GIÁO LÝ VIÊN, BẠN LÀ AI?
Aug. Trần Cao Khải
WHĐ (4.8.2020) – Sáng ngày 26-7-2020 vừa qua, 650 giáo lý viên (GLV) giáo phận Long Xuyên đã hành hương về nhà thờ chính tòa Long Xuyên, trung tâm của giáo phận nhân dịp kỷ niệm 60 năm thành lập giáo phận và mừng kính thánh bổn mạng Á thánh Anrê Phú Yên tử đạo.
Giáo Lý Viên Gp Long Xuyên hành hương mừng
60 năm thành lập giáo phận 26-7-2020
Dịp này, ĐGM giáo
phận đã nhắn nhủ các GLV cần quan tâm một số hoạt động thiết yếu như tích cực
tham gia các khóa huấn luyện và thường huấn dành cho GLV; nhiệt tình tham gia,
hiệp thông, đồng trách nhiệm với hàng giáo sĩ và tu sĩ để thi hành tác vụ rao
giảng của Hội thánh tại địa phương; can đảm dấn thân trong vai trò tông đồ giáo
dân, để trở thành muối, men và ánh sáng.
Được biết giáo phận
Long Xuyên hiện có 1541 GLV tham gia dạy giáo lý tại 147 giáo xứ, giáo họ. Đây
quả thực là một lực lượng đông đảo và hùng hậu. Qua buổi gặp gỡ này ta thấy ưu
tư của các đấng bề trên là chất lượng của việc dạy giáo lý. Trong số các anh chị
em tham gia dạy giáo lý, bên cạnh nhiều người là giáo viên, sẵn vốn hiểu biết về
sư phạm và khả năng truyền đạt tốt, thì vẫn có rất nhiều anh chị em chỉ giảng dạy
bằng nhiệt tình. Do đó, trong giai đoạn hiện nay, GLV cần hoàn thiện chính
mình, cần học hỏi Kinh Thánh và giáo lý. Chúng ta chỉ có thể cho người khác cái
chúng ta có. Cần có hiểu biết về sư phạm giáo lý, tiến tới có kỹ năng truyền đạt,
thành thạo vv… [1]
Thiết nghĩ, đây
là dịp thuận tiện để chúng ta thoáng suy nghĩ về bản chất, ơn gọi, nhiệm vụ và
vai trò của người GLV đang phục vụ trong Hội thánh hiện nay.
1- Giáo lý viên và khái niệm về giáo lý
Trước hết, ta tìm
hiểu khái niệm cơ bản về giáo lý là
gì.
Theo LM Nguyễn
Văn Tuyên, trong cuốn “Sư phạm giáo lý” thì Giáo
lý (hay Huấn giáo) là trình bày Lời
Thiên Chúa một cách đơn giản, cụ thể, sống động, để giúp tín hữu hiểu và sống đức
tin.
Xét về nội dung
thì thần học và giáo lý là một. Nhưng xét về phương pháp, thần học và giáo lý
khác nhau.
- Thần học trình
bày chân lý đức tin theo hệ thống dùng từ ngữ trừu tượng, thiên về ý niệm, và
áp dụng phương pháp diễn dịch.
- Giáo lý trình
bày Tin Mừng theo nhu cầu và khả năng tâm lý của người nghe, dùng hình ảnh và
ngôn ngữ cụ thể, hướng về đời sống, và theo phương pháp qui nạp.
Do đó, giáo lý phải
theo đường lối riêng, không thể trở thành một thứ thần học giản lược, thâu gọn,
cô động. [2]
Xuất phát từ định
nghĩa trên, ta tìm hiểu về nguồn mạch của
giáo lý là gì.
Giáo lý trình bày
lời Thiên Chúa, nhưng phải tìm Lời Thiên Chúa ở đâu? Lời Thiên Chúa được chứa đựng
trong 4 nguồn mạch đức tin:
- Thánh Kinh: Cựu ước (46 cuốn) và Tân ước
(27 cuốn).
