THƯ MỤC VỤ TỔNG GIÁO PHẬN HÀ NỘI
CHỦ ĐỀ THÁNG 9/2020
NÊN THÁNH ĐỐI VỚI GIỚI TRÍ THỨC VÀ SINH
VIÊN
Lời mời gọi nên
thánh được gửi đến cho tất cả mọi người. Không chỉ là lời mời gọi, nên thánh
còn là một bổn phận đối với các Kitô hữu, tức là những ai đã được phúc lãnh nhận
ơn Thánh Tẩy. Trước mặt Chúa, không có sự phân biệt trí thức với bình dân; giàu
với nghèo; thành phố hay nông thôn; da trắng hay da màu. Tất cả đều là con cái
của Thiên Chúa, có cùng một Đức tin và một ơn gọi nên thánh.
Theo chương trình
mục vụ của Tổng Giáo phận, trong tháng Chín dương lịch, chúng ta cầu nguyện cho
ơn nên thánh của giới trí thức và sinh viên. Xin cho họ nỗ lực sống đức tin
trong hành trình kiếm tìm Thiên Chúa là nguồn của Chân, Thiện, Mỹ. Tìm kiếm cái
Đẹp, cái Thật và cái Tốt, là tìm kiếm chính Thiên Chúa. Cuộc tìm kiếm Chân lý
cũng là hành trình Đức tin. Thiên Chúa sẵn sàng tỏ mình cho những tâm hồn kiếm
tìm Ngài. Những ai thành tâm đến với Chúa sẽ được gặp gỡ Ngài. Tìm kiếm Chúa
cũng là một say mê, như người lái buôn phát hiện ra giá trị của viên ngọc quý,
về bán mọi sự để mua bằng được viên ngọc ấy. Người trí thức khi đã gặp Chúa, sẽ
say mê Ngài, như chàng thanh niên Augustinô đã thốt lên: "Lạy Chúa, Chúa
đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi
được nghỉ yên trong Chúa". Sau một thời hoang đàng, chàng thanh niên ấy cuối
cùng cũng gặp được Chúa và cảm thấy hối tiếc: “Lạy Chúa, con đã yêu Ngài quá muộn.
Ôi vẻ đẹp của ngàn xưa, một vẻ đẹp mỗi ngày mỗi mới”.
1- Một thực tế đáng lo ngại
Một thực tế trong
xã hội miền Bắc của chúng ta, sau nhiều thập kỷ thiếu vắng linh mục và việc dạy
giáo lý, nhiều tín hữu không có nền tảng Đức tin. Họ giữ Đạo theo kiểu “Đạo
làng” tức là sinh ra và lớn lên trong một thôn làng, thế hệ trước dạy thế hệ
sau, chỉ biết làm Dấu Thánh giá và một số kinh “chiều hôm ban sáng”, ít có điều
kiện học giáo lý. Chính vì vậy, khi rời thôn làng để đi học đại học, đi bộ đội,
công nhân hoặc tìm kiếm việc làm ở các đô thị, họ không còn trong một không
gian làng xóm nữa, Đức tin vì thế mà mai một. Nhất là những trường hợp tiếp cận
với những tuyên truyền vô thần hoặc những lý thuyết chống tôn giáo, những người
trẻ này dễ mất Đức tin. Họ dễ dàng bỏ những thực hành đạo đức truyền thống mà họ
được cha mẹ dạy từ khi còn nhỏ trong gia đình.
2- Một tín hiệu đáng vui mừng
Xã hội chính trị
của Việt Nam theo chủ trương vô thần. Trong nhiều thập kỷ qua, nhất là thời bao
cấp ở miền Bắc, những người tín hữu Công giáo chịu nhiều thiệt thòi. Nhiều bác
sĩ, giáo viên, doanh nhân hay nhà khoa học, dù là người Công giáo, không dám
công khai tuyên xưng Đức tin. Bởi lẽ hai chữ “Công giáo” có thể gây nhiều hệ lụy.
