lần nữa nhìn vào trong phòng. Cậu bé đang ở
trên giường như đã được ra lệnh; nhưng nó đưa tay ra cạnh giường, rồi nó thụt
cánh tay lại và tự nói, ‘trở lại chỗ kia’. Tiếp đến một cẳng chân lại đưa ra cạnh
giường, và rồi rút lại với giọng điệu nghiêm khắc, ‘con đã nghe những gì bố đã
bảo con’. Cuối cùng thì cả người cậu bé nhoài ra cạnh giường và thụt lại rất
mau, nghiêm khắc cảnh báo chính mình, ‘không được ra khỏi cho đến 7 giờ’. Chúng
ta không thể chờ mong có một ví dụ nào rõ ràng hơn về vai trò nội tâm hóa của
người cha như là một phương tiện để tự kiểm soát và trở nên xã hội hóa[9].
Ở giai đoạn này, tiếng nói bên ngoài của uy quyền
đang trong tiến trình trở nên nội tâm hóa, hay một giọng nói quyền uy thích ứng
hơn. Công việc của cha mẹ là tranh thủ tiếng nói nhân danh nhân đức, như cha mẹ
chính họ nhận thức nhân đức.
Một cách đơn giản, khác biệt giữa superego và lương tâm luân lý là phân biệt
giữa những “cái nên làm” hay những “cái phải làm” và những “cái muốn làm”, là gốc
rễ của các mệnh lệnh định hướng hành xử của cá nhân. Những “cái nên làm” hay những
“cái phải làm” thuộc về một ai đó. Những “cái muốn làm” thuộc về riêng ta.
Mệnh lệnh của superego bảo chúng ta những “cái nên làm” xuất phát từ quá trình tiếp
nhận các điều lệ và giới hạn từ những ai có
thẩm quyền yêu thương và chấp nhận. Chúng ta
tuân theo các mệnh lệnh của superego do
sợ hãi bị mất tình thương, hay từ nhu cầu muốn được chấp nhận và khích lệ, hay
sợ bị phạt. Lương tâm luân lý thì hành động trong yêu thương đáp ứng lại lời mời
gọi chúng ta dấn thân cho các giá trị. Các mệnh lệnh của lương tâm luân lý khởi
phát từ quan niệm và sự đánh giá cá nhân về các giá trị mà chúng ta khám phá ra
trong các câu chuyện hay mẫu gương của những con người mà chúng ta muốn nên giống
như thế. Lương tâm luân lý là chìa khóa cho sự tự do có trách nhiệm về việc muốn
làm những gì chúng ta làm bởi vì chúng ta trân trọng những gì chúng ta đang tìm
kiếm, phấn đấu. Trong khi đó những “cái nên làm” hay những “cái phải làm” của superego muốn tìm kiếm uy quyền, những
“cái muốn làm” của lương tâm luân lý tìm kiếm các giá trị cá nhân hóa và nội
tâm hóa. Có một thời gian khó khăn để biện biệt giữa những gì Thiên Chúa ban
cho ơn thực hiện hay mời gọi người ấy làm với những gì mà một uy quyền bảo người
ấy phải làm, nên làm.
Một người hình thành một lương tâm cá nhân tốt đẹp
là người có khả năng hội nhập các luật lệ và những giá trị luân lý thành thái độ
nội tâm và xác tín riêng của mình. Nhưng không phải ai cũng thành công trong việc
chuyển từ superego sang lương tâm
luân lý. Có những người đến tuổi trưởng thành rồi, nhưng vẫn còn ở trong tình
trạng superego vì họ vẫn chưa đủ khả
năng sống theo sự xác tín nội tâm của mình, mà chỉ biết làm những gì người khác
trông đợi nơi họ.
Cho nên trưởng thành về mặt tâm linh là khiêm tốn
nhận ra những gì ở nơi mình còn xa vóc dáng trưởng thành viên mãn của Đức Kitô
như thế nào, để rồi từ đó sẵn sàng và hết lòng đón nhận những gì lề luật cung cấp
giúp ta sửa chữa những quan điểm lệch lạc cá nhân và che chở ta khỏi ảnh hưởng
tiêu cực của các xu hướng và thành kiến cá nhân.
Cảm thức cho đúng đắn về Huấn quyền hết sức chủ
yếu đối với nỗ lực tiến hành việc phân định luân lý, đào luyện lương tâm, và đối
thoại giữa lương tâm và Huấn quyền là chủ đề của bài viết này.
V. HUẤN QUYỀN
Trước hết, về vấn đề từ ngữ. Nội hàm từ ngữ “Huấn
quyền” có thay đổi theo dòng thời gian. Hiện tại, theo lối hiểu chung, từ ngữ
“Huấn quyền” dùng để chỉ giáo hoàng và các giám mục theo chức năng giáo huấn của
các ngài.
1. Giáo hội là Mẹ và Thầy
Theo sách GLHTCG, chính trong Giáo hội, trong sự
hiệp thông với các tín hữu mà người Kitô hữu chu toàn ơn gọi của mình. Từ nơi
Giáo hội, tín hữu đón nhận Lời Chúa chứa đựng các giáo huấn của Luật Chúa Kitô
(Gl 6,2). Giáo hội là máng chuyển ban phát ân sủng, các bí tích để nâng đỡ các
tín hữu trên con đường trần thế. (GLHTCG s.2030)
Ðời sống luân lý là một việc thờ phượng thiêng
liêng. Các tín hữu “dâng hiến thân xác mình làm của lễ sống động, thánh thiện,
đẹp lòng Thiên Chúa” (x. Rm 12,1). Giáo hội là Thân Thể mà Ðức Kitô là đầu và
các tín hữu là chi thể. Trong Giáo hội, phụng vụ và việc cử hành các bí tích, lời
cầu nguyện và lời giảng dạy của các mục tử kết hợp với ân sủng Thánh Thần, soi
sáng và nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu. (GLHTCG s. 2031)
Ðược Chúa Kitô ủy thác, Huấn quyền dạy cho các
tín hữu Luật Thiên Chúa như con đường sự sống và chân lý. Do đó, các tín hữu có
quyền, và phải được giáo huấn về các lề luật cứu độ của Thiên Chúa; những điều
luật này có sức thanh luyện trí phán đoán và cùng với ân sủng, chữa lành lý trí
bị tổn thương của con người. Tín hữu có nghĩa vụ tuân giữ các sắc lệnh do quyền
bính hợp pháp của Giáo hội ban hành. Cả khi những điều này mang tính cách kỷ luật,
các tín hữu vẫn phải vâng phục với tình yêu. (GLHTCG s. 2037)
Ðức giáo hoàng và các giám mục cùng hiệp thông với
người là những thầy dạy đích thực, nghĩa là có uy quyền của Ðức Kitô, rao giảng
cho dân Chúa được trao phó cho các ngài, những điều phải tin, đức mến phải thực
hành, chân phúc phải hy vọng và phải áp dụng vào đời sống. (x. Lumen Gentium, LG 25, GLHTCG s. 2034)
2. Thẩm quyền của Huấn quyền trong giải thích Luật Luân Lý
Giáo hội là “cột trụ và điểm tựa của chân lý”
(1Tm 3,15), “đã nhận từ các tông đồ mệnh lệnh long trọng của Ðức Kitô là rao giảng
chân lý cứu độ” (x. LG 17). Trong mọi
thời và mọi nơi, Giáo hội có thẩm quyền công bố các nguyên tắc luân lý. Hơn nữa,
Giáo hội có quyền phán quyết về tất cả các vấn đề nhân linh, mỗi khi những quyền
lợi cơ bản của con người hay phần rỗi của các linh hồn đòi hỏi. (GLHTCG s.
