I-xa-ác, đứa con do Lời Hứa, món quà của Tình Yêu
Giuse Nguyễn Công Đoan, Dòng Tên
Thiên Chúa đã đặt I-xa-ác vào trong trái tim của
Áp-ra-ham: “đứa con của ngươi, đứa con
duy nhất, đứa con mà ngươi yêu dấu, I-xa-ác” (St 22,2). Nhưng khi Áp-ra-ham đáp lời Thiên Chúa, mở trái tim cho
Thiên Chúa coi, thì chỉ có mình Thiên Chúa ở trong trái tim ông.
I-xa-ác là người được chờ lâu nhất và giới thiệu
long trọng nhất trước khi chào đời. Nhưng rồi hình ảnh của ông lại rất mờ nhạt,
có vẻ như ông không có khuôn mặt riêng, cuộc sống riêng trong Kinh Thánh. Ông
xuất hiện như một món quà Thiên Chúa long trọng tặng cho Người Bạn là
Áp-ra-ham, rồi Áp-ra-ham kính cẩn dâng lại nguyên vẹn cho Thiên Chúa.
Chiêm ngắm nhân vật âm thầm này có thể giúp ta
nhận ra một con đường yêu mến Thiên Chúa trọn vẹn như Thiên Chúa dạy Áp-ra-ham:
“Hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống
hoàn hảo” (St 17,1).
Người
được mong chờ lâu nhất
Lúc Áp-ra-ham 75 tuổi, Thiên Chúa gọi ông, đề
nghị: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà
cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân
lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi được lừng lẫy, và
ngươi sẽ là một mối phúc lành” (St
12, 1-2).
“Ông
Áp-ra-ham ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông”. Cùng đi với ông có bà vợ
già và một người cháu. “Ông ra đi mà
không biết mình đi đâu” (Dt 11,8)
Rồi năm tháng cứ lặng lẽ trôi qua, như thể Thiên
Chúa đã quên lời hứa. Đứa cháu duy nhất đi theo ông thì chính ông đã đề nghị
chia tay với ông để giữ hòa khí và tình nghĩa gia đình họ hàng (x. St 13, 1-12). Thế là ông rời bỏ họ hàng
cách triệt để, chỉ còn mình ông với bà vợ già bên nhau.
Sự chờ đợi đã trải qua thử thách. Một đêm khi ông
trằn trọc trong lều khuya bên bà vợ già, Thiên Chúa đến nói với ông lần thứ
hai, để khích lệ ông:
“Sau các
việc đó, có lời ĐỨC CHÚA phán với ông Áp-ram trong một thị
kiến rằng: “Hỡi Áp-ram, đừng sợ, Ta là khiên che thuẫn đỡ cho ngươi; phần
thưởng của ngươi sẽ rất lớn.” (St 15,1)
Ông đơn sơ thưa với Thiên Chúa nỗi băn khoăn của
mình và than với Thiên Chúa vì điều ông thấy trước mắt về việc thừa kế: nỗi
nhục của một người trong xã hội thời ông.
“Ông Áp-ram thưa
: “Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, Chúa sẽ ban cho con cái gì ? Con
ra đi mà không con cái, và người thừa tự gia đình con
là Ê-li-e-de, một người Đa-mát.” Ông Áp-ram thưa
: “Chúa coi, Chúa không ban cho con một dòng dõi, và một gia nhân của con sẽ
thừa kế con.” Và đây có lời ĐỨC CHÚA phán với
ông rằng : “Kẻ đó sẽ không thừa kế ngươi, nhưng một kẻ do chính ngươi sinh
ra mới thừa kế ngươi.”
Thiên Chúa âu yếm dỗ dành ông như một đứa trẻ và
nhắc lại lời hứa:
Rồi
Người đưa ông ra ngoài và phán : “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì
sao, xem có đếm nổi không.” Người lại phán : “Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó
!” Ông tin ĐỨC CHÚA, và vì thế, ĐỨC CHÚA kể ông
là người công chính.” (St 15,2-6)
Sau đó Thiên Chúa thề với ông theo nghi thức “thề
độc” của thời đó, để củng cố lòng tin và niềm hy vọng của ông (x. St 15,7-21).
Nhưng rồi Chúa lại im lặng và ông vẫn cứ đợi cứ
chờ. Biết đến bao giờ?!
