NÊN THÁNH TRONG XÃ HỘI
Thư mục vụ của Tổng Giáo phận Hà Nội,
tháng 11-2020
WGPHN (2.11.2020) – Trong suốt năm 2020, chúng ta
đã tiến từng bước trong hành trình nên thánh. Tháng 11 là tháng cuối cùng của định
hướng mục vụ cho năm 2020. Từ tháng 12 năm 2020, chúng ta sẽ khởi đầu một dự
tính mục vụ mới, tức là xây dựng và kết nối tình hiệp thông trong gia đình Tổng
Giáo phận Hà Nội. Sau khi đã cùng nhau suy tư, cầu nguyện và hành động để diễn
tả sự thánh thiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, tháng 11 này, chúng ta chia sẻ
thao thức chung: làm sao để nên thánh trong xã hội Việt Nam, nơi tỷ lệ người
Công giáo rất thấp và Đức tin chưa có ảnh hưởng sâu đậm?
Người tin Chúa cũng là người công dân của một quốc gia. Đức tin không bứng họ ra khỏi xã hội trần thế. Họ hoàn toàn giống như những công dân khác. Tuy vậy, người tín hữu, mặc dù gắn bó với cuộc sống hiện tại, lại tin rằng quê hương đích thực của họ ở trên trời. Nếu con người khởi đầu hành trình trần thế, tức là sinh ra, ở dưới đất, thì đích điểm phấn đấu của họ lại là quê trời. Tuy vậy, đích điểm ấy chỉ có thể thực hiện được bằng cuộc đậm nét nhân hậu và yêu thương. Nói cách khác, hạnh phúc Nước Trời là kết quả của một cuộc sống tốt lành nơi dương thế.
I- Bối cảnh thực tế
1- Tỷ lệ người
Công giáo thấp
Tại Tổng Giáo phận
Hà Nội cũng như hầu hết các Giáo phận tại miền Bắc, người Công giáo chỉ là thiểu
số, tỷ lệ dao động từ 4% đến 6% trên tổng số dân. Cuộc di cư năm 1954 đã để lại
cho Giáo Hội miền Bắc nhiều hậu quả nghiêm trọng. Tại nhiều nơi, sau cuộc di
cư, có nhiều người đã không còn thực hành Đạo và đến thế hệ sau đó thì Đức tin
mất hẳn. Nếu số người Công giáo có tăng, là tăng tỷ lệ thuận với sự tăng trưởng
dân số.
2- Thành kiến xã
hội
Dưới cái nhìn của
nhiều người lương dân, Đạo Công giáo bị coi như “Đạo của Tây”. Cách trình bày lịch
sử thiếu khách quan và đầy thành kiến đã diễn tả người Công giáo như những người
cộng tác với chế độ thực dân. Những điều này đã để lại hình ảnh thiếu chân thực
về lịch sử truyền giáo tại Quê hương đất nước chúng ta. Có những thời điểm, người
Công giáo bị coi như “công dân hạng hai”. Khi mang đầy thành kiến như thế, những
việc làm tốt đẹp của Giáo Hội hay của người Công giáo cũng không được ghi nhận
và đánh giá đúng mức. Trong thực tế, từ khi hiện diện tại Việt Nam, Giáo hội
Công giáo đã đóng góp tích cực trong sự nghiệp giáo dục và phát triển xã hội. Một
trong những thành quả tuyệt vời là chữ quốc ngữ mà hiện tại chúng ta đang sử dụng.
Lịch sử công nhận linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), nhà truyền giáo dòng
Tên người Pháp, là một trong những người có công đầu trong việc sáng tạo và
biên soạn chữ quốc ngữ. Ngày hôm nay, Giáo Hội Công giáo vẫn đang tiếp tục đóng
góp tích cực trong những lãnh vực khác nhau: Từ thiện bác ái, Kinh doanh thương
mại, Giáo dục học đường…
3- Giáo dân thiếu
học hỏi Giáo lý
Tình trạng thiếu
nhân sự kéo dài trong nhiều thập kỷ, gây nên những thiệt thòi trong đời sống Đức
tin: thiếu linh mục, tu sĩ, giáo lý viên. Những sinh hoạt tôn giáo bị hạn chế.
Những cơ sở đào tạo và giáo dục bị trưng thu. Tất cả những khó khăn này đã làm
cho Giáo Hội miền Bắc không thể phát triển. Vì không được học giáo lý, người
giáo dân không hiểu Đạo. Họ chỉ giữ Đạo theo kiểu truyền thống, với kiến thức
giáo lý sơ sài. Vì vậy, khi gặp khó khăn, những người giáo dân này dễ dàng bỏ Đạo
hoặc xa lánh nhà thờ để tránh những phiền lụy. Một số người trí thức như giáo
viên, bác sĩ không dám nhận mình là người Công giáo, vì hai chữ Công giáo có thể
khiến họ mất việc làm hoặc bị nghi kỵ. Thật may mắn thay, những năm gần đây, những
thành kiến và mặc cảm này đang bớt dần, nhiều người trí thức Công giáo đã và
đang mạnh dạn công khai nhận mình là người có Đạo, thường xuyên tham dự Thánh lễ
và đang dấn thân làm chứng cho Đức tin.