2032)
Huấn quyền của các mục tử Giáo hội về vấn đề
luân lý, thường được thực hiện trong huấn giáo và thuyết giảng, với sự giúp đỡ
của các nhà thần học và các tác giả linh đạo. Như thế, “kho tàng luân lý Kitô
giáo”- gồm một tổng hợp đặc thù những quy luật, mệnh lệnh và các nhân đức phát
sinh từ lòng tin vào Ðức Kitô và được sinh động nhờ đức mến- được lưu truyền
qua các thế hệ, được các mục tử hướng dẫn và bảo vệ. (GLHTCG s. 2033)
Trong thông điệp Humanae Vitae, Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI khẳng định thẩm quyền của
Huấn quyền trong việc giải thích luật luân lý tự nhiên. Ngài nhắc lại rằng các
vị giáo hoàng tiền nhiệm đã nhiều lần công bố rằng Chúa Giêsu Kitô, khi ban quyền
năng Thiên Chúa cho Thánh Phêrô và các Tông Đồ khác và sai họ đi giảng dạy khắp
thế gian Điều Răn của Người, Chúa đã đặt các ngài làm người chính thức bảo vệ
và giải thích toàn thể bộ luật luân lý, không phải chỉ luật Tin Mừng, mà cả luật
Tự Nhiên nữa. Vì luật Tự Nhiên-được hiểu là lý trí con người tham dự khám phá
luật Thiên Chúa- cũng biểu lộ thánh ý của Chúa, và vị Thánh Giáo Hoàng nhấn mạnh
sự tuân phục trung thành luật Tự Nhiên là cần thiết cho sự cứu rỗi của con người.
(HV 4)
Khi giảng dạy và áp dụng luân lý Kitô giáo, Giáo
hội cần đến sự cộng tác của mọi thành phần: sự khôn ngoan và nhạy bén của các mục
tử, kiến thức của các nhà thần học và đóng góp của mọi Kitô hữu và mọi người
thiện chí. Ðức tin và việc thực hành Tin Mừng đem lại cho mỗi người kinh nghiệm
sống “trong Ðức Kitô”; kinh nghiệm này soi sáng và giúp họ đánh giá những thực
tại thần linh và nhân linh theo Thần Khí (x.1Cr 2,10-15). Như vậy, Chúa Thánh
Thần có thể dùng những kẻ bé mọn nhất, để soi sáng các người thông thái và những
người giữ chức vị cao trọng hơn. (GLHTCG s.2038)
Các thừa tác vụ phải được thi hành với tinh thần
phục vụ huynh đệ và tận tâm đối với Giáo hội nhân danh Chúa (x.Rm 12,8.11). Các
thừa tác viên cần hết sức lưu ý đến phúc lợi của mọi người, như được trình bày
trong luật luân lý, tự nhiên và mạc khải và cả trong luật Giáo hội và giáo huấn
có thẩm quyền của Huấn quyền về các vấn đề luân lý. GLHTCG nhắc nhở tín hữu
không nên đối nghịch lương tâm cá nhân và lý trí với luật luân lý hay với Huấn
quyền (GLHTCG 2039).
Như thế, một tinh thần hiếu thảo đích thực đối với
Giáo hội sẽ được triển nở trong các tín hữu. Như người mẹ hiền, Giáo hội thông
truyền cho chúng ta lòng thương xót của Chúa; lòng thương xót này vượt thắng mọi
tội lỗi chúng ta, và tác động đặc biệt trong bí tích Hòa Giải. Hằng ngày qua phụng
vụ, như người mẹ ân cần, Giáo hội đem đến cho chúng ta lương thực thường tồn là
Lời Chúa và Thánh Thể (GLHTCG s. 2040).
Theo vài cuộc điều tra thì đặc biệt kể từ khi
thông điệp Humanae Vitae của Đức
Phaolô VI, công bố năm 1968, bàn về vấn đề điều hòa sinh sản, một số thần học
gia luân lý và kể cả tín hữu công giáo đã bắt đầu công khai nói lên thái độ bất
đồng ý kiến của mình đối với giáo huấn này của Đức Giáo Hoàng, và bước vào một
cuộc đối kháng về mặt thực tế, đối với vài giáo huấn chính thức của Huấn quyền.
VI. ĐỐI THOẠI GIỮA LƯƠNG TÂM VÀ HUẤN QUYỀN
1. Đối với những người ngoài Kitô giáo
Công đồng Vatican II khẳng định trong Hiến Chế về
Giáo hội: “Những ai, không do lỗi của mình, mà không biết Tin Mừng Đức Kitô và
Giáo hội, nhưng lại tìm kiếm Thiên Chúa với quả tim chân thành, và nhờ ơn Chúa
thúc đẩy mà nỗ lực chu toàn ý Chúa bằng hành động như lương tâm họ mách bảo và
đòi hỏi, những người ấy có thể được cứu độ” (LG 16).
Công Đồng nói đến những người không được nghe biết
Tin Mừng, nhưng nhờ ơn Chúa, vẫn nỗ lực sống theo lương tâm ngay thẳng. Những
người này cũng được Chúa ban ơn cần thiết để được cứu độ. Ơn cứu độ của Chúa
không mâu thuẫn với nỗ lực của con người. Cả Kitô hữu và người ngoài Kitô giáo
đều phải nỗ lực phấn đấu để được cứu. Sống theo lời Chúa hay sống theo tiếng
lương tâm ngay thẳng đều chẳng phải là chuyện dễ dàng, vì cả hai đều đòi hỏi từ
bỏ mình và chấp nhận những hy sinh to lớn.
