Hướng tới Ngày Thế giới những người Di dân và Tị nạn năm nay
(26/09/2021), Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố sứ điệp với chủ đề: “Tiến tới một
cộng đồng 'chúng ta' ngày càng rộng lớn hơn”, nhằm xây dựng gia đình nhân loại
trong công lý và hòa bình, bảo đảm không ai bị loại bỏ lại đằng sau. Ngài kêu gọi
tất cả, các tín hữu công giáo và mọi người trên thế giới, cùng quan tâm và thể
hiện tình liên đới đối với những người dễ bị tổn thương khi di tản. Theo Đức
Thánh Cha, “Làn sóng di dân có thể được xem là ‘biên cương’ mới cho sứ vụ, một
cơ hội đặc biệt để loan báo Chúa Kitô và làm chứng cho đức tin Kitô trong tinh
thần bác ái và tôn trọng sâu sắc dành cho các cộng đồng tôn giáo khác”. Đức
Thánh Cha kêu gọi nỗ lực phá đổ những bức tường ngăn cản chúng ta và xây dựng
các nhịp cầu kiến tạo văn hóa gặp gỡ, với ý thức sâu sắc về mối liên kết sâu sắc
của chúng ta. Ngài nói rằng các phong trào di dân là cơ hội để chúng ta vượt
qua sợ hãi và để cho mình được phong phú bởi sự đa dạng khả năng của mỗi người.
Tôi xin giới thiệu các bài suy tư được gợi ý do Phân Bộ Di
Dân và Tị Nạn của Bộ Phát triển Con người toàn diện: “ONE CHURCH, ONE HOME, ONE
FAMILY” và “A CHURCH THAT REACH OUT” của Rev. Marcel Uwineza, S.J., Ph.D., do
ông Antôn Uông Đại Bằng và Gioan Lê Quang Vinh chuyển ngữ.
+Louis Nguyễn Anh Tuấn
Chủ tịch Ủy Ban Mục Vụ Di
Dân – HĐGMVN.
* * *
KHI HỘI THÁNH GIANG TAY RA
L.m. T.s. Marcel Uwineza, S. J.
Bản dịch của Antôn Uông Đại Bằng
Hội Thánh là một cộng đoàn thế nhân được Thiên Chúa, hiện
thân nơi Đức Giêsu Kitô, Con của Người, mời gọi. Đức Giêsu được Chúa Cha sai đến
loan báo Tin Mừng Cứu Độ và Nước Trời. Nước Trời hiện diện ngay bây giờ và Hội
Thánh, được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, hằng mong chờ Nước Trời chung cuộc sẽ
được thể hiện trọn vẹn. Niềm mong đợi của Thiên Chúa bộc lộ qua Đức Giêsu là tất
cả những ai theo Ngài sẽ hiểu được rằng mối tương quan của họ với Thiên Chúa
không phải chỉ là một chuyện riêng tư, nhưng là một sự kiện chung cho toàn thể
mọi dân tộc trên toàn thế giới.
Tư cách là thành viên Hội Thánh được thực hiện cụ thể qua việc
lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy của mỗi cá nhân. Hội Thánh là một hiệp thông của những
cộng đoàn, được nâng đỡ bởi ký ức về Đức Giêsu Kitô hằng luân lưu trong Truyền
thống Tông đồ. Hội Thánh hóa thân trong những câu chuyện và thực tiễn Kitô giáo
của những người lữ hành đi tìm ơn cứu độ. Hội Thánh bám rễ trong xác tín và đức
tin thần học rằng “tập thể nhân thế này, quốc gia lữ hành này, trong và cho thế
giới, là một phần cơ bản trong kế hoạch lịch sử của Thiên Chúa, được hướng dẫn
bởi Chúa Thánh Thần.” Do đó, đây không phải là một cộng đoàn của thuần những
người chúc lành, hay một nghiệp đoàn của những người cùng một nếp suy nghĩ.