II- Người công dân trong xã hội
1- Trách nhiệm
tham gia với xã hội
Người Kitô hữu
cũng là công dân của một quốc gia. Vì vậy, họ có bổn phận với đất nước, với dân
tộc. Sách Giáo Lý của Giáo hội Công giáo nói rõ như sau: “Các công dân phải
tích cực tham gia càng nhiều càng tốt vào đời sống cộng đồng. Cách tham gia có
thể khác nhau từ nước này đến nước khác, hoặc từ nền văn hoá này đến nền văn
hoá khác. Phải khen ngợi đường lối hành động của những quốc gia đang để cho các
công dân được tham gia tối đa vào việc nước trong sự tự do đích thực” (Số
1915).
2- Công ích là
gì?
Cũng như mọi công
dân, người Kitô hữu có bổn phận xây dựng công ích. Tuy vậy, cũng cần tìm hiểu
xem, theo nhãn quan Công giáo, công ích là gì. Giáo lý Công giáo dạy: “Công ích
là toàn thể những điều kiện của đời sống xã hội giúp cả những tập thể, những phần
tử riêng rẽ, đạt tới sự hoàn hảo riêng của mình một cách đầy đủ và dễ dàng hơn”
(Sách GL của GHCG, số 1906). Theo giáo huấn của Giáo Hội, công ích gồm ba yếu tố
cơ bản sau:
*Công ích phải tôn trọng cá vị, tức là các quyền bất khả
nhượng của nhân vị. Đặc biệt, công ích nằm trong những điều kiện để thực thi
các sự tự do tự nhiên, như quyền hành động theo quy tắc ngay thẳng của lương
tâm, quyền bảo vệ đời tư và quyền tự do chính đáng, cả trong lãnh vực tôn giáo.
*Công ích phải nhắm tới sự thịnh vượng xã hội và sự
phát triển của chính tập thể. Quyền bính xã hội phải giúp mỗi người có được những
gì cần thiết để có một cuộc sống thật sự nhân bản: lương thực, áo quần, sức khỏe,
việc làm, giáo dục và văn hoá (x. Sách đã dẫn, số 1908).
*Công ích phải bao hàm hoà bình, nghĩa là sự bền vững
và an ninh của một trật tự chính đáng. Công ích thiết lập quyền tự vệ chính
đáng của cá vị và tập thể.
3- Người giáo dân
và bổn phận chính trị [1]
Nếu Giáo Luật cấm
các giáo sĩ không được tham gia những hoạt động chính trị, thì lại khích lệ người
tín hữu giáo dân trong lãnh vực này. Không những thế, tham gia vào cơ cấu chính
trị được coi là một phần ơn gọi của các tín hữu giáo dân (x. Sách GL của GHCG,
số 2442). Tuy nhiên, Giáo Hội cũng lưu ý: những hành động tham gia chính trị phải
luôn nhắm tới công ích và phù hợp với sứ điệp Tin Mừng và với giáo huấn của
Giáo Hội. Các tín hữu giáo dân có bổn phận đem nhiệt tình Kitô giáo làm sinh động
các thực tại trần thế, và trong đó tỏ ra mình là những chứng nhân và những người
xây dựng công lý và hoà bình.
III- Nên thánh trong xã hội
Đức Piô XII,
trong diễn từ đọc trước các tân Hồng y (20-2-1946), đã khẳng định: “Các tín hữu,
hay chính xác hơn, người giáo dân, có mặt ở hàng ngũ tiên phong trong đời sống
Giáo hội; nhờ họ, Giáo Hội trở thành nguyên lý sống động cho xã hội nhân loại.
Chính vì thế, họ là những người trước hết phải có một ý thức luôn luôn sáng suốt
rằng không những mình thuộc về Giáo Hội, mà còn là chính Giáo Hội, tức là cộng
đoàn tín hữu trên trần gian, dưới sự lãnh đạo của một vị thủ lãnh chung, là Đức
Giáo Hoàng, và các vị Giám mục hiệp thông với ngài. Người giáo dân là Giáo Hội”.
Khẳng định trên cho thấy vai trò quan trọng của người Kitô hữu giáo dân trong
xã hội, để diễn tả hình ảnh sống động của Đức Kitô qua đời sống chứng nhân. Nên
thánh trong xã hội tức là lưu tâm sống tốt ơn gọi của người Kitô hữu trong môi
trường cụ thể mình đang sống.