- Thánh Truyền: một phần mạc khải được lưu
lại dưới hình thức truyền khẩu và trong các giáo huấn của các giáo phụ.
- Phụng vụ: những gì Giáo hội sống trong
phụng vụ thì cũng thuộc lãnh vực đức tin.
- Đời sống của Giáo hội: Giáo huấn của Đức
Giáo Hoàng, của các Công đồng, của các Giám mục đoàn, lòng tin của toàn thể dân
Chúa cũng là một phần trong kho tàng đức tin của Giáo hội.
Đó là những kho
tàng chứa đựng Lời Thiên Chúa và là nguồn mạch của đức tin, giáo lý tổng hợp,
tóm lược và trình bày nội dung đó. [3]
2- Giáo lý viên nhận thức về chính mình
Từ điển Công giáo
đã định nghĩa GLV như sau:
Giáo lý là học thuyết của
tôn giáo; Viên là người. Giáo lý viên là người dạy giáo lý. Giáo
lý viên là người cộng tác với mục tử trong việc truyền giáo và huấn giáo: phổ
thông, dự tòng, hôn nhân vv.
Theo Giáo Luật,
giáo lý viên phải được đào tạo và huấn luyện theo từng cấp. Giáo lý viên không
những am tường về giáo lý mà còn là nhà giáo dục, gương mẫu trong đời sống nhân
bản và đạo đức, để lời nói, việc làm luôn củng cố và phát triển đức tin của
mình và của tha nhân (x. GL. 780; 785).
Các thành phần
Dân Chúa trong giáo xứ (giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân – nhất là giáo lý viên) nếu
không ngăn trở chính đáng, thì nên sẵn sàng giúp cha xứ trong việc dạy giáo lý
(x. GL 776). [4]
Trong khi đó, tài
liệu huấn luyện GLV đã trình bày như sau: [5]
Giáo lý viên là người thi hành một sứ mệnh chính thức, quan trọng và siêu nhiên,
được Chúa Kitô ủy thác qua Giáo Hội. Vì vậy các Giám mục, linh mục, tu sĩ và
giáo dân đều là những giáo lý viên có trách nhiệm thi hành sứ vụ này.
Giáo lý viên không phải chỉ là người dạy, nhưng trước hết phải là một chứng nhân
(DGL 9.66), một chứng nhân tình yêu. GLV không phải chỉ là người truyền đạt những
kiến thức về Thiên Chúa, nhưng phải là người truyền thông một kinh nghiệm gặp gỡ
với Thiên Chúa. Nói cách khác giáo lý viên là người luôn tìm cách khám phá ra
tình yêu Chúa trong cuộc đời mình cũng như khám phá ra điều gì Chúa đang chờ đợi
nơi mình, để nhờ đó dễ dàng giúp người khác tìm gặp và yêu mến Chúa.
Trong một xã hội
đa tôn giáo và văn hóa, giáo lý viên
thường gặp khó khăn là phải đối diện với những tư tưởng, những niềm tin khác biệt,
và có cả những chống đối bên trong và ngoài Giáo Hội. Nhưng với cái nhìn đức
tin, việc dạy giáo lý mang đến một niềm vui lớn lao: đó là niềm vui được cộng
tác với Giáo Hội trong việc đem Chúa đến với các tâm hồn; niềm vui được góp phần
nhỏ bé của mình trong việc đổi mới lòng con người và niềm vui được đổi mới
chính bản thân mình trong đức tin.
3- Giáo lý viên và sứ mệnh trong Hội thánh
Trong cuốn “Sư phạm
giáo lý”, LM Nguyễn Văn Tuyên cũng đã đề cập đến hai sứ mệnh chính yếu của người
GLV. Tác giả viết như sau:
3.1: GLV thi hành
một sứ mệnh chính thức trong Giáo hội. Công việc ủy thác cho GLV bên ngoài có vẻ tối tăm, tầm thường, nhưng
thực ra là một công cuộc cơ bản, thiết yếu để xây dựng và mở rộng Nước Thiên
Chúa. Những việc quan trọng thường được chuẩn bị một cách âm thầm GLV phải tin
vào sứ mệnh của mình.