Kế hoạch
thay thế của bà Xa-ra
Bà Xa-ra biết nỗi trăng trở của chồng và cũng biết
chồng là người chung thủy, dù bà không sinh được cho ông một đứa con nối dòng
ông cũng chỉ muốn một mình bà ở với ông. Bà cũng thương ông chung thủy thật
thà, không muốn ông phải mang nỗi nhục kia.
Bà có kế hoạch của bà: nhờ nàng hầu mang thai giùm.
“Bà Xa-rai,
vợ ông Áp-ram, đã không sinh được cho ông một người con nào. Bà có một
người nữ tỳ Ai-cập, tên là Ha-ga. Bà Xa-rai nói
với ông Áp-ram : “Ông coi : ĐỨC CHÚA đã không cho phép tôi
sinh con. Vậy xin ông đi lại với nữ tỳ của tôi ; may ra nhờ nó mà tôi sẽ có
con.” Ông Áp-ram nghe lời bà Xa-rai.” (St 16,1-2)
Nhưng bà Xa-ra tự chuốc lấy đau đớn uất hận cho
mình, bà trở nên cay đắng với ông:
Bà Xa-rai nói
với ông Áp-ram: “Tôi bị sỉ nhục là tại ông đấy ! Chính tôi đã đặt nữ tỳ
của tôi vào lòng ông. Thế mà từ khi nó thấy mình có thai, nó coi khinh
tôi. Xin ĐỨC CHÚA phân xử giữa ông và tôi.” (St 16,5)
Áp-ra-ham là người hoàn thiện nên vẫn ôn tồn nhắc
với bà rằng, bà tự coi là đã lỡ đặt nữ tỳ vào lòng ông, nhưng nó có ở đó đâu,
trong lòng ông vẫn chỉ có mình bà thôi:
“Nữ tỳ
của bà ở trong tay bà đấy; đối với nó, cái gì tốt cho bà thì bà cứ làm!”
Bà Xa-rai hành hạ Ha-ga khiến nàng phải trốn bà.” (St 16,6)
Nhưng Thiên Chúa chưa để bà yên, Ngài không thiên
vị ai. Ngài thấu nỗi khổ của Bà và chịu để yên cho bà tìm giải pháp theo ý bà,
thì cũng thấu nỗi khổ của nàng hàu. Bà phải lãnh trách nhiệm về kế hoạch do bà
tự ý đề ra và thực hiện. Thiên Chúa sai sứ thần bảo nàng hầu quay về chịu lụy
bà để đứa con của Áp-ra-ham trong bụng nàng được sinh ra trong nhà Áp-ra-ham:
"Sứ
thần của ĐỨC CHÚA bảo nàng: “Cứ về với bà chủ ngươi, và chịu luỵ bà
ấy.” Sứ thần của ĐỨC CHÚA nói với nàng: “Ta sẽ làm
cho dòng dõi ngươi ra thật nhiều đến mức không thể đếm được vì quá
đông.” … “Này đây ngươi đang có thai, sắp sinh hạ con trai và sẽ đặt tên
là Ít-ma-ên, vì ĐỨC CHÚA đã nghe thấu nỗi khổ của ngươi." (St 16,9-11)
Nàng hầu Ha-ga đã vâng lời thiên sứ quay về, chịu
lụy bà chủ. Từ nay trong nhà có bốn người đau khổ: Bà Xa-ra vẫn cay đắng, nàng
hầu vẫn đang mang nặng và chờ ngày đẻ đau, nhưng cũng đang đau triền miên vì sự
hành hạ của bà chủ. Đứa con trong bụng phải nghe nỗi cay đắng đớn đau của mẹ nó
dội sang từ trái tim của mẹ và thấm vào xương tủy nó [1] vì sự dằng co giữa mẹ
ruột đang mang nó trong bụng và mẹ theo pháp lý là bà chủ. Còn ông Áp-ra-ham
mang cả ba nỗi đau trong lòng. Vợ ông không còn dịu dàng như trước, nàng hầu ở
trong tay bà Xa-ra, nhưng đứa con trong bụng nàng lại ở trong lòng.
Nàng hầu sẽ mang cho ông “lô an ủi” khi sinh cho
ông đứa con trai, lúc ông tám mươi sáu tuổi. Ta không biết bà Xa-ra phản ứng
thế nào, nhưng chuyện 13 năm sau sẽ cho thấy bà.