1- Trước hết, phải
là người công dân tốt
Trong huấn từ
dành cho các Giám mục Việt Nam hành hương Ad Limina năm 2009, Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI đã mời gọi mọi tín hữu Công giáo Việt Nam hãy là những người công
dân tốt và là người công giáo tốt. Hai chiều kích này liên hệ hỗ tương với
nhau. Không thể là người công giáo tốt mà là người công dân không tốt. Từ năm
1980, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã đề ra định hướng mục vụ “Sống Phúc Âm giữa
lòng Dân tộc”. Đây là một ý tưởng mới mẻ và có thể coi là một bước đột phá. Tiếc
rằng nhiều người đồng hoá “Dân tộc” với hệ thống chính trị, nên còn nhiều giải
thích và lập luận không chính xác. Mặc dù còn nhiều nghi ngại và thành kiến,
không thể phủ nhận những hiệu quả tích cực mà Giáo Hội Công giáo Việt Nam đã và
đang mang lại cho Quê hương thân yêu của chúng ta ở nhiều lãnh vực khác nhau.
Đó là những chứng từ hùng hồn về giá trị Tin Mừng. Người Công giáo được mời gọi
tiếp tục đóng góp phần mình để xây dựng cuộc sống nhân ái yêu thương, hòa bình
và hạnh phúc. Như thế, họ làm lan tỏa hương thơm của Đức tin đến mọi nẻo đường
của cuộc sống. Các vị lãnh đạo cấp cao của nhà nước, khi đề cập đến Giáo Hội
Công giáo, cũng thường nhận định: nơi đâu có đông đồng bào Công giáo, nơi đó có
ít tệ nạn xã hội. Đương nhiên, phải đau lòng nhìn nhận rằng, vẫn có những người
Công giáo đi ngược lại với giáo huấn của Chúa, làm tổn thương hình ảnh của Giáo
Hội.
2- Khiêm tốn và hối
cải
Để việc tham gia
vào công ích mang lại những hiệu quả thiết thực, người công dân phải luôn được
canh tân và hối cải. Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công giáo nêu rõ: “Cũng như mọi
bổn phận đạo đức, sự tham gia của mọi người trong việc hoạt động cho công ích,
bao hàm sự hối cải không ngừng được canh tân của các thành viên của xã hội. Phải
kết án nghiêm khắc sự gian lận và những mánh lới khác mà một số người dùng để
trốn tránh các đòi buộc của luật pháp và các quy định của bổn phận xã hội, vì
chúng không thể đi đôi với những đòi hỏi của đức công bằng. Phải quan tâm phát
triển những cơ chế giúp cải thiện các điều kiện của đời sống con người” (Số
1916).
3- Sứ mạng thánh
hóa trần thế
Sứ mạng đặc trưng
của người giáo dân là thánh hóa trần thế, là nên men, nên muối cho đời.
* Lời mời gọi nên thánh của mọi Kitô hữu
Nên thánh không
phải là đặc quyền của riêng thành phần nào, tất cả mọi người đều được mời gọi
trở nên hoàn thiện, và phải trở nên hoàn thiện. Các phương tiện nên thánh của
người giáo dân cũng là những phương chung cho tất cả mọi tín hữu: đời sống nhân
đức, được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa và các bí tích, việc cầu nguyện, hy sinh, bác
ái… và những sinh hoạt hằng ngày; nhờ thế, toàn thể cuộc đời trở nên hiến tế
tinh tuyền đẹp lòng Chúa và góp phần thánh hóa nhân loại.
Người giáo dân
nên thánh trong những điều kiện cụ thể của cuộc sống: nơi gia đình, nơi phố chợ,
nơi công sở… Nhờ sống đạo giữa lòng nhân loại như vậy, họ góp phần tích cực
“Tin Mừng hoá” thế giới; một thế giới còn quá nhiều chọn lựa nghịch với giá trị
của Tin Mừng. Nét đặc trưng của người giáo dân là nên thánh giữa đời, giữa những
xô bồ náo nhiệt chứ không phải nơi sa mạc hoang vu hay tu viện bốn bề yên tĩnh.
*Tính cách trần thế trong sứ mạng của người
giáo dân
Giáo Hội hôm nay
phải đương đầu với một trách nhiệm lớn lao: đem sắc thái nhân bản và Kitô giáo
vào trong nền văn minh hiện đại, sắc thái mà nền văn minh này đòi hỏi và dường
như khẩn khoản nài xin, nhằm lợi ích phát triển và sự hiện hữu của nền văn minh
ấy. Giáo Hội chu toàn các trách nhiệm ấy, đặc biệt nhờ các giáo dân, là những
người phải cảm thấy mình dấn thân vào việc thực hiện những hoạt động nghề nghiệp
như là việc chu toàn một nghĩa vụ, như là một dịch vụ mà do họ thực hiện trong
sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, trong Đức Kitô, để làm vinh danh Người.