3.2: Đây là một sứ
mệnh có tính chất siêu nhiên:
- Siêu nhiên từ nguồn gốc: Là chính sứ mệnh
mà Chúa Cha đã trao cho Chúa Giê-su, Chúa Giê-su trao lại cho Giáo hội, và Giáo
hội đã ủy thác lại cho GLV qua Giám mục và Cha sở, “Cũng như Chúa Cha sai Ta thế nào, Ta cũng sai các con như vậy” (Ga
20, 21).
- Siêu nhiên trong chủ đích: Sứ mệnh này
nhằm sinh Chúa Giê-su Ki-tô và làm cho Ngài lớn lên trong các tâm hồn. Đó chính
là sứ mệnh làm mẹ trong đời sống siêu nhiên của Giáo hội mà GLV được tham dự.
[6]
4- Giáo lý viên và những vai trò, phẩm chất cần
có
Chúng ta đều biết
rằng, căn cứ vai trò, nhiệm vụ quy định trong Hội thánh thì GLV chẳng những là
thầy dạy giáo lý, mà còn là nhà giáo dục đức tin, là chứng nhân tình yêu và Tin
Mừng Đức Ki-tô, là nhà truyền giáo nữa. Để thực thi những vai trò này một cách
hiệu quả thì GLV cần hội đủ những đức tính và phẩm chất căn bản như có đức tin
vững mạnh, có lòng mến dồi dào, có lòng đạo đức nhiệt tình, có lòng quảng đại,
biết hy sinh, khiêm tốn, hiền hòa, nhạy bén cộng với sự thành thạo những kỹ
năng cần thiết như kỹ năng sư phạm, kỹ năng truyền thông, kỹ năng lãnh đạo, kỹ
năng sinh hoạt nhóm vv.
Ở đây, ta chỉ bàn
qua một số phẩm chất chính yếu liên quan đến vai trò của GLV, đó là thầy dạy,
người giáo dục đức tin, chứng nhân Tin Mừng và nhà truyền giáo.
4.1: GLV là thầy
dạy.
Có thể nói, GLV
trước hết là người thầy đứng lớp dạy giáo lý cho học viên. Người thầy có thể là
linh mục, tu sĩ nam nữ hay tín hữu giáo dân. Người thầy thì phải là nhà mô phạm,
là mẫu gương cho học viên.
Vì là người thầy
tức là người truyền đạt kiến thức cho học viên, chúng ta không thể không thông
hiểu những gì mình dạy. Người ta chỉ có thể cho những gì mình có. Do đó, GLV cần
nắm vững được nội dung giáo lý, tức là toàn bộ Tin Mừng, mà trung tâm là mầu
nhiệm và công cuộc cứu rỗi của Chúa Ki-tô. Do vậy, GLV cần được đào tạo và bồi
dưỡng liên tục về chính nội dung giáo lý. Đây là một cuộc đầu tư và là món nợ
mà các linh mục phải trả sòng phẳng với cộng sự viên của mình. [7]
Mặt khác, vì là
nhà giáo, chúng ta cũng phải hội đủ những kiến thức về tâm lý và sư phạm nữa.
Thực vậy, muốn Lời Thiên Chúa đạt hiệu năng tối đa, ta còn cần chú trọng đến
nhu cầu tâm lý, khả năng tiếp nhận, lối cảm nghĩ của người nghe Lời Thiên Chúa.
GLV phải hiểu tâm lý người nghe để tìm đường lối cụ thể và thích hợp nhất làm
cho Lời Thiên Chúa trở nên linh động, thấm sâu vào lòng người. [8]
Bên cạnh đó, nên
lưu ý điều này là dù chúng ta có tài giỏi đến mấy đi nữa nhưng con người và đời
sống của chúng ta chưa là gương sáng thì lời dạy của chúng ta không mang lại hiệu
quả gì. Người ta thường nói, “Lời nói như
gió lung lay, gương bày như tay lôi kéo” (hay “Lời nói lung lay, gương lành lôi kéo”).