2. Đối với Kitô hữu
Có nhiều người xem lương tâm luân lý là một điều
gì đó riêng tư, nội tại, mang tính cách chủ quan và không ai có quyền phê bình
hay chỉ trích. Thậm chí người ta còn nghĩ có thể tìm ra lý lẽ biện minh cho
cách nhìn này trong sách GLHTCG: “Con người có quyền hành động theo lương tâm
và trong tự do, để tự mình có những quyết định luân lý. ‘Không được cưỡng bức
ai hành động trái với lương tâm của họ. Cũng không được ngăn cản họ hành động
theo lương tâm, nhất là trong lãnh vực tôn giáo.’” (GLHTCG, 1782). Vấn đề của
cái nhìn quá chủ quan này là đã bỏ qua một điểm quan trọng: không nhìn được tổng
thể vấn đề của lương tâm. Đoạn trích trên đây, cần nối kết với các đoạn khác, nếu
không, ta sẽ không thể được hiểu được ý nghĩa của nó một cách đúng đắn.
Trước hết, cần nhắc lại xác tín thần học chủ chốt:
theo quan điểm Kitô giáo thì tự nguồn cội, luân lý mang một chiều kích Giáo hội.
Vì vậy, mọi hành vi luân lý đích thực theo ý nghĩa Kitô giáo đều phải minh chứng
cho phẩm chất đạo lý của mình qua niềm hiệp thông trong Giáo hội. Chính ở trong
đó, Huấn quyền giữ một chỗ đứng chủ yếu. Gồm những thành phần trong Giáo hội có
trách nhiệm lo gìn giữ cho Dân Chúa được luôn hiệp nhất chung quanh Chúa Kitô,
Huấn quyền là một trong những giới cấp thẩm quyền có đủ uy thế để người đã chịu
phép rửa tội có thể dựa vào đó mà kiểm chứng về tính giáo hội của đường lối
luân lý của mình, xem đường lối đạo lý ấy có tương hợp với mạc khải tỏ lộ ở
trong Kinh Thánh và Truyền Thống hay không.
Thánh Hồng Y John Henry Newman, người vốn được
coi là một trong các cột trụ trí thức của Vatican II, nói về tương quan của
lương tâm với các vị đại diện khác của Chúa Kitô trong tác phẩm cổ điển Thư Gửi
Quận Công Norfolk Nhân Bài Phê Bình Nhận Xét Gần Đây Của Ông Gladstone:
“Lương tâm không phải là lòng vị kỷ nhìn xa,
cũng không phải ước muốn nhất quán với chính mình; nhưng là một sứ giả của Đấng,
cả trong tự nhiên lẫn trong ơn thánh, nói với chúng ta đàng sau một tấm màn, và
dạy cũng như quản trị ta bằng các vị đại diện của Người. Lương tâm là vị đại diện
thứ nhất trong tất cả các đại diện của Chúa Kitô” (được trích lại trong GLHTCG
s. 1778).
Ở trên, vị Thánh lưu ý đến vai trò ưu tiên của
lương tâm “Lương tâm là vị đại diện thứ nhất trong tất cả các đại diện của Chúa
Kitô”. Tức là với phán đoán của một lương tâm trong sáng chân thành đi tìm chân
lý, thì tiếng nói lương tâm có vị trí ưu thế hơn cả Huấn quyền - cũng là một Đại
Diện thế giá của Chúa Kitô. Nơi khác, vị Thánh so sánh cái hiểu Công Giáo trên
về lương tâm với cái hiểu thế tục của thời ngài, và cũng là của thời nay, coi
lương tâm như “một sáng tạo của con người cách này hay cách khác”. Ngài viết:
“Lương tâm là một người giám sát nghiêm nghị, nhưng ở thế kỷ này nó đã bị thay
thế bằng một đồ giả hiệu, mà thế kỷ 18 trước nó chưa bao giờ nghe thấy... Nó là
quyền của ý chí bản thân… quyền được suy nghĩ, nói năng, viết lách và hành động
tùy theo phán đoán của mình hay tính khí của mình, không cần nghĩ gì tới Thiên
Chúa… [đến nỗi nó chính là] quyền và tự do của lương tâm vứt bỏ lương tâm”.
Thánh Newman cũng thảo luận điều ta có thể gọi
là các cơn cám dỗ của lương tâm:
“[Lương tâm là] thầy dạy cao nhất, nhưng lại ít
sáng suốt nhất… [vì] cảm thức đúng sai, vốn là yếu tố đầu tiên trong tôn giáo,
là điều… hết sức dễ bị lúng túng, làm cho lu mờ, đồi bại… quá lệch lạc vì kiêu
căng và đam mê, quá loạng choạng trong đường đi của nó”.
Lương tâm ấy, trong thập niên 1960 và sau đó thường
được các nhà thần học cấp tiến dùng để biện minh cho việc họ bất đồng với giáo
huấn Giáo hội. “Lương tâm” cũng còn được dùng để hợp lý hóa việc ngừa thai, thụ
thai nhân tạo, phá thai khuyết tật, … trái với giáo huấn của Giáo hội Công
Giáo.
Cái thử thách của ngày hôm nay đó là việc nhận
biết đúng sai, con người không dễ dàng cùng nhau nhìn nhận chân lý. Để cùng
nhau đánh giá đúng sai, phải giả thiết rằng, người nghe và người nói cùng chia
sẻ một tiêu chuẩn chung mà dựa vào đó cả hai người có thể đối thoại và phải đồng
ý với nhau. Đó là một tiêu chuẩn khách quan mà chúng ta khám phá ra, không phải một tiêu chuẩn mà chúng ta
có thể chủ quan tùy ý chế tạo. Một xã
hội muốn tôn trọng phẩm giá của tất cả mọi người, cần quan tâm đến tiêu chuẩn
chung khách quan này để làm bộc lộ cái tốt và cái xấu, cái đúng và cái sai vốn
có ý nghĩa chung khách quan đối với tất cả chúng ta. Tiêu chuẩn chung đó là sự
thật.
3. Sự thật, lương tâm, Đức Kitô, Giáo hội
“Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6)
Sự thật là trọng tâm của tình yêu. “Nếu các ông ở
lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật,
và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,31–32). Thế nhưng, ngay cả với Đức
Giêsu, sự thật không đơn thuần là chủ quan của Người: “Các lời Thầy nói với anh
em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính
Người làm những việc của mình” (Ga 14,10). Chính sự thật này là từ Chúa Cha là
điều mà các môn đệ phải học hỏi để hiểu biết. Và điều đó sẽ được thực hiện nhờ
Đấng Bảo Trợ, Thần Khí Sự Thật: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến
nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi
điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26). Chính Chúa Thánh Thần sẽ bảo đảm cho
các môn đệ – tức Giáo hội – được ở trong tình hiệp nhất với Đức Giêsu, Đấng “là
Đường, là Sự Thật và là Sự Sống,” (Ga 14,6). Chúa Thánh Thần cũng sẽ tiếp tục dạy
điều chân thật để giải thoát chúng ta.