Như vậy, với vị
thế đặc biệt của mình, người giáo dân có thể thi hành những sứ mạng mà hàng
giáo sĩ không thể nào chu toàn nổi. Họ đang là men Tin Mừng, là muối ướp trần
gian. Người giáo dân đang nỗ lực xây dựng Nước trời ngang qua những nẻo đường
trần thế, họ là lời nhắc nhở một thời cánh chung đã khởi đầu và đang tiến về sự
viên mãn. Lời của Đức Gioan Phaolô II, trong bài giảng bế mạc Thượng Hội đồng
Giám mục 1987, càng cho ta xác tín hơn sứ mạng đặc thù của người giáo dân: “Người
tín hữu giáo dân được đặt vào tận biên thuỳ của lịch sử: gia đình, văn hóa, xã
hội, thế giới lao động, kinh tế, chính trị, khoa học, kỹ thuật, truyền thông đại
chúng, những vấn đề lớn của sự sống, của liên đới, hoà bình, đạo đức nghiệp vụ,
nhân quyền, giáo dục, tự do tôn giáo”.
Kết luận: “Anh em là muối, là ánh sáng cho trần
gian”. Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu. Đây cũng là lý tưởng chúng ta phải đạt
tới. Ai cũng biết giá trị của hai chất liệu này. Không có muối, mọi món ăn sẽ
nhạt nhẽo vô vị; Thiếu ánh sáng, cuộc đời sẽ chìm trong bóng tối và cô đơn. Sự
sống sẽ không tồn tại nếu không có ánh sáng. Cuộc đời sẽ buồn chán nếu không có
muối tạo hương vị và niềm vui. Người tin Chúa trở nên muối và ánh sáng khi
chuyên tâm thực hành những gì Chúa dạy, đồng thời nhiệt thành quảng diễn lòng
nhân từ của Chúa qua chính cuộc đời của mình. Thực vậy, một người sống hiền
lành, trung thực và nhân hậu sẽ phản ánh lòng thương xót của Chúa. Sự tinh tế
và thánh thiện của một Kitô hữu sẽ có sức lan tỏa trong xã hội, tạo hình ảnh tốt
đẹp về Chúa Kitô và Giáo Hội của Người.
Như muối, men và
ánh sáng, người Kitô hữu được mời gọi dấn thân trong mọi lãnh vực xã hội. Làm
Kitô hữu không chỉ chấp nhận một số giá trị và xác tín, mà còn phải gặp gỡ Đức
Kitô. Gặp Người trong Bí tích Thánh Thể, qua việc chuyên cần lắng nghe Lời
Chúa, qua Giáo Hội là thân thể của Người. Không chỉ có thế, chúng ta còn có thể
gặp Chúa Giêsu nơi những anh chị em bé nhỏ, thấp hèn, bị bỏ rơi bên lề cuộc sống.
Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa được diễn tả như Đấng luôn đứng về phía người
nghèo để bênh vực và che chở họ. Ngày nay, Giáo Hội của Chúa Kitô cũng là Giáo
Hội của người nghèo, để nâng đỡ và bảo vệ quyền lợi cũng như phẩm giá của họ. Đức
Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần khẳng định điều này. Kinh nghiệm thực tế đã chứng
minh: tiền bạc mà thôi không đủ để tạo ra một xã hội nhân bản theo ý hướng của
Tin Mừng. Thăm viếng bệnh nhân, tiếp đón người lạ, chăm sóc người bị cầm tù,
quyên góp bác ái… rất quan trọng, vì qua các chương trình này, những người
nghèo và những người giúp đỡ đích thân gặp gỡ nhau. Khi làm như thế, họ có một
nhận thức đáng quý rằng tất cả đều được Thiên Chúa yêu thương (DoCat, số 312).
“Thà thắp lên một
ngọn nến nhỏ, còn hơn là ngồi để nguyền rủa bóng tối”. Giữa một xã hội còn nhiều
mảng tối hôm nay như gian dối, bạo lực, bất công, hận thù. Người Kitô hữu, thay
vì chỉ trích phê bình, trước hết hãy nhìn lại chính mình, để nhờ Đức tin và Lời
Chúa soi sáng, từ bỏ những khiếm khuyết và hoàn thiện bản thân. Nhờ bản thân được
hoàn thiện, họ có thể trở nên những ngọn hải đăng giữa xã hội mênh mông, giúp
cho người khác vượt đại dương cập bến an toàn.
Hà Nội, tháng 11 năm 2020
+TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Nguồn: tonggiaophanhanoi.org