Chẳng hạn khi
chúng ta yêu cầu học viên đúng giờ thì chúng ta cũng phải nghiêm túc trong giờ
giấc. Khi chúng ta khuyên học viên ngay thẳng thật thà thì chúng ta không được
sống và cư xử giả dối, lươn lẹo. Khi chúng ta muốn các học viên phải đối xử tử
tế với nhau thì chúng ta cũng phải tỏ ra có thiện cảm và yêu mến các học viên,
không phân biệt đối xử, không thù ghét và gây bất hòa chia rẽ. Khi chúng ta
khuyến khích học viên siêng năng học tập, rèn luyện kiến thức, nâng cao kỹ năng
học tập, thì chúng ta phải tích cực trau dồi những điều ấy làm sao để hướng dẫn
và giúp học viên càng ngày càng tiến bộ hơn.
Thực vậy, GLV là
người thầy của các em không chỉ trong việc giáo dục đức tin mà cũng là thầy
trong phương diện nhân bản nữa. Khi tập cho các em các đức tính nhân bản như
trung thực, dũng cảm, trách nhiệm, cao thượng, nhân hậu, dấn thân… thiết nghĩ,
bản thân người GLV nêu gương sống và thực hành các đức tính này ngay trong những
buổi lên lớp của mình qua việc chuyên cần, đúng giờ, soạn bài nghiêm túc, chuẩn
bị lên lớp cách cẩn thận, có trách nhiệm trong giờ học (giờ dạy). Và quan trọng
hơn hết là người GLV bày tỏ cho các em thấy được tâm tình tin kính (với Thiên
Chúa) của mình qua cử chỉ, cung cách, sự trang nghiêm khi cầu nguyện, khi đọc Lời
Chúa, khi đi đứng trong nhà thờ vv. [9]
4.2: GLV là người
giáo dục đức tin.
Chúng biết rằng,
GLV không chỉ đóng khung trong vai trò thầy dạy kiến thức mà thôi, nhưng hơn nữa
còn là nhà giáo dục đức tin nữa. Đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Muốn
truyền đạt đức tin cho học viên thì chính bản thân chúng ta phải là người có đức
tin sống động và thiết thực.
Quả vậy, GLV phải
có một đức tin sống động. Bởi vì chỉ ai có kinh nghiệm bản thân về
Thiên Chúa, mới có thể đưa anh em mình đến với Thiên Chúa. Một kiến thức chuyên
môn của viên kỹ sư không nhất thiết phải ăn khớp với hạnh kiểm của ông. Nhưng
trái lại, một GLV không thể truyền đạt giáo lý, nếu không sống chính điều mình
truyền dạy, bởi vì giáo lý không phải là một kiến thức suông, mà là một SỨC SỐNG.
Lời Chúa mà chúng ta truyền dạy không phải là văn tự chết trong sách, nhưng được
thấm nhập vào cuộc đời của người giảng, và nhờ ơn thánh, trở nên sống động để đến
với người nghe. Trước khi là thầy dạy, GLV phải là chứng nhân đã. Vì thế, chúng
ta phải luôn cầu xin Chúa gia tăng đức tin cho mình qua việc cầu nguyện, đọc và
suy niệm Lời Chúa, năng lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể và nỗ
lực sống điều mình tuyên xưng. [10]
4.3: GLV là chứng
nhân Tin Mừng.
Như trên đã nói
[5], GLV không phải chỉ là người dạy, nhưng trước hết phải là một chứng nhân
(DGL 9.66), một chứng nhân tình yêu cứu độ. GLV không phải chỉ là người truyền
đạt những kiến thức về Thiên Chúa, nhưng phải là người truyền thông một kinh
nghiệm gặp gỡ với Thiên Chúa. Nói cách khác GLV là người luôn tìm cách khám phá
ra tình yêu Chúa trong cuộc đời mình cũng như khám phá ra điều gì Chúa đang chờ
đợi nơi mình, để nhờ đó dễ dàng giúp người khác tìm gặp và yêu mến Chúa.