Sự thật là điều cốt yếu trong mối tương quan giữa
chúng ta với Thiên Chúa và với tha nhân. Cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và ông
Philatô giúp ta hiểu về sự thật. Đức Giêsu nói: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế
gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe
tiếng tôi” (Ga 18,37-38). Philatô rất phân vân: “Sự thật là gì ?” Biết Chúa
Giêsu vô tội, ông trở ra ngoài để cố gắng thuyết phục dân chúng tha cho Đức
Giêsu. Ông không có được sự can đảm để sống theo sự thật mà ông biết. Ông không
dám hành động theo hiểu biết của mình, ông bị nỗi sợ hãi vua Caesar, sợ bị mất
chức quyền. Đức Giêsu là người bị trói trong cuộc xét xử, thế nhưng chính
Philatô mới là người bị trói buộc[10]. Thế nên, biết sự thật là một
chuyện, có đủ can đảm và ý chí để sống theo sự thật lại là một bước quyết liệt
khác của đời sống luân lý.
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta nhiều phương thế
để truy tìm chân lý, tìm kiếm sự thật. Người ban cho chúng ta đức tin và lý
trí, và cả hai đều là những tặng phẩm của Người, cả hai đều có giá trị trong cuộc
tìm kiếm sự thật, trong hành trình tìm kiếm Thiên Chúa. Dành chỗ quan trọng cho
năng lực của lý trí, Giáo hội luôn kiên quyết bảo vệ lý trí của con người. Giáo
hội thấy không có mâu thuẫn giữa lý trí và đức tin, mà có mối tương quan trật tự
giữa chúng. Cuộc tìm kiếm chân lý của lý trí không sai lầm, nó chỉ đơn thuần là
chưa đủ, và chỉ có thể hoàn thành cuộc tìm kiếm đó với hành động của đức tin mà
thôi.
Chúng ta càng nhận biết về chính mình bằng lý
trí và đức tin, chúng ta càng nhận biết mối tương quan giữa mình với Thiên
Chúa. Và chúng ta càng nhận biết mối tương quan ấy, chúng ta càng biết được
mình phải sống thế nào. Chúng ta bắt đầu học biết sự thật về cái gì là đúng,
cái gì là sai trong những việc chúng ta làm, và kiến thức về sự thật đó thực sự
mở rộng sự tự do của chúng ta chứ không phải giới hạn sự tự do ấy. Sự thật sẽ
giải thoát chúng ta để chúng ta thi hành những gì thực sự là đúng, và nhờ đó
chúng ta sẽ tìm thấy sự hoàn thiện đích thực của mình.
Tự do đích thực không phải là khả năng tùy ý chọn
điều tốt hay điều xấu. Khả năng chọn điều xấu là một sự xuyên tạc tự do. Tự do
đích thực là khả năng luôn chọn lựa những gì là tốt đích thực, và chúng ta chỉ
có thể làm điều đó khi biết chính xác cái gì là đúng và cái gì là sai. Nhận biết
sự thật, và sự thật chắc chắn sẽ giải thoát chúng ta.
Không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa một Giáo hội
trao ban tình yêu của Đức Kitô và một Giáo hội rao giảng về chân lý mà Đức Kitô
tỏ hiện. Các Kitô hữu, những người nỗ lực đi theo Đức Kitô và sống trong tình
yêu của Người, cần phải luôn sẵn sàng để học hỏi về lời chứng vốn đã được Giáo
hội cung cấp (Veritatis Splendor, 64).
Những khẳng định của Giáo hội không mâu thuẫn với sự tự do của lương tâm, đúng
hơn, chúng là một lời khẳng định về những sự thật giúp lương tâm hành động với
một sự tự do thực sự[11].
Đức Tổng Giám Mục (TGM) Charles J. Chaput, O.F.M. Cap., của Philadelphia, ngày 15/10/2015, được tờ Famille Chrétienne phỏng vấn. Câu hỏi: “Một số người nghĩ Giáo hội nên để chỗ rộng hơn cho lương tâm bản thân. Việc này sẽ giúp các tín hữu vượt qua được ‘các trở ngại’, người ta nói thế, mà Giáo hội đã tạo ra cho họ về vấn đề kiểm soát sinh sản hay các bí tích (Hòa Giải và Thánh Thể) đối với các cặp ly dị và tái hôn. Đức cha có ý kiến gì?”
Đức TGM Chaput trả lời: “Mỗi người chúng ta có
nhiệm vụ phải theo lương tâm của mình. Nhưng lương tâm không hiện hữu trong khoảng
không, và nó không phải chỉ là chuyện ý kiến hay ý thích bản thân. Giáo hội
không phải là một sự góp nhặt các cá nhân tự lập. Chúng ta là một cộng đồng, một
gia đình, được tổ chức quanh con người Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người.
Chúng ta có nghĩa vụ phải huấn luyện lương tâm mình trong sự thật. Điều này có
nghĩa ta cần để mình được hướng dẫn bởi sự khôn ngoan và giáo huấn của Giáo hội
mà Chúa Giêsu đã thiết lập.
Nếu lương tâm tôi bất đồng với sự hướng dẫn của
Giáo hội về các vấn đề có thực chất luân lý, thì đây không hẳn là Giáo hội sai.
Con người, nghĩa là tất cả chúng ta, đều rất khôn khéo trong việc bào chữa cho
những điều ta muốn làm, bất luận điều đó có tội hay không.”
Trong một bài chia sẻ với tổng giáo phận
Philadelphia của ngài, TGM Chaput nói thêm rằng các vị tử đạo Anh Quốc thời
Henry VIII và Elizabeth I đã không hiến mạng sống mình để bảo vệ “lương tâm bản
thân”. Ý niệm này xa lạ đối với họ. Họ chết vì họ hiểu rằng Giáo hội Công Giáo
dạy sự thật, và họ không thể từ bỏ Giáo hội hay sự thật do Giáo hội dạy mà
không hủy diệt sự chính trực của mình. Vấn đề đối với họ là sự thật - chứ không
phải sự ngoan cố - sự thật của Thiên Chúa, một sự thật vừa ràng buộc vừa giải
thoát mọi người, ở mọi nơi; chứ không phải ý niệm hiện đại về trí năng của cá
nhân tạo ra lối giải thích của riêng mình về đúng sai[12].