Chúa đã bảo “Ta sẽ làm…” nhưng bà Xa-ra muốn làm
thay Chúa, nên đau đớn xót xa, cay đắng đầu độc bầu khí gia đình.
Đứa con
do lời hứa: Thiên Chúa làm
Đến giờ của Thiên Chúa thì Ngài sẽ ra tay. Nhưng
phải chờ đến khi ông Áp-ra-ham 99 tuổi, Chúa mới đến nói với ông lần nữa. Lần
này Chúa đổi tên cho cả ông lẫn bà, như để đánh dấu một giai đoạn mới. Chúa
nhắc lại lời hứa cho ông dòng dõi đông đúc và hứa cụ thể một đứa con để bắt
đầu:
“Khi
ông Áp-ram được chín mươi chín tuổi, ĐỨC CHÚA hiện ra với
ông và phán: “Ta là Thiên Chúa Toàn Năng. Ngươi hãy bước đi trước mặt
Ta và hãy sống hoàn hảo. Ta sẽ đặt giao ước của Ta
giữa Ta với ngươi, và Ta sẽ cho ngươi trở nên đông, thật đông.” Ông Áp-ram cúi
rạp xuống.
Thiên
Chúa phán với ông rằng :“Phần Ta, đây là giao ước của Ta với ngươi
: ngươi sẽ làm cha của vô số dân tộc. Người ta sẽ không còn
gọi tên ngươi là Áp-ram nữa, nhưng là Áp-ra-ham,
vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc. Ta sẽ cho ngươi
sinh ra nhiều, thật nhiều : Ta sẽ làm cho ngươi thành những dân tộc, và vua
chúa sẽ phát xuất từ ngươi.
Thiên
Chúa phán với ông Áp-ra-ham : “Xa-rai, vợ ngươi, ngươi không
được gọi tên là Xa-rai nữa, nhưng tên nó sẽ là Xa-ra. Ta
sẽ chúc phúc cho nó, Ta còn cho nó sinh cho ngươi một con trai. Ta sẽ chúc
phúc cho nó, nó sẽ trở thành những dân tộc ; vua chúa các dân sẽ phát xuất từ
nó.” Ông Áp-ra-ham cúi rạp xuống ; ông
cười và nghĩ bụng : “Đàn ông trăm tuổi mà có con được sao ? Còn
bà Xa-ra đã chín mươi tuổi mà sinh đẻ được sao?” Ông Áp-ra-ham thưa
với Thiên Chúa : “Ước chi Ít-ma-ên được sống trước nhan Ngài !” Nhưng
Thiên Chúa phán : “Không đâu ! Chính Xa-ra, vợ ngươi, sắp sinh cho ngươi
một con trai, và ngươi sẽ đặt tên cho nó là I-xa-ác. Ta sẽ lập giao ước
của Ta với nó ; đây sẽ là giao ước vĩnh cửu cho dòng dõi nó sau này.” (St 17,1-6.15-19)
Lần trước Chúa bảo ông đếm sao cho khuây khỏa tâm
hồn, lần này thì Chúa cho ông cười bò ra với hình ảnh “Ông Một Trăm” và “Bà
Chín Chục” trình làng đứa con mới sinh! Và ông đề nghị Chúa phê chuẩn “kế hoạch
Xa-ra”, nhưng Chúa không chịu và nhất định làm theo kế hoạch của Chúa: đứa con
thừa kế của “Ông Một Trăm” phải do “Bà Chín Chục” sinh ra. Chúa là Thiên Chúa
chứ đâu phải người phàm. Quà của Thiên Chúa phải lớn hơn.
Thiên Chúa bỏ “Ông Một Trăm” cười bò dưới đất mà
đi. Rồi ngày khác Chúa lại đến thăm ông và báo cho “Bà Chín Chục”. Ngày ấy tới,
Thiên Chúa đến dưới dạng ba người bộ hành qua gần cây sồi, nơi ông Áp-ra-ham
ngồi hóng mát ở cửa lều:
“ĐỨC CHÚA hiện ra với
ông Áp-ra-ham tại cụm sồi Mam-rê, khi ông đang ngồi ở cửa lều,
vào lúc nóng nực nhất trong ngày. Ông ngước mắt lên thì thấy
có ba người đứng gần ông. Vừa thấy, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách,
sụp xuống đất lạy và nói : “Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng
Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. Để
tôi cho lấy chút nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi
xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các
ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây !” Khách trả lời: “Xin cứ làm
như ông vừa nói !”