Muốn làm chứng
nhân cho Tin Mừng Chúa Ki-tô thì chúng ta phải sống Tin Mừng trước đã.
Sống Tin Mừng là
đón nhận Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh vào trong đời mình. Như thánh Phao-lô đã
xác tín, “Tôi sống, nhưng không còn phải
là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Khi có Chúa trong đời
mình, chúng ta an tâm, vui mừng vì đã được ơn tha thứ, được ơn bình an, được hưởng
những hoa quả của Thần Khí, được hạnh phúc làm con cái Thiên Chúa. Lúc đó Chúa
chính là sự sống của ta, và nhờ đó ta có thể chia sẻ sự sống ấy cho tha nhân.
Sống Tin Mừng là chúng ta hoàn toàn tin tưởng
và phó thác vào tình thương và sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, đó là sự
chọn lựa ưu tiên hàng đầu trong đời sống đức tin của mình.
Sống Tin Mừng là
chúng ta biết chú tâm lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Đối với người Ki-tô hữu
chân chính, thì việc lắng nghe Lời Chúa luôn kèm theo việc thi hành Lời Chúa.
Không thực hành Lời Chúa thì tất cả chỉ là ảo tưởng, là xây nhà trên cát. Thậm
chí không thể nói là đã hiểu Lời Chúa, vì như thánh Grê-gô-ri-ô Cả đã viết, “Người ta chỉ thực sự hiểu Lời khi bắt đầu
đem ra thực hành”. GLV luôn là người quan tâm giúp học viên tích cực đọc,
suy niệm và thực thi Lời Chúa.
Sống Tin Mừng là
khi chúng ta luôn giữ được niềm vui và sự bình an trong tâm hồn. Đồng thời cũng
lan tỏa niềm vui và bình an ấy đến với mọi người. Chúng ta thực sự trở thành
tin vui, tin mừng cho tha nhân. Bởi vì sức hút nơi người tông đồ là niềm vui có
Chúa. ĐTC Phan-xi-cô nhân ngày Thế giới Truyền giáo, đã thổ lộ tâm tình của
mình với các nhà truyền giáo như sau: “Chúng
ta đừng để mình bị tước mất niềm vui của việc loan báo Tin Mừng! Tôi mời gọi
anh chị em đắm mình vào niềm vui của Tin Mừng và nuôi dưỡng một tình yêu có thể
thắp sáng ơn gọi và sứ mạng của anh chị em” (Sứ điệp truyền giáo năm
2014).
Sống Tin Mừng đòi
hỏi chúng ta tích cực thi hành lòng mến Ki-tô giáo. Đó là cách chúng ta làm chứng
tá Tin Mừng Đức Ki-tô và là cách thức truyền giáo hiệu quả nhất. Muốn trở nên
người tông đồ thực thụ vì chan chứa niềm vui, người được sai đi loan báo Tin Mừng
phải gặp gỡ thân tình với Đức Kitô, cảm nghiệm được ơn gọi và sứ vụ cao quý của
mình, và phải yêu mến những người mà mình có cơ hội tiếp xúc, dạy dỗ.
4.4: GLV là nhà
truyền giáo.
Do sứ vụ đặc thù
của mình, GLV cũng còn được gọi là nhà truyền giáo nữa. Khi dạy giáo lý, đó là
chúng ta đang truyền giáo.
Trong Lời Chủ
Chăn với chủ đề “GLV anh chị em là ai?”, thuộc bản tin Liên Lạc GP Phan Thiết,
số 7-2011, Đức cố GM Giuse Vũ Duy Thống đã chia sẻ như sau:
Trong Giáo Hội
xét như sứ vụ, GLV là nhà truyền giáo.
Theo lịch sử truyền
giáo tại Việt Nam, ngày xưa các thừa sai đến đâu thì việc đầu tiên các ngài làm
là giảng dạy giáo lý và kêu gọi sám hối rồi cử hành nghi thức rửa tội, khiến từ
đó việc truyền giáo cũng đồng nghĩa với việc giảng dạy giáo lý, để hôm nay ta
có quyền nói: giảng dạy giáo lý một cách
nào đó cũng là hoạt động truyền giáo.
Hoạt động truyền
giáo và hoạt động huấn giáo có thể được hình dung như hai bước chân trước sau của
cùng một nhịp đi. Có người phân biệt cách chí lý rằng: truyền giáo là nhằm rửa
tội những người biết sám hối; còn huấn giáo là nhằm sám hối những người đã rửa
tội rồi. Có người khác lại chia sẻ cách đơn giản hơn: truyền giáo ban đầu là
dùng giáo lý đem Chúa đến cho người ta; còn tái truyền giáo là dùng giáo lý đem
người ta trở về với Chúa. Cả hai cách phát biểu đều hay và đẹp, nhưng điều muốn
ghi nhận ở đây là mối tương quan không thể tách rời giữa truyền giáo và huấn
giáo.
Truyền giáo thuộc
về bản chất của Giáo Hội. Không phải vì có Giáo Hội nên mới có sứ vụ truyền
giáo, mà ngược lại, vì đã có sứ vụ truyền giáo nên mới có Giáo Hội để tổ chức
thi hành. Vì Giáo Hội là truyền giáo, mà truyền giáo và huấn giáo bước song
hành, nên tham gia công tác huấn giáo, giảng dạy giáo lý cũng là cộng tác vào
công cuộc truyền giáo tại giáo xứ, cho có thêm người biết Chúa, biết tin nhận
Chúa và biết sống đẹp lòng Chúa hơn.
Vâng, trong Giáo
Hội sứ vụ, anh chị em GLV là những nhà truyền giáo đấy. Vậy anh chị em hãy luôn
ghi nhớ khía cạnh sứ vụ này của Giáo Hội, để công tác huấn giáo của anh chị em
được chu đáo và nâng cao, không chỉ bằng giáo án khúc chiết mà còn bằng chứng
tá đức tin hằng ngày nữa. Giáo lý không chỉ được giảng dạy bằng lời nhưng còn bằng
chính đời sống gương mẫu của GLV. [11]
5- Giáo lý viên và nhu cầu về đào tạo
Việc đào tạo, huấn
luyện GLV luôn là mối bận tâm lớn của các đấng bậc trong Hội thánh. Nhiều người
nhận định rằng tình trạng GLV hiện nay vừa mỏng về số lượng lại vừa đuối về chất
lượng. Đó là một thực tế đáng ta suy nghĩ.
Chúng ta thử nêu
vài ý kiến tham khảo sau:
- Thư chung của
các Giám Mục năm 2011 viết như sau: “Cùng với việc học hỏi Lời Chúa, việc dạy
và học giáo lý là đòi hỏi tối cần thiết trong đời sống Giáo Hội, nhất là trong
thời đại ngày nay đầy rẫy những luồng tư tưởng nghịch với Tin Mừng. Đại Hội Dân
Chúa mong mỏi sớm có được những nguyên tắc, đường hướng và chương trình chung,
cũng như một thủ bản chung về giáo lý, vừa trung thành với Tin Mừng vừa gần gũi
với văn hóa Việt Nam. Đồng thời, Lời Chúa phải là nền tảng cho mọi chương trình
thường huấn cũng như đào tạo chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên”. [12]
- Tại Đại Hội Dân
Chúa VN năm 2010, GLV Tổng Giáo phận Saigon cũng đã có bài tham luận trong đó
bày tỏ ước vọng liên hệ tới việc huấn luyện GLV như sau: “Trong thời gian vừa
qua, số lượng GLV trẻ gia tăng đáng kể nhưng còn thiếu kinh nghiệm gặp gỡ Thiên
Chúa, thiếu kiến thức và trải nghiệm cuộc sống. Chúng con đề nghị Giáo Hội tích
cực quan tâm đến việc đào tạo lực lượng GLV chuyên sâu ở mọi lứa tuổi: người trẻ,
người trung niên và cả người lớn tuổi”. Bài Tham luận còn đi xa hơn nữa về vấn
đề cơ cấu huấn luyện GLV khi phát biểu: “Cuối cùng, chúng con đề nghị mau chóng
có một sự thống nhất về cấu trúc, chương trình và những chuẩn mực của các lớp
Giáo Lý nói riêng và các hoạt động mục vụ giáo lý nói chung, để tránh sự khác
biệt khi áp dụng giữa các giáo xứ như hiện nay”. [12]
- Trong bài viết
có tựa đề “Chân dung giáo lý viên hôm nay” [13], các tác giả đã tổng hợp và đưa
ra một số nhận định rất cụ thể và chi tiết, xin được trích dẫn vài đoạn, như
sau:
Về tình hình GLV
hiện nay: Thiếu giáo lý viên được huấn luyện đúng mức. Trong khi lực lượng tu
sĩ tham gia giảng dạy giáo lý – mà đa số là nữ tu – thường được huấn luyện về
giáo lý cũng như sư phạm, thì không phải mọi GLV khác đều được huấn luyện đầy đủ
để thi hành công tác này.
Điều đáng suy
nghĩ là hình như chưa có giáo phận nào ở Việt Nam có được một trường hay trung
tâm huấn luyện GLV chính danh. Bù đắp lại có chăng là đây đó có được những khóa
huấn luyện mà nội dung chương trình, thời hạn đào tạo cũng rất đa dạng tùy nơi,
tùy thời và tùy hoàn cảnh.
Riêng ở Tổng Giáo
phận Saigon, từ khoảng năm năm trở lại đây, Tòa TGM đã liên tiếp tổ chức
các khóa huấn luyện GLV dành cho các giáo xứ trong TGp, mà ứng
viên được chọn trong những người trẻ tình nguyện từ các giáo xứ, với chương
trình huấn luyện gồm có ba cấp cơ bản và những khóa chuyên sâu nhằm thỏa
mãn nhu cầu dạy giáo lý cho nhiều loại đối tượng khác nhau. Mỗi khóa có cả ngàn
người được huấn luyện. Các Giáo phận khác cũng càng ngày càng có những nỗ lực
tương tự. Khi chưa tổ chức được một cách quy mô cho cả Giáo phận, thì cũng có
những khóa do từng hạt hay từng liên xứ tổ chức, nhưng không phải nơi nào cũng
có điều kiện tổ chức.
Tại một số giáo xứ,
đặc biệt tại các giáo xứ lớn có đông giáo dân, cha xứ có thể tự huấn luyện GLV
cho nhu cầu mục vụ của giáo xứ mình. Nhưng cũng có nhiều giáo xứ không làm được
điều này. Có nhiều khi cha xứ chỉ việc chọn lựa dăm ba giáo dân có uy tín trong
giáo xứ, không có một sự chuẩn bị đặc biệt nào khác, để phụ giúp ngài trong việc
này khi có nhu cầu. Giáo xứ nào may mắn có được những giáo lý viên vốn là
cựu chủng sinh hay cựu tu sĩ có đầy đủ khả năng cho công việc và vẫn còn
nhiệt tình tham gia giảng dạy thì trách vụ của mục tử nơi đó được nhẹ bớt rất
nhiều. Ngoài ra, cũng có những giáo dân tuy không qua những khóa đào tạo chính
quy nào, nhưng đã theo học những lớp Thần học cơ bản, những lớp Kinh Thánh vv…
hoặc tự trau dồi bằng những sách giáo lý và tài liệu của Giáo hội, sẵn sàng
chia sẻ công việc này với cha xứ khi có yêu cầu.