4. Đối với Huấn quyền
Công đồng Vatican II xác định rõ các quyền hành
và những giới hạn của Huấn quyền. Một mặt, Hiến chế Dei Verbum nói rằng dĩ nhiên “trách nhiệm giải thích Lời Chúa một
cách chính thức, Lời viết cũng như Lời truyền, đã được ủy thác cho chỉ một mình
Huấn quyền sống động trong Giáo hội mà thôi”; tuy nhiên Hiến Chế nhắc nhở “Huấn
quyền này không thắng thế trên Lời Chúa; nó phục vụ Lời Chúa bằng cách chuyên
lo giảng dạy chỉ những gì đã được truyền thụ mà thôi, vì thừa lệnh Chúa và nhờ
Thánh Thần trợ giúp, Huấn quyền thành kính lắng nghe Lời Chúa” (DV s. 10). Như
thế, Huấn quyền cần phải biết mở rộng ra để đón nhận Thánh Thần hầu phục vụ Ngôi
Lời là Đấng làm cho hoạt động Huấn quyền tồn tại (1Cr 1, 17). Chắc chắn “Kinh
Thánh, Truyền Thống và Huấn quyền… liên kết và phối hợp với nhau đến nỗi không
thực thể nào trong ba, có thể đứng vững một mình được” (DV 10)
Để cho Huấn quyền “tiến bước theo Thánh Thần”
(Ga 5, 16), các vị mục tử cần tìm những phương thức chắc chắn nhất của khoa chú
giải phê bình mà chất vấn Kinh Thánh, là quy phạm của đức tin, cũng như hãy biết
dựa theo những đóng góp theo chủ đề của khoa học hiện đại mà đọc lại Truyền Thống.
Huấn quyền cần phải biết lắng nghe Lời Chúa bằng cách chú tâm để ý đến các dấu
chỉ của Thánh Thần, Đấng hằng không ngừng hoạt động ở giữa Dân Chúa; có như thế
thì mới nhận ra được “cảm thức đức tin” của Dân Chúa. Công đồng Vatican II nói
rằng: “Bởi đã được Thánh Linh xức dầu, cho nên xét theo toàn bộ, toàn thể các
tín hữu không thể nào sai lầm trong đức tin được; và họ biểu lộ đặc tính ấy qua
cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể Dân Chúa, khi ‘từ các giám mục cho
tới người giáo dân rốt nhất’ đều đồng ý về những điểm liên quan đến đức tin và
phong hóa” (GH 12). Công đồng Vatican II cho thấy là Huấn quyền cần phải chú ý
rất nhiều đến cách thức toàn bộ các kitô hữu đón nhận một giáo thuyết[13].
Phải nhìn nhận là, đặc biệt trong xã hội đa
nguyên và thế tục hóa hiện nay, rất nhiều khi các vị chủ chăn buộc phải chống lại
những gì được đại đa số tán đồng; đó là phận vụ của “người tuần canh”. Tuy
nhiên, theo quy tắc chung, phải nhận rằng nếu không được toàn bộ hay một số lớn
các giáo hội địa phương đón nhận, thì các quy phạm do Huấn quyền đưa ra, rất có
thể là không hoàn toàn phù hợp với diện mạo của Mạc khải, hay ít ra, cần phải
được trình bày cho tinh vi hơn sau khi đã nghiên cứu kỹ lưỡng hơn về mặt thần học[14].
Huấn quyền có liên hệ mật thiết với kinh nghiệm
đời sống luân lý trong các giáo hội địa phương. Nghĩa là, chỉ ở trong một bầu
khí đối thoại đầy tin tưởng giữa hàng giáo phẩm và các thành phần khác của Dân
Chúa, thì Huấn quyền mới không bỏ sót tiếng nói của Chúa Thánh Thần, và có thể
thực thi trách nhiệm giảng dạy luân lý một cách khả tín. Xavier Thévenot, SDB,
giáo sư thần học luân lý tại Institut Catholique de Paris, và là chuyên gia về
luân lý giới tính phác thảo một số điều kiện cần thiết cho một đối thoại như thế.
5. Điều kiện cần có cho cuộc đối thoại giữa Huấn quyền và Lương Tâm các
tín hữu
Về phía Huấn quyền
Hàng giáo phẩm phải vượt lên trên những nét khác
biệt không thể tránh khỏi được về mặt văn hóa, để có thể nhận chân những đường
hướng căn bản của nỗ lực tìm kiếm trong lãnh vực luân lý nơi các giáo hội địa
phương. Làm như thế mới tránh khỏi được khuynh hướng đánh giá quá cao một trường
phái thần học nào đó, để rồi không còn lưu ý tới các trường phái khác cho đầy đủ.
Nhờ thế, sức sáng tạo thần học trong các giáo hội ngoài châu Âu đã bắt đầu gây
được ảnh hưởng theo một chiều hướng tốt đẹp[15].
Đối với Huấn quyền, không phải là chuyện dễ để
có thể cởi bỏ những điều kiện ràng buộc của lịch sử và văn hóa, mà chú ý lắng
nghe một lối diễn đạt thần học phát sinh từ một kinh nghiệm xã hội và Kitô tận
gốc rễ khác hẳn với kinh nghiệm của giáo hội bên Tây Phương, chẳng hạn phong
trào thần học giải phóng. Cái khác biệt bao giờ cũng làm cho người khác lúng
túng.
Điều đó đúng đối với cái khác biệt văn hóa,
nhưng cũng còn đúng đối với cả cái khác biệt do những phát minh khoa học đem tới
nữa: đặc biệt là những phát minh có sức mở ra nhiều môi trường hoạt động rộng lớn
và hoàn toàn mới mẻ đối với lịch sử loài người. Chẳng hạn, có thể kể những xáo
trộn xảy ra tiếp theo sau các phát minh về y sinh học đưa đến chỗ tách biệt ba
chức năng khác nhau của giới tính: chức năng tương quan (fonction
relationnelle), chức năng hứng dục (fonction érotique) và chức năng sinh sản
(fonction procréatrice) (như trong ngừa thai nhân tạo, thụ thai nhân tạo)
Đó là cả những lãnh vực rộng lớn của kinh nghiệm
con người thời đại chúng ta, thế nên nhiều khi không còn đủ cho tín hữu nếu Huấn
quyền chỉ một mực trực tiếp dựa theo kho tàng khôn ngoan của Truyền Thống hay lặp
đi lặp lại những câu giải đáp quy phạm cổ xưa của quá khứ được nữa, vì chúng
không còn đủ sức để soi sáng cho những lối xử sự hiện nay[16].