Hội Thánh là dấu chỉ bí tích sự hiện diện của Đức Kitô trong
thế giới. Đây chính là một cộng đoàn những người nhờ gặp được Đức Kitô mà có một
căn tính mới. Tin Mừng Thánh Gioan giải thích căn tính mới này trong Đức Kitô
trong đoạn tường thuật cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với Nicôđêmô, một thành viên
của Công nghị và của phái Pharisêu, kẻ lén gặp Đức Giêsu vào ban đêm (Ga 3,
1-21). Nicôđêmô mong muốn biết thế nào là “sinh ra một lần nữa” để dự phần
trong Nước Trời. Đức Giêsu đã cho ông một lời giải đáp khá lạ lùng. Nhà thần học
dòng Tên Agbonkhianmeghe E. Orobator lưu ý rằng: “Đức Giêsu quay ngoắt sang một
cuộc độc thoại tỉ mỉ về xác thịt và thần khí, các chuyện dưới đất và các chuyện
trên trời, Con Người, Người Con làm quà tặng của Thiên Chúa cho thế giới, ánh
sáng và bóng tối, vân vân.” Diễn từ này tác động Nicôđêmô ra sao thì chúng ta
không biết được. Có thể ông ta ra về mà tâm trí lại bối rối hơn không chừng.
Tuy nhiên, câu chuyện của Nicôđêmô và Đức Giêsu không kết thúc đêm hôm đó. Về
sau, trong sách Tin Mừng này, chúng ta được nghe kể Nicôđêmô bênh vực cho Đức
Giêsu ngay giữa ban ngày. “Nicôđêmô, người trước đây đã đến gặp Đức Giêsu và là
một người trong nhóm của họ, đã lên tiếng hỏi rằng: “Lề luật của chúng ta có
cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?” Họ
trả lời: “Cả ông nữa, ông cũng là người Galilê sao? Ông cứ nghiên cứu rồi sẽ thấy:
không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả” (Ga 7, 50-52). Xem ra Nicôđêmô đã
thoát ra khỏi vai trò một chứng nhân yên lặng của Đức Giêsu và trở thành một
người lớn tiếng bênh vực cho Ngài; và chúng ta có thể suy luận rằng cuộc gặp gỡ
Đức Giêsu hôm xưa đã gây một ấn tượng sâu xa trên tâm hồn ông. Nicôđêmô không
còn “bước đi trong sợ hãi” – biểu lộ qua việc đến gặp Chúa giữa đêm khuya – và
đi theo ánh sáng ban ngày – biểu lộ qua việc bênh vực Đức Giêsu giữa thanh
thiên bạch nhật. Trước cái chết của Đức Giêsu, những môn đệ thân tín của Ngài bỏ
rơi Ngài, còn ai là người xuất hiện trong cuộc Khổ nạn của Ngài? Nicôđêmô chính
là người đã mang chừng một trăm cân một dược trộn với trầm hương để tẩm liệm
thân xác Chúa (Ga 19, 39-42). Cha Orobator kết luận: “Nicôđêmô là gương mẫu của
một tín nhân ra sức đào sâu sự hiểu biết niềm tin của mình.” Nicôđêmô biểu
trưng cho tất cả những ai nhận thức được sự độc đáo nơi Đức Kitô và quyết định
dành chỗ trong đời mình cho điều khám phá mới mẻ và có sức biến đổi này mang đến.
Ai gặp được Đức Kitô sẽ có một căn tính mới và một triển vọng mới.
Khi đọc sách Tân Ước, chúng ta biết được rằng: không có người
nào đã gặp gỡ Đức Giêsu mà lại không được biến đổi sau đó. Vì lý do gì đi nữa
thì một lối sống mới cũng phát sinh. Một cuộc gặp gỡ nghiêm túc với Đức Giêsu sẽ
biến đổi con người tận căn. Thật không nói ngoa khi bảo rằng: trọn cả cuốn Phúc
Âm không có một người nào đến với Đức Kitô rồi rời khỏi Ngài mà không được biến
đổi. Ví dụ đầy dẫy. Hãy nhớ lại các vị đạo sĩ, sau khi đã thờ lạy Hài nhi
Giêsu, đã được báo trong giấc mơ là đừng gặp lại Vua Hêrôđê nữa, nhưng hãy trở
về quê nhà theo ngả đường khác (Mt 2, 12). Hay hãy nghĩ về những cuộc gặp gỡ của
Đức Giêsu với ông Lêvi hoặc Zakêu, hay người Nữ Samaritanô, hay người Thanh
niên Giàu có (người này bước đi mà lòng buồn rầu), người phụ nữ bị bắt quả tang
phạm tội ngoại tình, người trộm treo trên thập giá và những người khác. Người
nào trong số họ gặp được Đức Giêsu rồi cũng thay đổi một cách nào đó. Phần lớn
nhất của sách Tân Ước bị chi phối bởi Phaolô (Saulô) mà cuộc gặp gỡ với Đức
Kitô phục sinh trên đường đi Đa-mas đã biến đổi ngài thành vị Tông đồ của dân
ngoại.