Sự phân biệt kỳ thị này, hiện nay đã bớt rất nhiều. Giới trí thức Công giáo
đang đóng góp tích cực phần mình để phát triển xã hội trong nhiều lãnh vực. Có
rất nhiều bác sĩ, giáo viên và doanh nhân Công giáo thành đạt và có uy tín
trong các lãnh vực chuyên môn. Nhiều người trong họ công khai thực hành Đức
tin. Nhiều người Công giáo cũng là những chuyên viên trong các ngành kiến trúc,
hội hoạ, âm nhạc, văn chương. Các nhà trẻ mầm non do các nữ tu đảm trách đều đạt
chất lượng giáo dục tốt, nhiều người dân tín nhiệm. Có nhiều vị cán bộ gửi con
vào các trường này. Đây là tín hiệu vui cho thấy những rào cản của thành kiến
đang bớt dần và hiệu quả giáo dục Công giáo được nhiều người công nhận.
3- Đức tin và Lý trí
“Đức tin và Lý
trí là như đôi cánh giúp cho trí tuệ con người băng mình lên để chiêm niệm chân
lý”. Đó là câu mở đầu của Thông điệp mang tên “Đức tin và lý trí – Fides et
Ratio” do Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố ngày 14-9-1998. Lời khẳng định
này đã nêu rõ quan điểm của Giáo Hội về lý trí, đồng thời xóa đi mọi hiểu lầm về
vấn đề này. Trong quan niệm thông thường, người ta cho rằng tôn giáo nói chung
chỉ dành cho giới bình dân và người ít học. Nhiều người thiếu thiện cảm với
Giáo Hội Công giáo lập luận rằng Đức tin vào Thiên Chúa chỉ tồn tại bao lâu con
người còn ở trình độ văn hóa thấp kém. Họ so sánh Đức tin như lớp mây mù, lý
trí là ánh sáng mặt trời. Đức tin chỉ tồn tại khi con người kém hiểu biết, cũng
như đám mây mù chỉ bao phủ khi mặt trời chưa mọc lên. Một khi đã có ánh sáng mặt
trời soi chiếu thì lớp mây mù tất yếu sẽ phải tan đi. Thực tế chứng minh, những
quan điểm này là phiến diện, xuất phát từ thành kiến và hiểu biết lệch lạc về
tôn giáo nói chung và công giáo nói riêng.
Khi khẳng định:
“Đức tin và Lý trí như đôi cánh giúp cho trí tuệ con người băng mình lên để
chiêm niệm Chân lý”, con người được diễn tả như một con chim đang vươn mình lên
cao. Con chim một cánh sẽ không thể bay được. Con người không thể khám phá chân
lý nếu chỉ có riêng Đức tin hay chỉ có lý trí mà thôi. Cuộc sống con người là một
cuộc kiếm tìm chân lý. Lý trí sẽ giúp cho con người đạt tới Chân lý và Đức tin
giúp con người gặp gỡ Đấng Tối cao. Đấng Tối cao trong Đức tin của người Kitô hữu
chính là Thiên Chúa, là Đấng Giàu lòng thương xót và là Cha yêu thương hết thảy
mọi người. Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể đã mạc khải cho chúng ta về Thiên
Chúa Cha, đồng thời mời gọi chúng ta hãy sống tình con thảo với Chúa Cha và
tình huynh đệ với anh chị em, không phân biệt chủng tộc hay ngôn ngữ. Ngài yêu
thương mọi người và muốn cho họ được hạnh phúc.
Lý trí giúp con
người thấu đạt Chân lý. Vì vậy, trong tiến trình huấn luyện tại các Đại Chủng
viện, các chủng sinh phải học Triết học trước khi học Thần học. Thánh Gioan
Phaolô II viết trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 52: “Triết học đóng góp
rất nhiều để giúp ứng sinh làm giàu việc đào tạo trí thức nhằm đạt tới sự “suy
tôn chân lý”, nghĩa là một sự bái phục chân lý với tâm tình trìu mến dẫn đến chỗ
nhìn nhận rằng chân lý tự nó không hề được tạo nên hoặc được khuôn đúc do con
người nhưng được ban cho con người do bởi Chân lý tối thượng, bởi Thiên Chúa; rằng
lý trí con người, mặc dầu bị hạn chế và đôi khi rất khó khăn, có thể đạt tới
chân lý khách quan và phổ quát, là chân lý liên quan tới Thiên Chúa và tới ý
nghĩa căn cơ của hiện hữu; sau hết, rằng đức tin tự nó không thể loại bỏ lý trí
hoặc miễn trừ nỗ lực “suy tư” về những gì đức tin chất chứa, như lời dẫn giải của
một đầu óc xuất chúng là thánh Augustinô: “Tôi đã khao khát dùng trí thông minh
để dò tìm điều mà tôi đã đặt niềm tin tôi vào, tôi đã bàn cãi nhiều và tôi đã cực
nhọc không ít”.
4- Đức tin và Khoa học
Do chính bản chất
của nó, Đức tin nằm ở một bình diện khác hẳn so với khoa học. Đức tin không dựa
trên cơ sở xác minh của thí nghiệm theo kiểu khoa học, không phát nguyên từ những
tư biện lý tính, và cũng không phải là một chuỗi luận đề giản lược đọc thấy
trong Kinh Tin Kính. Đức tin, trước hết là thái độ gắn bó đối với một Đấng, là
tâm tình phó thác vào trong tay Một Vị, là cuộc dấn thân của chính cá nhân mình
cho Ngài.
Đối tượng của Đức
tin chính là Thiên Chúa, Đấng đã tự mạc khải mình ra. Người biết mở lòng ra để
tin, thì sẽ đón nhận được sứ điệp của Ngài, với niềm hy vọng là trong sứ điệp ấy,
mình sẽ tìm gặp được ý nghĩa cho đời của mình. Nếu biết dấn bước vào trong con
đường Ngài vạch cho, nếu biết sống kinh nghiệm Đức tin, thì lúc đó, người có
lòng tin sẽ xác tín cảm nghiệm được là mình đang sống trong Chân lý.
Từ đâu mà có được
niềm xác tín thâm sâu ấy? Từ uy tín của Đấng mạc khải. Chính Thiên Chúa đã nói
với con người những gì con người tin. Đó chính là một thể dạng của xác thực
tính, nhưng là thuộc một loại khác với xác thực tính của khoa học; cả hai loại
đều đặt nền móng trên những kinh nghiệm, nhưng những kinh nghiệm này cũng thuộc
những thể loại khác nhau.
Theo một cách nói
thông dụng, thì khoa học lo nghiên cứu về các hiện tượng (vật lý, hóa học, sinh
học…) để cố trả lời cho nghi vấn thế nào về các sự vật; khoa học không thể có ý
kiến về ý nghĩa của các sự vật. Đức tin có một đối tượng khác hẳn: Đức tin lo
tìm hiểu về Thiên Chúa và về những gì Ngài nói với con người nhằm giúp con người
đạt tới được tiêu đích của đời mình. Đức tin vén mở cho thấy ý nghĩa của các sự
vật; khoa học không làm được như thế. Vì lãnh vực của khoa học thuộc phạm vi của
thế nào, chứ không phải của tại sao, tức là thuộc phạm vị của cơ chế các hiện
tượng, chứ không thuộc phạm vi của ý nghĩa chúng hàm súc.
Nếu đã rõ là hai
loại hiểu biết ấy nằm ở hai bình diện khác nhau, thế tất cũng sẽ hiểu là không
thể có chuyện những gì khoa học minh xác lại đụng đầu đối nghịch với những gì Đức
tin khẳng định và ngược lại” (Trích bài viết của Jean-Marie Moretti, SJ, mang tựa
đề Science et Foi, được đăng trên Tuyền tập Thần học tiếng Việt số 8, năm
1993).
5- Những nhà khoa học đồng thời là tín hữu
Lịch sử Giáo Hội
ghi nhận nhiều nhà khoa học, đồng thời cũng là người có Đức tin. Chúng ta dẫn
chứng một vài vị dưới đây:
- Blaise Pascal,
Thần đồng toán học và vật lý. Người có câu nói bất hủ: “Khoa học nông cạn làm
cho người ta xa Thiên Chúa. Khoa học tinh vi làm cho người ta gần Thiên Chúa”.
Và ông cũng đã kết luận: “Con người chỉ là cây sậy biết tư duy.”
- Isaac Newton,
Nhà khoa học và toán học vĩ đại nhất của mọi thời đại.
- René Descartes,
Nhà bác học về Hình học và Những con số bất biến. Người hướng dẫn cuộc Cách Mạng
Khoa học của phương Tây.
- Anton Maria
Schyrleus of Rheita, Nhà thiên văn học, đã dâng hiến công trình của mình cho Đức
Trinh nữ Maria.
- Louis Pasteur,
Người sáng chế ra phương pháp khử trùng, nhà hóa học, và vi khuẩn học, đã giải
trừ vấn nạn của bệnh chó dại, và người đầu tiên tạo ra việc tiêm Vaccine phòng
bệnh.
- George Jackson
Mivart, Hàn Lâm về Thực Vật Học
- Georges
Lemaitre, Linh mục và là người khai phá ra thuyết Big Bang.
Trên đây chỉ là
trích dẫn một số ít các nhà khoa học tiêu biểu để chứng minh rằng, một người có
Đức tin vẫn có thể là một nhà khoa học. Đức tin và lý trí bổ túc cho nhau trong
hành trình kiếm tìm Chân lý. Một thống kê đã cho kết quả: 92% những nhà khoa học
thế kỷ 19 là người Kitô hữu. Trong lịch sử Giáo Hội, có nhiều vị thánh đồng thời
cũng là những nhà trí thức uyên thâm như Thánh Thomas Aquinô, Thánh Augustinô,
Thánh Alfonso de Liguori.
6- Lời mời gọi giới trí thức và sinh viên
nên thánh
Bạn đừng sợ nên
thánh. Sự thánh thiện không tước đi năng lực, sức sống hay niềm vui của bạn.
Trái lại, bạn sẽ trở thành điều mà Chúa Cha nhắm đến khi tạo nên bạn, và bạn sẽ
trung thành với bản ngã sâu xa nhất của mình. Việc ta phụ thuộc vào Thiên Chúa
sẽ giải phóng ta khỏi mọi hình thức nô lệ và giúp ta nhận ra phẩm giá cao cả của
mình.
“Làm gì để trở
thành người Công Giáo trí thức” là mối bận tâm của các chủ chăn trong Giáo Hội
bởi người trí thức chính là hào quang của Giáo Hội. Mối bận tâm này được thánh
Phaolô chia sẻ: từ ngày chúng tôi nghe biết về anh em, chúng tôi không ngừng cầu
nguyện và kêu xin Thiên Chúa cho anh em được am tường thánh ý Người, với tất cả
sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thần Khí ban cho (Cl 1,9). Thiết tưởng, nếu các bạn
am tường thánh ý Người dưới sự hướng dẫn của Thần Khí, hội tụ cả Đức Tin và Lý
Trí, các bạn sẽ có cơ hội tốt để mách nước cho bè bạn không cùng niềm tin rằng:
khi các bạn đang miệt mài đi tìm sự khôn ngoan, và đi tới cùng sự khôn ngoan ấy,
các bạn sẽ chạm tới cội nguồn chân lý là chính Thiên Chúa.
Là sinh viên Công
Giáo, các bạn nên tự hào và dấn bước bởi sứ mạng của các bạn trong thế giới hôm
nay là làm sao để người thời đại thấy được sự vượt trội về sự thánh thiện, tốt
lành, công bằng, bác ái... khi ấy, chắc hẳn, người đời cũng phải trầm trồ rằng:
đúng là các bạn có đạo ngoan hiền, tử tế, thật thà, đoàn kết, hòa đồng, sống thật
tốt, chơi thật đẹp. Tuy nhiên, trong thế giới hôm nay, người sinh viên Công
Giáo cần vượt trội về tri thức nữa. Trong thế giới phẳng hiện nay, người ta rất
tôn trọng năng lực và tài giỏi, nghĩa là phẩm chất. Để trả lời cho các vấn nạn
của con người, có thiện chí quảng đại thôi tự nó vẫn chưa đủ, trừ phi có kèm
theo những hiểu biết và những kỹ thuật thích hợp giúp chúng ta hiểu các hiện tượng
văn hóa đang ảnh hưởng tới đời sống hiện nay, và các Kitô hữu còn cần khả năng
đối phó với những hiện tượng ấy bằng sự hiểu biết ngày càng sâu sắc hơn về mầu
nhiệm Đức Kitô.
Như Thánh Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định: Đức tin và lý trí là đôi cánh giúp cho trí tuệ
con người băng mình lên để chiêm niệm chân lý”. Người công giáo không tách rời
lý trí với Đức tin, đồng thời xác định hai khía cạnh này không hề mâu thuẫn. Việc
trau dồi kiến thức cần phải đi đôi với những thực hành đức tin, tức là lắng
nghe lời Chúa, cầu nguyện, tham dự thánh lễ và lãnh nhận thường xuyên các bí
tích. Như thế, người trí thức sẽ được phát triển toàn diện, quân bình. Nhờ Đức
tin vững vàng, họ sẽ nhận ra Thiên Chúa hiện hữu trong cuộc đời và Ngài là
nguyên lý của mọi sự mọi loài. Hãy chứng minh mình là một nhà trí thức đồng thời
cũng là một tín hữu.
Cuối cùng, anh chị
em trí thức và sinh viên không phải là người khách lạ qua đường, nhưng là thành
viên của Tổng Giáo phận. Anh Chị em được mời gọi gắn bó và tham gia nhiệt thành
vào đời sống Đức tin của giáo xứ, như tham gia các hội đoàn đạo đức, các phong
trào tông đồ giáo dân hoặc những việc từ thiện bác ái tuỳ theo khả năng của
mình. Những hoạt động tông đồ này mang lại nhiều hiệu quả tích cực cho công cuộc
truyền giáo. Là người có kiến thức, anh chị em sẽ dễ dàng trình bày về Đức tin
và niềm hy vọng Kitô giáo cho những người không cùng niềm tin với chúng ta.
Tháng Chín cũng
là thời điểm khai giảng năm học mới. Với đại dịch viêm phổi Vũ Hán (Covid-19),
chắc chắn đây sẽ một năm học nhiều khó khăn và thách thức. Tuy vậy, nếu biết cố
gắng, chuyên cần, các bạn sẽ đạt được những kết quả tốt. Tôi muốn nhắc lại với
các bạn lời Đấng Đáng kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: “Học để biết. Học để
canh tân. Học để phục vụ. Học để yêu mến. Chưa học để phục vụ đúng mức, con
chưa mến Chúa đủ.” Khi xác định việc học hành dẫn ta đến phục vụ tha nhân và
yêu mến Chúa, chúng ta sẽ cảm nhận được niềm hứng khởi và say mê, để không ngừng
tiến bước trong hành trình phát triển trí tuệ.
Kết luận
Anh chị
em đừng sợ hướng nhìn cao hơn, cho phép Thiên Chúa yêu thương và giải phóng
chúng ta. Đừng sợ để mình được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Sự thánh thiện
không làm cho chúng ta ít là người hơn, vì đó là một gặp gỡ giữa sự yếu đuối của
chúng ta và sức mạnh của ân sủng Thiên Chúa, vì như cách nói của Léon Bloy, rốt
cục, “bi kịch thảm hại duy nhất trong đời sống, đó là không nên thánh”.
Hà Nội, đầu mùa Thu 2020
+Giuse Vũ Văn Thiên
Tổng Giám mục Hà Nội.
Nguồn: tonggiaophanhanoi.org