Lịch sử cho thấy đôi khi Huấn quyền có sai lầm
như chế độ chủ nô-nô lệ, quan niệm về vai trò người nữ, kết án Galileo…Thế nên,
khi nhận thấy rằng một văn kiện nào đó của mình đã rõ ràng là không được đại đa
số Dân Chúa “đón nhận” trong tinh thần vâng phục, thì Huấn quyền sẽ cần phải
yêu cầu các tín hữu ấy, đặc biệt là các thần học gia uy tín, lấy tinh thần hiệp
thông với Giáo hội mà trình bày các lý lẽ làm cho họ không đồng ý như thế, một
cách tự do, không chút lo sợ đối với bất cứ một hình thức chế tài nào. Như thể
là một bằng chứng cho toàn dân Kitô giáo cũng như cho các người không Kitô thấy
rõ về niềm tự do của những ai biết thực thi Tin Mừng và tình bác ái hằng “mừng
vui khi gặp thấy sự thật” (1Cr 13, 6).
Về phía Dân Chúa
Nên lưu ý là để có được một cuộc đối thoại chân
chính với Huấn quyền, thì cần phải cởi bỏ thái độ nghi kỵ tiên thiên, cho rằng
“những người nắm giữ trọng trách trong Giáo hội đều sống quá xa cách với quần
chúng để còn có thể có một tiếng nói bổ ích trong lãnh vực luân lý”. Hơn nữa,
các tín hữu cần phải xác tín trở lại hoặc là phải xác tín mạnh mẽ hơn nữa đối với
chân lý này là Thánh Thần hằng hỗ trợ một cách đặc biệt những người kế vị các
tông đồ trong sứ mệnh làm “người công bố đức tin và làm Thầy dạy chính thức”.
Trong đời sống luân lý, có một cám dỗ thường xuyên rình rập, đó là cá nhân khép
kín mình lại.
Trong khi đó, Huấn quyền có thể đưa lại cho tín
hữu một cơ may quý giá: để cho người khác bứng mình ra khỏi cái thế cố hữu của
mình. Thật vậy, vì phải chăm sóc cho toàn thể Giáo hội, nên Huấn quyền ở vị thế
thuận lợi để phát hiện ở giữa các quan điểm luân lý nơi một vài Giáo hội và một
số nền văn hóa, những ý thức hệ đặt nền móng trên chủ trương phủ nhận những gì
là phổ cập, tức là gạt bỏ Tha Vị đi. Thế nên, lời dạy, lời mời gọi và nhắc nhở
của Huấn quyền phải được các kitô hữu đón nhận trước hết với tinh thần vâng phục,
con thảo, tin tưởng, lắng nghe, tùy theo sức ràng buộc của mỗi loại văn kiện. Mỗi
văn bản của Huấn quyền có thể gây xáo trộn những thói quen, vạch trần những vị
kỷ hẹp hòi, buộc chúng ta phải tổ chức lại cho rộng thoáng hơn khoảng không
gian thuộc quyền sở hữu của chúng ta, và cuối cùng, thúc bách chúng ta đi đến
hoán cải, đối thoại. Đối với người tín hữu, đón nhận lời của Huấn quyền không
có nghĩa là trút bỏ trách nhiệm của mình đi, cũng như không có nghĩa là vâng phục
một cách thụ động, nhưng là chuyển động để tiến tới trong niềm trung tín đối với
Lời Chúa[17].
Liên quan đến bài viết này, tập trung vấn đề
luân lý, khi dùng đến một văn bản của Huấn quyền cho thích đáng không có nghĩa
là chỉ lo xác định cho đúng tầm quan yếu của nó về mặt thần học; mà còn phải biết
phân biệt ở trong nó, những gì thuộc chiều kích phổ quát của luân lý, các
nguyên tắc chung, với những gì thuộc chiều kích riêng biệt, các áp dụng cụ thể.
Như Thánh Tôma cũng nhiều lần nhắc nhở, qua một văn kiện, Huấn quyền dùng trọn
uy thế của mình để đảm bảo kinh nghiệm mình có về Lời Chúa, ban bố những quy tắc
rõ ràng, mong nhờ đó mà diễn đạt được nỗ lực thăm dò những gì là phổ quát hằng
tiềm ẩn ở nơi mọi cố gắng tìm kiếm trong lãnh vực luân lý. Đàng khác, Huấn quyền
cần ý thức rằng khi phải áp dụng các nguyên tắc kia vào trong cuộc sống cụ thể,
thì mình bị lệ thuộc rất nhiều vào cách thức mình phân tích các dữ kiện chính
trị, xã hội và hoàn cảnh cá nhân. Vì thế, khi đón nhận những huấn lệnh cụ thể của
Huấn quyền - các Kitô hữu có bổn phận phải lấy hết lòng nghiêm chỉnh mà lắng
nghe, nhưng cũng có thể xảy ra là họ không đồng ý với chúng, hoặc họ không thể
áp dụng trong hoàn cảnh đặc thù của mình. Đây là một vấn đề rất tế nhị của
lương tâm[18].
Với Tông huấn Amoris Laetitia (AL), Đức thánh cha Phanxicô đã trao cho tất cả các
gia đình một món quà đặc biệt. Đức Hồng Y Baldisseri nhận xét đúng đắn rằng
Tông huấn đã được đưa ra đúng thời điểm cơ chế gia đình đang trải qua cuộc khủng
hoảng nghiêm trọng nhất trong lịch sử[19].
Đức Phanxicô nhắc nhở các mục tử cần sự khiêm tốn của óc thực tế cứu xét hôn
nhân trong thực chất của nó, nghĩa là “một tiến trình năng động tăng trưởng và
thành đạt”. Đức thánh cha nhấn mạnh rằng cần dành chỗ cho việc huấn luyện lương
tâm các tín hữu: “Chúng ta được kêu gọi huấn luyện lương tâm, và đừng chủ
trương thay thế lương tâm” (AL s.
37). Theo Đức thánh cha, Chúa Giêsu đã đề nghị một lý tưởng yêu sách nhưng “Người
không bao giờ đánh mất sự gần gũi cảm thương với những người yếu đuối như người
phụ nữ xứ Samaria hoặc người phụ nữ ngoại tình” (AL s. 38).
Lương tâm phân định với sự chân thành và trung
thực những gì, trong lúc này, là sự đáp trả quảng đại có thể được dâng lên
Thiên Chúa, và khám phá, với một sự chắc chắn luân lý, đâu là sự dấn thân mà
Thiên Chúa đang kêu gọi ở giữa sự phức tạp cụ thể của hoàn cảnh hiện thực. Các
mục tử biết rằng sự phân định này là rất năng động và phải luôn mở ra cho các
khả năng tăng triển mới trong tiến trình đời sống Kitô hữu, và cho các quyết định
mới mẻ cho phép thực hiện đòi hỏi của Luật cách đầy đủ nhất.
Huấn quyền của Đức Phanxicô dẫn chúng ta đến chỗ
tái khám phá tầm quan trọng của lương tâm cá nhân trong đời sống cá nhân Kitô hữu
và trong đời sống Giáo hội. Công Đồng Vatican II nhấn mạnh: “Càng dành ưu tiên
cho lương tâm ngay thẳng, thì cá nhân và cộng đoàn càng tránh được những chọn lựa
mù quáng, và càng nỗ lực tuân phục những tiêu chuẩn khách quan của luân lý” (GS s. 16).
6. Đối thoại trong thực hành luân lý
Một trong những mục tiêu quan trọng mà Thượng Hội
Đồng Giám Mục thế giới về gia đình họp tại Roma vào tháng 10/1980 nhắm tới, là
làm sao xóa bỏ được sự cách biệt giữa giáo thuyết và thực tại, vì sự cách biệt
này vừa gây đau khổ cho nhiều người vừa làm cho giáo huấn luân lý của Giáo hội
bị suy giảm tính khả tín. Vì thế các nghị phụ đã đi tới chỗ xác định sự hiện hữu
cần thiết của Luật tiệm tiến (La loi de gradualité).
Luật tiệm tiến là gì? Đó là luật quan tâm đến những
giới hạn của con người: là những con người sống trong lịch sử, yếu đuối và ảnh
hưởng bởi tội lỗi, cùng lúc phải chu toàn nhiều trách nhiệm! Điều đó có nghĩa rằng
ta không thể đòi hỏi người tín hữu áp dụng tất cả luật luân lý, hoàn toàn và
ngay lập tức, nhưng cần phải kiên nhẫn giúp họ tiến tới trên con đường tăng trưởng,
từng bước trong thời gian[20].
Luật này nhìn nhận rằng sự hoán cải đòi hỏi thời
gian. Đứng trước một quy luật chưa thể áp dụng ngay được trong lúc này, hoàn cảnh
này, con người này, vì có một số giá trị khác cũng bị đe dọa, thì nhiều khi người
ta có thể chấp nhận một thời hạn nào đó với một số điều kiện[21]. Chú ý hai điều được đòi hỏi
mỗi người ở đây: a/ nhìn nhận quy luật và chấp nhận như luật dạy; b/ chân thành
cố gắng thiết lập những điều kiện để tuân giữ.
Trật tự luân lý, xét cho cùng, bắt nguồn từ
chính Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa. Trật tự này phục vụ sự phát triển toàn vẹn nhân
tính của mỗi người. Đoạn số 34 của Tông Huấn Familiaris Consortio của Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II xác định
rõ ràng điều vừa nêu trên đây là một “tiến trình tăng trưởng có tính chất sư phạm”:
“Con người... là một hữu thể ở trong lịch sử. Ngày qua ngày con người tự xây dựng
bản thân bằng nhiều chọn lựa tự do. Vì thế, con người nhận thức, yêu thương và
làm sự thiện theo các giai đoạn tăng trưởng của mình” (FC, s. 34,3). Ở đây
Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II nói đến một yếu tố quan trọng: con người là một
hữu thể lịch sử. Nghĩa là, ngài muốn nói rằng không phải một sớm một chiều mà
con người đạt đến sự trưởng thành viên mãn về luân lý. Con người chỉ từ từ đạt
tới mức hoàn hảo đó.
Nhờ Luật tiệm tiến, thần học luân lý đang nhìn
nhận rằng tính luân lý hành vi không phải chỉ có trắng hoặc đen mà thôi, nhưng
giữa trắng và đen còn có xám nữa. Dĩ nhiên xám chưa phải là trắng, nhưng nó
cũng không hẳn là đen, và không thể bị coi là đen! Tuy nhiên cũng phải nhấn mạnh
lại rằng nếu không phải bao giờ cũng đòi buộc phải áp dụng tức khắc và trọn vẹn
quy luật, thì bao giờ cũng buộc phải lo hướng tới tìm cách áp dụng trọn vẹn quy
luật đó. Sự hướng tới này phải có tính chất thực sự và sinh động, nghĩa là nó
có mục đích giúp chúng ta mở rộng thực hiện càng sớm càng tốt giá trị mà quy luật
bảo vệ[22].
VII. TÓM TẮT VÀI ĐIỀU THỰC TIỄN[23]
1. Như vậy tôi phải làm thế nào khi lương tâm tôi nói một điều mà Giáo hội
lại dạy tôi một điều khác?
Trước hết, thông thường chúng ta buộc phải tuân
theo giáo huấn Giáo hội. Nếu Giáo hội dạy một điều mà chúng ta tin tưởng vào điều
khác, chúng ta buộc phải tìm hiểu để biết được thấu đáo thực sự điều Giáo hội dạy
là gì và chúng ta có còn cơ sở để không đồng ý nữa không. Và chúng ta có bổn phận
tìm biết rõ chính xác điều chúng ta không đồng ý là gì và vấn đề đó nghiêm trọng
như thế nào, và phối hợp biện biệt tại sao chúng ta tin rằng cách thức chúng ta
hành động yêu Chúa, yêu tha nhân là bắt buộc hơn điều Giáo hội dạy. Trong suốt
quá trình, luôn luôn chúng ta phải giữ thái độ và lòng tôn trọng sâu xa giáo huấn
Giáo hội và chúng ta phải tránh gây tai tiếng cho những người khác.
2. Như vậy tôi có tự do chống lại lương tâm tôi không?
Không bao giờ, Tôma Aquinô dạy rằng nếu chúng ta
chống lại lương tâm chúng ta, chúng ta tự động phạm tội bởi vì chúng ta chống lại
tiếng nói của Thiên Chúa.
3. Nhưng chỉ bởi vì tôi theo lương tâm tôi, điều này không có nghĩa là
tôi đúng, phải không?
Không nhất thiết phải như thế. Để đạt được điều
đúng, chúng ta phải hiểu hoàn cảnh, điều kiện, tìm phương tiện đúng, và đoán
trước hậu quả. Nếu chúng ta bỏ sót một hoàn cảnh hoặc điều kiện, hoặc chọn sai
phương tiện, chúng ta sai. Nhưng lương tâm là tất cả những gì chúng ta có và vì
vậy chúng ta phải học thường xuyên qua kinh nghiệm từ những lỗi lầm của chúng
ta và cả từ những thành công của chúng ta nữa. Rèn luyện lương tâm là một quá
trình suốt đời.