Như Đức Giêsu, Hội Thánh cũng có nhiệm vụ làm một cộng đoàn
của tiếp xúc nhân bản đích thực. “Cung cách” Giêsu thách đố Hội Thánh biết lắng
nghe và đồng hành với hết mọi người, đồng
thời chú ý đặc biệt tới những người đang khổ đau trong xã hội chúng ta. Cung
cách ấy thúc giục chúng ta đi vào những phố phường của những vùng ngoại vi để
chữa lành “những người di cư, tị nạn, những người bị dời chỗ cư trú và những nạn
nhân của nạn buôn người, những người mà Chúa muốn biểu lộ tình thương yêu và
loan báo ơn cứu độ.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi người Công giáo làm
thành viên của một Hội Thánh biết liều mình và sẵn sàng bị lầm lẫn khi dấn thân
vào thế giới, nhất là những ai bị coi như đồ bỏ đi trong thế giới chúng ta.
Ngài cổ vũ vun trồng một nền văn hóa gặp gỡ với khát vọng thăng tiến đối thoại
chân thành, bằng cách biết lắng nghe và sẵn sàng trực diện với những thách đố
và bất đồng. Đức Thánh Cha Phanxicô mời
gọi Hội Thánh ‘nỗ lực cho một nền văn hóa gặp gỡ’, theo một cách đơn giản, ‘như Đức Giêsu đã
nói: đừng chỉ trông thấy thôi, nhưng phải nhìn; đừng chỉ nghe thấy thôi, nhưng
phải lắng nghe; đừng chỉ đi ngang qua thiên hạ thôi, nhưng phải dừng lại với họ;
đừng chỉ nói ‘thật đáng xấu hổ, tội nghiệp họ!’ nhưng phải để cho mình chạnh
lòng thương họ; và tiến lại gần, chạm vào họ mà nói: ‘Đừng khóc nữa’ và trao
cho họ ít ra một giọt sự sống.” Nói khác đi, sẽ chưa phải là Hội Thánh nếu chưa
biết dấn thân và biến đổi thế giới ở quanh mình. Cần phải là một Hội Thánh biết
nuôi dưỡng gặp gỡ với tha nhân, và như Emmanuel Levinas nói: “…Cuộc gặp gỡ này
bám rễ vào tha tính cơ bản của tha nhân, với sự chấp nhận ngay cả phải chịu đựng
để đáp lại sự khó chịu của tha nhân và sự thức tỉnh về cảm giác của mình về
trách nhiệm của mình đối với và cho tha nhân.”
Một Hội Thánh của tiếp xúc nhân bản đích thực đòi hỏi chúng
ta thực hiện điều đó như Simôn Kyrênê vác đỡ thập giá Đức Giêsu (Mc 15, 21),
như người Samaritanô Nhân hậu (Lc 10, 25-37); những điều này chưa đủ. Simôn
Kyrênê và người Samritanô Nhân hậu đã thực hiện những hành động tuyệt hảo trong
những hoàn cảnh cá nhân. Tuy nhiên, chúng la lại được mời gọi gặp gỡ Đức Giêsu
không phải chỉ bằng thực hiện những việc thiện cá nhân nhưng bằng cách lên tiếng
với giới hữu trách về những bất công trong xã hội chúng ta hôm nay, và làm cho
con đường tới Giêricô được an toàn khỏi nạn cướp bóc và côn đồ. Chúng ta cần phải
lớn tiếng nói lên rằng: không thể nào chấp nhận được cảnh người người cứ bị bạo
ngược và nghèo khổ, sống kiếp tỵ nạn, di cư và lánh cư mãi. Điều này có nghĩa là khi tỏ lòng xót thương đối
với ai mà không “quan tâm đối với các cơ cấu xã hội vốn khiến cho họ trở thành
đối tượng đáng xót thương thì mới chỉ là có tình cảm chứ chưa phải là yêu
thương.” Tỏ niềm cảm thương là quan trọng, nhưng điều ấy chưa đủ. Một Hội Thánh
của tiếp xúc nhân bản đích thực sẽ hành động như một người đáp ứng đầu tiên –
biết chạy ngay vào ngôi nhà đang cháy, chứ không phải là tìm cách lánh xa ngôi
nhà đó. Hội Thánh cần có những con người chữa lành những vết thương của dân
Chúa. Hội Thánh không cần đến những con người làm cho các vết thương lớn thêm
ra.