Bởi lý do nhiều
nơi, nhiều lúc, thiếu sự huấn luyện đúng mức, nên không ít GLV chưa làm đúng chức
năng của mình, mới chỉ làm công việc truyền thụ kiến thức về đạo Chúa, chuẩn bị
một cách máy móc cho thụ nhân chịu các bí tích, hơn là giáo dục đức tin. Việc dạy
giáo lý nhiều khi chỉ quen với lối truyền thụ cổ điển, không có chỗ cho phản hồi,
trao đổi, đối thoại, không dành thời gian cho học viên nêu câu hỏi hay đưa ra
những thắc mắc, vì thế lớp học thiếu sinh động, học viên thiếu tích cực, nếu
không muốn nói là hoàn toàn thụ động, không chịu động não, không có sự thấu hiểu,
đón nhận cần thiết.
Việc dạy giáo lý
thường chỉ thu vào thời gian trong lớp học, không chú ý đến việc thực hành, tức
là tập thể hiện trong đời sống những điều đã được truyền đạt. Có khi GLV lại
dạy rất tùy hứng, thiếu chuẩn bị, nhiều khi lại còn thiếu quan tâm đến sự khác
biệt về tuổi tác, trình độ, não trạng, hoàn cảnh của các đối tượng, việc giảng
dạy thiếu chiều sâu, nên không đạt được kết quả mong muốn, không giữ được kết
quả lâu dài. Bởi tuy Tin Mừng đã được loan báo, nhưng chưa thực sự cảm nhận,
người học chưa có xác tín, nên chưa thực sự biến đổi.
Xét cho cùng, điều
quan trọng là cần có sự huấn luyện thích đáng: đó là điều Huấn Quyền luôn đòi
buộc, vì “nếu không được đảm nhận bởi những người có đào tạo, mọi hoạt động
tông đồ chắc chắn sẽ thất bại”. Để được như vậy, sự huấn luyện phải có tính
“toàn diện”, nghĩa là bao gồm mọi chiều kích của nhân cách GLV, và “chuyên biệt”,
nghĩa là phù hợp với các đặc tính của công việc mà mỗi giáo lý viên tùy trường
hợp được giao phó. Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II đã khẳng định : “Ưu tiên cho chất lượng, nghĩa là ưu tiên cho
việc huấn luyện căn bản thích hợp và việc cập nhật hóa luôn luôn. Để bảo đảm
cho sứ vụ của Giáo Hội có nhân sự xứng hợp, cốt thiết phải có chương trình đầy
đủ và cơ chế thích hợp để đảm nhận việc huấn luyện giáo lý viên về
các mặt: từ huấn luyện nhân bản đến huấn luyện thiêng liêng, tín lý, tông đồ và
chuyên môn” ./.
_____________
[1] http://giaophanlongxuyen.org/NewsDetail.aspx?ID=20200728151300
[2] LM Nguyễn Văn
Tuyên – Sư phạm giáo lý – UB ĐKCG Tp.HCM, bản in ronéo, năm 1994, trang 9
[3] LM Nguyễn Văn
Tuyên, sđd, trang 10
[4] Mục từ Giáo
lý viên – Từ điển Công Giáo – UB GLĐT/ HĐGM VN – NXB TG 2019 trang 347
[5] http://giaophanvinhlong.net/Tai-Lieu-Huan-Luyen-Giao-Ly-Vien.html
[6] LM Nguyễn Văn
Tuyên, sđd, trang 39
[7] LM Nguyễn
Văn Tuyên, sđd, trang 40
[8] LM Nguyễn Văn Tuyên, sđd, trang 40
[9] http://www.gplongxuyen.org/NewsDetail.aspx?ID=20180731074106
[10] http://www.giaoly.org/vn/nhung-duc-tinh-can-thiet-cua-giao-ly-vien/
[11] http://bangiaolyphatdiem.com/giao-ly-vien-anh-chi-em-la-ai/
[13] http://www.giaoly.org/vn/chan-dung-giao-ly-vien-hom-nay/