4. Nếu bạn theo lương tâm, và bạn sai, bạn có tội không?
Không, chúng ta phạm tội khi nào chúng ta không
phấn đấu để hành động đúng. Bất cứ khi nào chúng ta phấn đấu để hành động đúng
phát xuất từ tình yêu, chúng ta hành động theo lương tâm. Bất cứ khi nào chúng
ta thất bại để phấn đấu thực hiện điều đúng, (như là người tư tế và Lêvi trong
dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu), chúng ta phạm tội. Tội là, theo như Chúa
Giêsu dạy, thất bại không yêu. Và yêu là phấn đấu tìm điều đúng. Phấn đấu tìm
điều đúng, tuy nhiên, không bảo đảm rằng chúng ta sẽ đúng.
Nếu tội là thất bại không phấn đấu đáp lại lời mời
gọi hay ân sủng của Thiên Chúa trong cụ thể, chúng ta nên phân biệt giữa phạm tội
và làm điều gì sai trái. Một mặt, chúng ta phạm tội khi chúng ta không phấn đấu
đáp ứng lại nhu cầu thiết yếu của tha nhân hay khi chúng ta không cố gắng vượt
qua những tật xấu của chúng ta. Mặt khác, có nhiều lần khi chúng ta cố gắng làm
điều đúng nhưng lại sai, hoặc khi chúng ta cố gắng tránh điều sai nhưng lại thất
bại. Chúng ta hối tiếc những hành vi sai trái hay lỗi lầm này, nhưng chúng
không phải là tội, chúng là những lỗi lầm.
5. Ta có thể nói rằng Adolph Hitler đã theo lương tâm của ông ấy và như
vậy ông ta đã không phạm tội không?
Đó thật là phi lý. Lương tâm là tiếng nói của
Thiên Chúa. Như vậy tiếng nói đó đòi hỏi chúng ta học hỏi hơn nữa, để hiểu những
nhu cầu của chúng ta và của người khác, và tìm tòi những cách thức để làm cho
cuộc sống của dân chúng trong đó có chúng ta được tốt hơn. Có thể nào chúng ta
tin được rằng Hitler đã phấn đấu và tìm tòi những cách thức này? Lương tâm ra lệnh
ý muốn phải mở ra với Thiên Chúa và tha nhân. Khi chúng ta không mở ra, đó là dấu
hiệu rõ ràng chúng ta không thực hành lương tâm, cũng không phấn đấu để yêu.
Kết
Như Thánh Tôma Aquinô đã nói, con người xuất
phát từ Thiên Chúa và sẽ trở về với Thiên Chúa. Vậy mục đích tối hậu của đời
người là sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa. Thần Học Luân Lý là để giúp con người
đạt đến mục đích tối hậu của đời người. Đời sống đức tin và luân lý của người
Kitô hữu không tách rời mà hòa quyện với nhau thành câu chuyện lịch sử ơn cứu độ
riêng cho người ấy. Hay nói cách khác, sống đức tin là cùng với Chúa viết nên
câu chuyện riêng của đời mình trong thực thi luân lý hàng ngày, trong cuộc sống
chung với tha nhân, với vũ trụ. Huấn quyền với Luật Giáo hội và Luật Thiên Chúa
như vị Thầy dạy uy quyền đầy lòng thương xót, đại diện uy tín và thế giá của
Chúa Kitô, chỉ cho mọi người con đường đúng đắn để đi đến gặp Chúa. Lương tâm mỗi
người sẽ được Chúa Thánh Thần hướng dẫn để chọn lựa các phương thế thích hợp với
người ấy để đi trên con đường đó. Trên con đường này, có người đi thẳng, có người
giữa đường gặp chướng ngại phải vòng qua một khúc quanh, có người đi máy bay,
có người dùng đường thủy, có người lại đi đường bộ với xe hơi, xe máy hay xe đạp,
thậm chí đi bộ, có người bước đi với đôi chân lành lặn, có người khập khiễng một
chân... Và như thế, với lương tâm trong sáng chân thực được thúc đẩy bởi Chúa
Thánh Thần, mỗi người sẽ viết nên câu chuyện lữ hành của đời mình, rất riêng và
độc đáo dưới con mắt Chúa và tha nhân.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 120 (Tháng 9 & 10 năm 2020)
[2] X. Kim Thao, “Quan niệm về thần học luân lý Theo thánh Tô-ma”, <https://catechesis.net/quan-niem-ve-than-hoc-luan-ly-theo-thanh-toma-aquino/> (23/9/2018).
[4] X. Bernard Häring, Free
and Faithful in Christ, (New York, Seabury Press, 1978), chương 6, bản dịch
Việt ngữ của Nguyễn Đức Thông (Hà Nội, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, 2004), tr.
235-240.
[6] X. “Đào luyện lương tâm”, Thư mục vụ của Đức TGM Harry J.
Flynn, <https://catechesis.net/dao-luyen-luong-tam/ > 23/9/2018.
[10] X. “Đào luyện lương tâm”, Thư mục vụ của Đức TGM Harry J.
Flynn, <https://catechesis.net/dao-luyen-luong-tam/ > 23/9/2018.
[12] X. Vũ Văn An, “Đức Tổng Giám Mục Cupich và vấn đề lương tâm”,<http://vietcatholicnews.org/News/Html/147793.htm>, 10/21/2015. [Hiệp Thông biên tập]
[13] X. Xavier Thévenot, SDB, “Huấn quyền và Luân Lý”, trong ETUDES, Paris,
tháng 2/1985 (362/2), tr. 231-244.
[19] Luís Martínez Sistach, “Các
viễn tượng mục vụ của “Amoris Laetitia” L’Osservatore Romano, 22-23/11/2016/
[20] Cuộc trao đổi của Nhật báo La Croix với cha Alain Thomasset, SJ “Luật
Tiệm Tiến có thể giúp tìm ra các giải pháp mục vụ”, Tý Linh chuyển ngữ, <https://gxkimlong.wordpress.com/2014/10/10/luat-tiem-tien-co-the-giup-tim-ra-nhung-giai-phap-muc-vu/>
[21] Alain You, “La loi de gradualité... et non pas la gradualité de la loi”, trong Esprit et Vie, (28/2/1991), tr. 120-127.
[22] Cuộc trao đổi của Nhật báo La Croix với cha Alain Thomasset, SJ “Luật
Tiệm Tiến có thể giúp tìm ra các giải pháp mục vụ”.
[23] James Keenan, SJ, Commandments
of Compassion, Claretian Publications, Manila, 2001.