Ông Áp-ra-ham vội
vã vào lều tìm bà Xa-ra mà bảo : “Bà
mau mau lấy ba thúng tinh bột mà nhồi, rồi làm bánh.” Ông
chạy lại đàn vật, bắt một con bê mềm và ngon, giao cho người đầy tớ, và anh này
vội vã làm thịt. Ông lấy sữa chua, sữa tươi và thịt bê
đã làm, mà đãi khách ; rồi ông đứng hầu dưới gốc cây, đang khi khách dùng bữa.
Khách
nói với ông: “Bà Xa-ra vợ ông đâu?” Ông đáp: “Thưa nhà tôi ở trong
lều.” Người nói: “Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi
đó bà Xa-ra vợ ông sẽ có một con trai.” Bà Xa-ra bấy
giờ đang nghe ở cửa lều, phía sau. Ông Áp-ra-ham và
bà Xa-ra đã già nua tuổi tác, và bà Xa-ra không còn điều
thường xảy đến cho đàn bà. Bà Xa-ra cười thầm
tự bảo : “Mình đã cằn cỗi rồi, còn hưởng được vui thú nữa sao ? Ông nhà mình
lại là một ông lão !” ĐỨC CHÚA phán với
ông Áp-ra-ham : “Tại sao Xa-ra lại cười và nói : ‘Có
thật tôi già thế này mà còn sinh đẻ được chăng ?’ Nào có điều
gì kỳ diệu vượt sức ĐỨC CHÚA ? Vào độ này sang năm, Ta sẽ trở lại
thăm ngươi, và Xa-ra sẽ có một con trai.” Bà Xa-ra chối
và nói : “Con đâu có cười !” Vì bà sợ. Nhưng Người bảo : “Có, ngươi
đã cười !”
(St 18,1-15).
“Ông Chín Chín” chạy vào lều kêu “Bà Tám
Chín” lấy tinh bột làm bánh, rồi chạy đi tìm một con bê béo
trong bầy và đầy tớ vội vã làm thịt. Rồi ông lấy thêm sữa chua, sữa
tươi ra. Một bữa ăn thịnh soạn với tinh hoa của “cây nhà lá vườn ”... Ông
đích thân đứng hầu khách ăn. Giữ đúng phép gia giáo bà không xuất hiện. Sau bữa
ăn khách lại nói với ông, khách hỏi thăm bà. Biết chắc là bà đang ở trong lều
phía sau lưng ông, khách nhắc lại lời báo tin đã làm ông cười bò hôm nào. Đến
phiên bà cười khúc khích. Khách hỏi cho bà cười thêm, đủ bốn lần “cười”.
Thế là khi Thiên
Chúa làm thì niềm vui tràn trề. Rồi tới ngày vui nhất đời của hai ông bà:
“ĐỨC
CHÚA viếng thăm bà Xa-ra như Người đã phán, và Người đã làm cho
bà như Người đã hứa. Bà Xa-ra có thai và sinh cho
ông Áp-ra-ham một con trai khi ông đã già, vào thời kỳ Thiên Chúa đã
hứa. Ông Áp-ra-ham đặt tên cho đứa con sinh ra cho
ông là I-xa-ác, đứa con mà bà Xa-ra sinh ra cho ông. Ông Áp-ra-ham cắt
bì cho I-xa-ác, con ông, lúc nó được tám ngày, như Thiên Chúa đã truyền
cho ông. Ông Áp-ra-ham được một trăm tuổi khi
sinh được người con là I-xa-ác. Bà Xa-ra nói
: “Thiên Chúa đã làm cho tôi cười ; tất cả những ai nghe biết sẽ cười tôi.”[2]
Bà còn nói :
“Ai dám báo trước cho ông Áp-ra-ham rằng Xa-ra sẽ cho con bú? Thế mà tôi đã sinh cho ông một con trai, khi ông đã về già !”" (St 21,1-7)
Ai hài hước được bằng Thiên Chúa! Nhìn ông “Ông
Một Trăm” bồng đứa con mới sinh, “Bà Chín Chục” cho con bú, ai mà nhịn cười
được. Tên cậu là “Ông Cười” đấy!
Ngày cai sữa “Ông
Cười” thì bài ca vui của ông Áp-ra-ham từ “cung trưởng” đổi sang “cung
thứ”, vì “phải vâng lệnh bà”, đuổi nàng hầu và đứa con trai đi. Con nàng hầu
cũng là con ông! Nhưng Thiên Chúa bảo ông phải vâng lệnh bà. Giọt đắng cuối
cùng do kế hoạch của bà rớt xuống chén rượu mừng.
“Đứa
trẻ lớn lên và cai sữa. Ông Áp-ra-ham làm tiệc lớn
ngày I-xa-ác cai sữa. Bà Xa-ra thấy đứa
con mà Ha-ga, người Ai-cập, đã sinh ra cho ông Áp-ra-ham, đang
cười giỡn, liền nói với ông Áp-ra-ham : “Ông hãy
đuổi hai mẹ con đứa nữ tỳ này đi, vì con trai đứa nữ tỳ không được thừa kế cùng
với I-xa-ác, con trai tôi.” Ông Áp-ra-ham rất
bực mình vì lời ấy, bởi đó là con ông. Nhưng Thiên Chúa phán
với ông Áp-ra-ham : “Đừng bực mình vì chuyện đứa trẻ và người nữ tỳ
của ngươi. Tất cả những gì Xa-ra nói với ngươi, cứ nghe, bởi vì chính
nhờ I-xa-ác mà ngươi sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. Còn
con trai của người nữ tỳ, Ta cũng sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn, vì nó là
dòng dõi ngươi.” Sáng hôm sau, ông Áp-ra-ham dậy
sớm, lấy bánh và một bầu da đựng nước đưa cho Ha-ga. Ông đặt đứa bé lên
vai nàng và bắt nàng phải đi.
Nàng đi
lang thang trong sa mạc Bơ-e Se-va. Khi nước trong bầu da đã
cạn, nàng vất đứa bé dưới một bụi cây, rồi đi ngồi đối diện,
cách xa khoảng tầm cung bắn. Nàng nói : “Sao cho tôi đừng nhìn thấy đứa bé chết
!” Nàng ngồi đối diện và bật tiếng khóc. Thiên Chúa nghe thấy
tiếng đứa trẻ và từ trời, sứ thần Thiên Chúa gọi Ha-ga và nói : “Sao
thế, Ha-ga ? Đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nghe thấy
tiếng đứa trẻ, ở chỗ nó nằm. Đứng lên ! Đỡ đứa trẻ dậy và ôm
nó trong tay, vì Ta sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn.” Thiên
Chúa mở mắt cho nàng, và nàng thấy một giếng nước. Nàng đi đổ nước đầy bầu da,
rồi cho đứa trẻ uống. Thiên Chúa ở với đứa trẻ, nó lớn lên,
sống trong sa mạc, và trở thành người bắn cung. Nó sống trong
sa mạc Pa-ran, và mẹ nó cưới cho nó một cô vợ người đất Ai-cập.” (St 21,8-21)
Từ nay “Ông
Cười” cười một mình ở trong lều với mẹ, không có em để cùng cười và cùng
rong chơi. Cái oan nghiệt cho “Ông Cười”
bắt đầu từ trong bụng mẹ. “Ông” là đứa con “chờ”
mà không “đợi”. Ông đến bất ngờ. “Ông Cười” xuất hiện vào phút chót làm
cho “Ông Một Trăm” cười bò, “Bà Chín Chục” cười lăn. Vừa cai sữa “Ông Cười” sớm
phải chơi một mình, cười một mình, vì ông là món quà Thiên Chúa cho hai ông bà
già chứ không phải cho đứa em cùng cha khác mẹ. Nói theo kiểu Việt Nam, ông
“sinh trong bọc điều”.
Thiên Chúa để cho hai ông bà già giữ “Ông Cười” trong nhà bao lâu Người muốn.
Tới ngày đã định Thiên Chúa lại đến nói với ông Áp-ra-ham, bảo ông phải trả “Ông Cười” cho Thiên Chúa bằng cách dâng
làm của lễ toàn thiêu.
“Sau
các việc đó, Thiên Chúa thử lòng ông Áp-ra-ham. Người gọi ông :
“Áp-ra-ham !” Ông thưa: “Dạ, con đây !” Người phán : “Hãy
đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ác, hãy đi
đến xứ Mô-ri-gia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn
núi Ta sẽ chỉ cho.”
Sáng
hôm sau, ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con
ông là I-xa-ác, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới
nơi Thiên Chúa bảo. Sang ngày thứ ba,
ông Áp-ra-ham ngước mắt lên, thấy nơi đó ở đàng xa. Ông Áp-ra-ham bảo
đầy tớ : “Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia ;
chúng tôi làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh.”
Ông Áp-ra-ham lấy
củi dùng để đốt lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và
dao trong tay, rồi cả hai cùng đi. I-xa-ác thưa với cha
là ông Áp-ra-ham : “Cha !” Ông Áp-ra-ham đáp
: “Cha đây con !” Cậu nói : “Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu
đâu ?” Ông Áp-ra-ham đáp : “Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa
sẽ liệu, con ạ.” Rồi cả hai cùng đi.
Tới
nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi
lên, trói I-xa-ác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống
củi. Rồi ông Áp-ra-ham đưa tay ra cầm lấy dao để
sát tế con mình.” (St 22, 1-9).
I-xa-ác là nụ cười Thiên Chúa làm quà cho ông
Áp-ra-ham, khi Thiên Chúa muốn thì ông Áp-ra-ham lại dâng làm của lễ cho Thiên
Chúa. I-xa-ác như cái bóng mờ. Ông như chỉ là một thực tại giữa Thiên Chúa và
Áp-ra-ham. Sau cái ngày cai sữa, ông ra mắt cả nhà trong bữa tiệc tưng bừng, có
đứa em khác mẹ cười đùa với ông. Nhưng Mẹ ông bắt bố đuổi đứa em khác mẹ đi, để
mình bà cười với ông thôi. Me úm ông kỹ trong lều của bà cho tới ngày Thiên
Chúa đến lần nữa, liên quan tới ông, thì bố Áp-ra-ham mới đem ông ra [3].
I-xa-ác là món quà đặc biệt Thiên Chúa gói “bọc
điều” trao tận tay ông Áp-ra-ham. Suốt thời thơ ấu, ta chỉ nghe tiếng I-xa-ác
một lần trong mẩu đối thoại đứt ruột khi hai cha con cùng nhau đi lên núi. Rồi
ở trên núi khi Áp-ra-ham đã gói đứa con một yêu dấu bằng cả trái tim và đặt lên
bàn thờ, thì Thiên Chúa đã đặt vào lòng ông Áp-ra-ham một đàn con đông đúc để
ông ôm xuống núi. Thiên Chúa đã đặt I-xa-ác làm cái gạch nối giữa Áp-ra-ham và
dòng dõi đông đúc.
Tôi có chấp nhận cái thân phận mờ nhạt để làm món
quà Thiên Chúa tặng cho đời không?
Nguồn: Truyền thông HĐGMVN
_______________
[1] Phải chăng vì thế mà nó sẽ “đúng là một con lừa hoang, nó giơ tay chống
lại mọi người, mọi người giơ tay chống lại nó, nó sẽ luôn đối đầu với tất cả
mọi anh em nó” (St 16,12).
[2] Câu này trong bản tiếng Do Thái có thể hiểu hai cách. “TC đã làm cho tôi thành chuyện cười, ai nghe biết sẽ cười tôi”, hoặc: “Thiên Chúa đã làm cho tôi cười, những ai nghe biết sẽ cười với tôi”. Cách hiểu nào cũng đúng. Cách hiểu thứ nhất có vẻ thú vị hơn, vì chính bà Xa-ra đã tự cười mình, cười lăn lộn khi mới chỉ hình dung ra cái cảnh bà già sinh con thôi mà! Bà thành chuyện cười có thật rồi đây: bà già 90 cho con bú đây này!
[3] Sau này khi cưới vợ
thì ông lại đem vào “lều của mẹ” để cưới, và vợ sẽ thay mẹ: “67Cậu I-xa-ác đưa
cô Rê-bê-ca vào lều của bà Xa-ra mẹ cậu; cậu lấy cô làm vợ,
cậu yêu thương cô và khuây khoả được nỗi buồn mất mẹ (St 24,67). Rồi vợ sẽ
úm ông cho tới chết (x. St 27,1 – 28,5)