Có một câu chuyện tuyệt vời minh họa những gì một Hội Thánh
tiếp xúc nhân bản đích thực cần phải thể hiện. Nhiều năm trước đây ở Scotland
có một nhà quý tộc Anh lên đường đi tới Luân đôn để tham dự một khóa họp quan
trọng của nghị viện. Xe hơi của ông bị sa lầy bùn trên con đường quê và lâm vào
cảnh tuyệt vọng. Không có cần AAA mà cũng chẳng có một ai phụ giúp đẩy xe cho
ông ta được. Ông nghĩ mình không thể nào tới Luân đôn kịp lúc bỏ phiếu cực kỳ
quan trọng như đã hoạch định được. Đột nhiên lúc đó có một chàng nông dân Tô
cách lan cùng với một cặp bò đi qua và kéo luôn xe hơi của nhà quý tộc. Thế là
ông ta khỏi lỡ mất ngày hôm ấy. Nhà quý tộc vô cùng biết ơn chàng trai và muốn
thưởng cho chàng. Ông nói: “Nhất định là tôi có thể làm một điều gì để đền ơn cậu.”
Nhưng chàng trai nói; “Thưa không, cháu rất vui được phục vụ ông.” “Nhưng chắc
hẳn cháu phải có một ước mơ nào chứ. Một điều gì đó cháu thực sự mong muốn có
được trong đời mình.” Nhưng chàng trai cười đáp “Ồ, vâng. Cháu luôn muốn làm một
bác sĩ. Nhưng đó là điều ở ngoài tầm khả năng cháu.” Nhà quý tộc trở lại Luân
đôn. Ông cứ nghĩ xem làm thế nào tưởng thưởng được cậu bé kia. Ông dẫn cậu bé
đi tiếp xúc với một ngôi trường mà ông đã sắp xếp để cho cậu có được một học bổng.
Và cậu bé ấy đã nhập học.
Nhiều năm sau, trong
giai đoạn khốc liệt nhất của Thế chiến II, Winston Churchill lâm cơn nguy tử vì
bệnh cúm, giữa lúc ông đang đảm nhiệm chức vị Thủ Tướng Anh quốc (1940-1945).
Người ta đã cứu được mạng sống ông nhờ thứ thần dược tên là Peniciline do
Fleming phát minh. Và Fleming chính là cậu bé nông dân đã nhận được học bổng của
nhà quý tộc vốn là thân phụ của ông Churchill.
“Những hành động yêu thương có hiệu ứng gợn sóng và có thể
biến đổi một cách sâu xa sinh thái con người. Nhiệm vụ chúng ta là xây dựng một
nền văn minh tình thương hoặc sẽ chẳng còn một nền văn minh nào hết”, Đức Hồng
y Sean O’Malley nói. Trong khi chúng ta mừng Ngày Thế giới Di cư và Tỵ nạn, tôi
xin mời gọi anh chị em thực hiện nhiều hơn nữa những hành động yêu thương với
và cho những người di cư và tỵ nạn, bởi
vì nơi họ chúng ta sẽ có được những tiềm năng “Fleming” chưa được khai thác.
Nếu chúng ta tiếp tục yêu thương và gặp gỡ họ, chúng ta sẽ thấy một cách sâu xa
ý nghĩa của lòng nhân ái và vai trò Hội Thánh, đem lại niềm hy vọng, biến đổi
những nỗi u buồn thành những niềm vui, và những ước mơ của họ trở thành những
cơ hội.
Kết thúc suy niệm này, tôi cầu xin như dân Chúa xưa, chúng ta sẽ mở lòng ra trước lời khẩn xin của biết bao người đang gõ cửa nhà chúng ta. Tôi nhớ lại những lời sau đây: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta.”(Kh 3, 20). Người ta nói: những người nào cùng ăn chung với nhau sẽ không ăn lẫn nhau. Amen.”
Bài: