GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí
tích)
THỨ SÁU TUẦN
THÁNH
WHĐ
(06.4.2023) - Để hỗ trợ
các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm
giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo
sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được công bố qua Sắc lệnh ký ngày
29.06.2014.
Số 602-618,
1992: Cuộc khổ nạn của Đức Kitô
602. Thánh
Phêrô có thể diễn tả đức tin tông truyền về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa như
sau: “Anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền
lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tì
tích, là Đức Kitô. Ngươi là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa
được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này” (1 Pr
1,18-20). Các tội người ta phạm, tiếp theo sau tội tổ tông, khiến người ta phải
chết[1]. Khi
sai Con Một của Ngài đến trong thân phận tôi tớ[2], tức
là trong thân phận loài người đã sa ngã và tất phải chết vì tội lỗi[3], “Đấng
chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi
vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5,21).
603. Vì
không phạm tội, Chúa Giêsu không bao giờ biết đến việc bị Thiên Chúa loại bỏ[4].
Nhưng trong tình yêu cứu chuộc, một tình yêu hằng kết hợp Người với Chúa Cha[5], Người
đã đảm nhận lấy chúng ta, những kẻ đang vì tội lỗi mà lạc đường lìa xa Thiên
Chúa, đến độ trên thập giá, Người đã có thể thốt lên thay chúng ta: “Lạy Thiên
Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con!” (Mc 15,34)[6]. Vì
đã kết hợp Đức Kitô với chúng ta là các tội nhân, nên Thiên Chúa “đã chẳng tiếc,
nhưng đã trao nộp chính Con Một của Ngài vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32), để
chúng ta “được giao hoà với Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Một Ngài” (Rm 5,10).
Thiên
Chúa đã khởi xướng trong tình yêu cứu chuộc mọi người
604. Khi
trao nộp Con của Ngài vì tội lỗi chúng ta, Thiên Chúa biểu lộ kế hoạch của Ngài
là một kế hoạch của tình yêu lân mẫn, đi trước mọi công trạng của chúng ta:
“Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng
chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội
cho chúng ta” (1 Ga 4,10)[7]. “Đức
Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng
chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8).
605. Tình
yêu này không loại trừ một ai. Chúa Giêsu nhắc lại điều đó để kết luận dụ ngôn
về con chiên lạc: “Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho
một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,14). Người quả quyết Người
“hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Lời tuyên bố quan trọng này không
mang ý nghĩa hạn chế: lời đó đặt song đối tập thể nhân loại với một mình Đấng Cứu
Chuộc, Đấng tự hiến để cứu độ nhân loại ấy[8]. Hội
Thánh, theo sau các Tông Đồ[9], dạy
rằng: Đức Kitô đã chết cho tất cả mọi người không trừ một ai. “Trước kia, hiện
nay cũng như sau này, không có một ai mà Người [Đức Kitô] không chịu khổ nạn
cho”[10].
Cả cuộc
đời của Đức Kitô là của lễ dâng hiến Chúa Cha
606. Con
Thiên Chúa, Đấng từ trời xuống, không phải để làm theo ý Người, nhưng để làm
theo ý Đấng đã sai Người”[11],
“khi vào trần gian, Người nói: ‘Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực
thi ý Ngài’… theo ý đó, chúng ta được thánh hóa, nhờ Chúa Giêsu Kitô đã hiến
dâng thân mình làm lễ tế, một lần cho mãi mãi” (Dt 10,5-10). Ngay từ phút đầu
tiên Người nhập thể, Chúa Con đã gắn bó với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa
trong sứ vụ cứu chuộc của mình: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng
đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Ngài” (Ga 4,34). Hy lễ của Chúa Giêsu
“đền bù tội lỗi cả thế gian” (1 Ga 2,2) là sự diễn tả tình yêu hiệp thông của
Người với Chúa Cha: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống
mình” (Ga 10,17). Thế gian phải “biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng
như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14,31).
607. Sự
khao khát gắn bó với kế hoạch yêu thương cứu chuộc của Chúa Cha truyền cảm hứng
cho cả cuộc đời Chúa Giêsu[12], bởi
vì cuộc khổ nạn cứu chuộc của Người là lý do việc Người nhập thể: “Lạy Cha, xin
cứu con khỏi giờ này! Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến” (Ga 12,27). “Chén
mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga 18,11). Và trên thập
giá, trước khi mọi sự “đã hoàn tất” (Ga 19,30), Người nói: “Tôi khát!” (Ga
19,28).
“Chiên
xoá tội trần gian”
608. Sau
khi chấp nhận làm phép rửa cho Chúa Giêsu giữa các tội nhân[13], ông
Gioan Tẩy Giả đã thấy và giới thiệu Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần
gian[14]. Như
vậy ông cho thấy rằng Chúa Giêsu đồng thời vừa là Người Tôi trung đau khổ, im lặng
chịu đem đi làm thịt[15] và
mang lấy tội lỗi muôn người[16], vừa
là Chiên Vượt Qua, biểu tượng cho việc Cứu Chuộc Israel trong cuộc Vượt Qua đầu
tiên[17]. Cả
cuộc đời của Đức Kitô diễn tả sứ vụ của Người: phục vụ và hiến dâng mạng sống
làm giá chuộc muôn người[18].
Chúa
Giêsu tự do gắn bó với tình yêu cứu chuộc của Chúa Cha
609. Khi
gắn bó với tình yêu của Chúa Cha đối với loài người trong trái tim nhân loại của
mình, Chúa Giêsu “đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1), bởi vì “không có tình
thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của
mình” (Ga 15,13). Như vậy, nhân tính của Người trong cuộc khổ nạn và cái
chết, đã trở thành dụng cụ tự do và hoàn hảo của tình yêu thần linh của Người,
một tình yêu muốn cứu độ mọi người[19]. Thật
vậy, Người đã tự do chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết vì tình yêu đối với Cha
Người và đối với loài người mà Người muốn cứu độ: “Mạng sống của tôi, không ai
lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,18). Do đó,
Con Thiên Chúa đã tự do tột bậc khi Người tiến tới cái Chết[20].
Trong
Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu thực hiện trước việc tự nguyện dâng hiến mạng sống của
mình
610. Chúa
Giêsu đã diễn tả cách hết sức rõ ràng việc Người tự nguyện dâng hiến chính mình
trong bữa tiệc Người ăn với mười hai Tông Đồ[21] “trong
đêm bị nộp” (1 Cr 11,23). Hôm trước ngày chịu nạn, khi còn hoàn toàn tự do,
Chúa Giêsu đã biến bữa Tiệc cuối cùng với các Tông Đồ của Người thành lễ tưởng
niệm việc Người tự nguyện dâng hiến chính mình cho Chúa Cha[22] để
cứu độ nhân loại: “Đây là Mình Thầy, bị nộp vì
anh em” (Lc 22,19). “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).
611. Bí
tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã thiết lập lúc đó, sẽ là “việc tưởng niệm”[23] hy
tế của Người. Người bao gồm các Tông Đồ vào sự dâng hiến chính mình Người và dạy
họ lưu truyền việc dâng hiến này mãi mãi[24]. Như
vậy, Chúa Giêsu đã đặt các Tông Đồ của Người làm tư tế của Giao Ước Mới: “Vì họ,
con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga
17,19)[25].
Cơn hấp
hối trong vườn Giêtsêmani
612. Chúa
Giêsu đã tham dự trước chén của Giao Ước Mới khi Người tự hiến trong bữa Tiệc Ly[26], rồi
Người nhận lấy chén đó từ tay Chúa Cha trong cơn hấp hối của Người tại vườn
Giêtsêmani[27], khi
Người “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl 2,8)[28].
Chúa Giêsu cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống
chén này…” (Mt 26,39). Như vậy Người diễn tả nỗi khiếp sợ mà bản tính nhân loại
của Người cảm nghiệm trước cái Chết. Thật vậy, bản tính nhân loại của Chúa
Giêsu, cũng như của chúng ta, được nhắm đến sự sống vĩnh cửu; nhưng khác với
chúng ta, bản tính nhân loại của Người hoàn toàn không có tội[29], mà
tội mới gây nên sự chết[30];
nhưng đặc biệt, bản tính nhân loại của Người đã được đảm nhận bởi Ngôi Vị thần
linh của “Đấng khơi nguồn sự sống”[31], “Đấng
hằng sống”[32]. Khi
chấp nhận thánh ý Chúa Cha bằng ý chí nhân loại của mình[33],
Chúa Giêsu chấp nhận cái Chết có giá trị cứu chuộc của mình, để “tội lỗi của
chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể ma đưa lên cây thập giá” (1 Pr
2,24).
Cái
chết của Đức Kitô là hy lễ duy nhất và tối hậu
613. Cái
chết của Đức Kitô đồng thời vừa là hy lễ Vượt Qua, mang lại ơn Cứu Chuộc tối hậu cho loài người[34], nhờ
Con Chiên, Đấng xoá tội trần gian[35], vừa
là hy
lễ của Giao Ước Mới[36], cho con người lại
được hiệp thông với Thiên Chúa[37], khi
giao hòa con người với Thiên Chúa nhờ máu đổ ra cho muôn người được tha tội[38].
614. Hy
lễ này của Đức Kitô là duy nhất, hy lễ đó hoàn tất và vượt hơn hẳn mọi hy lễ[39]. Trước
hết, hy lễ đó là một hồng ân của chính Thiên Chúa Cha: Chúa Cha trao nộp Con của
Ngài để giao hòa chúng ta với Ngài[40]. Đồng
thời, đây là sự dâng hiến của Con Thiên Chúa làm người, Đấng, vì tình yêu[41], tự
ý dâng hiến mạng sống mình[42] cho
Cha của Người nhờ Chúa Thánh Thần[43], để
đền bù sự bất tuân của chúng ta.
Chúa
Giêsu đền thay sự bất tuân của chúng ta bằng sự vâng phục của Người
615. “Cũng
như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội
nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ
thành người công chính” (Rm 5,19). Chúa Giêsu, bằng sự vang phục cho đến chết của
Người, đã hoàn thành việc đền thay của Người Tôi trung đau khổ, là hiến thân
làm hy
lễ đền tội, mang lấy tội lỗi của muôn người và làm cho
họ nên công chính khi gánh lấy tội lỗi của họ[44].
Chúa Giêsu đã đền bù các lỗi lầm của chúng ta và tạ tội với Chúa Cha vì tội lỗi
của chúng ta[45].
Trên
thập giá, Chúa Giêsu hoàn tất hy tế của Người
616. Tình
yêu thương đến cùng[46] mang
lại cho hy lễ của Đức Kitô giá trị Cứu Chuộc và đền bù, đền tội và tạ tội. Người
đã biết và yêu thương tất cả chúng ta khi Người dâng hiến mạng sống mình[47].
“Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người
đã chết thay cho mọi người, thì mọi người đều chết” (2 Cr 5,14). Không một ai,
dù là người thánh thiện nhất, có khả năng mang lấy trên mình tội lỗi của mọi
người và hiến mình làm hy lễ vì mọi người. Nơi Đức Kitô, sự hiện hữu của Ngôi Vị
Chúa Con vừa vượt hơn hẳn vừa bao gồm tất cả các nhân vị, khiến cho Đức Kitô là
Đầu của toàn thể nhân loại, và làm cho hy tế của Người có giá trị cứu chuộc cho tất cả
mọi người.
617. Công
đồng Triđentinô dạy: “Bằng cuộc khổ nạn rất thánh của Người trên cây thập giá,
Đức Kitô đã lập công cho chúng ta được nên công chính”[48], qua
đó nêu rõ tính duy nhất của hy tế của Đức Kitô, Đấng là tác giả của ơn cứu độ
vĩnh cửu[49]. Vì
vậy khi tôn kính Thánh Giá, Hội Thánh ca hát rằng: “Kính chào Thánh Giá, niềm
hy vọng duy nhất của chúng con!”[50]
Sự
tham dự của chúng ta vào hy tế của Đức Kitô
618. Thánh
giá là hy tế duy nhất của Đức Kitô, Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và
loài người[51].
Nhưng bởi vì, trong Ngôi Vị Thiên Chúa nhập thể của Người, “một cách nào đó Người
đã tự kết hợp với toàn thể mọi người”[52], nên
Người đã “ban cho mọi người một khả năng để, theo cách Thiên Chúa biết, họ được
kết hợp vào mầu nhiệm Vượt Qua”[53]. Người
kêu gọi các môn đệ vác thập giá mình mà theo Người[54], bởi
vì Người đã chịu khổ nạn vì chúng ta, đã để lại một gương mẫu cho chúng ta dõi
bước theo Người[55]. Quả
thật, Người cũng muốn những người đầu tiên hưởng nhờ hy tế cứu chuộc của Người
được kết hợp vào hy tế ấy [56]. Điều
đó được thực hiện, một cách cao cả nhất, nơi Mẹ Người, Mẹ được kết hợp vào mầu
nhiệm cuộc khổ nạn cứu chuộc của Người một cách mật thiết hơn bất cứ ai khác[57].
“Đây là chiếc thang thật và duy nhất của thiên
đàng, và ngoài thập giá, không có chiếc thang nào khác để lên trời”[58].
1992. Sự
công chính hóa là công trạng nhờ cuộc khổ nạn của Đức Kitô cho chúng ta, Người là Đấng đã tự hiến trên thập
giá như của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa, và Máu Người trở
nên dụng cụ đền tội vì tội lỗi của mọi người. Sự công chính hóa được ban nhờ
Phép Rửa, là bí tích của đức tin. Nó làm cho chúng ta nên phù hợp với sự công
chính của Thiên Chúa, Đấng nhờ quyền năng của lòng thương xót của Ngài làm cho
chúng ta nên công chính tự bên trong. Sự công chính hoá có mục tiêu là vinh
quang của Thiên Chúa và của Đức Kitô, và hồng ân của đời sống vĩnh cửu[59].
“Nhưng ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Môisen. Điều này, sách Luật và các ngôn sứ làm chứng. Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai. Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chua, nhưng họ được trở nên công chính do hồng ân Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Kitô Giêsu. Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ máu của Người cho những ai có lòng tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Ngài là Đấng Công Chính. Trước kia, trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Ngài đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. Nhưng bây giờ, Ngài muốn cho thấy rằng Ngài vừa là Đấng Công Chính, vừa làm cho kẻ tin vào Đức Giêsu được nên công chính” (Rm 3,21-26).
Số 612, 2606,
2741: Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu
612. Chúa
Giêsu đã tham dự trước chén của Giao Ước Mới khi Người tự hiến trong bữa Tiệc Ly[60], rồi
Người nhận lấy chén đó từ tay Chúa Cha trong cơn hấp hối của Người tại vườn
Giêtsêmani[61], khi
Người “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl 2,8)[62].
Chúa Giêsu cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống
chén này…” (Mt 26,39). Như vậy Người diễn tả nỗi khiếp sợ mà bản tính nhân loại
của Người cảm nghiệm trước cái Chết. Thật vậy, bản tính nhân loại của Chúa
Giêsu, cũng như của chúng ta, được nhắm đến sự sống vĩnh cửu; nhưng khác với
chúng ta, bản tính nhân loại của Người hoàn toàn không có tội[63], mà
tội mới gây nên sự chết[64];
nhưng đặc biệt, bản tính nhân loại của Người đã được đảm nhận bởi Ngôi Vị thần
linh của “Đấng khơi nguồn sự sống”[65], “Đấng
hằng sống”[66]. Khi
chấp nhận thánh ý Chúa Cha bằng ý chí nhân loại của mình[67],
Chúa Giêsu chấp nhận cái Chết có giá trị cứu chuộc của mình, để “tội lỗi của
chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể ma đưa lên cây thập giá” (1 Pr
2,24).
2606. Tất cả
những đau khổ của nhân loại trong mọi thời, dưới ách nô lệ tội lỗi và sự chết,
tất cả mọi lời van xin và chuyển cầu suốt lịch sử cứu độ, đều được thu tóm vào
Tiếng kêu lớn của Ngôi Lời Nhập Thể. Chúa Cha đón nhận tất cả và, vượt quá mọi
mong đợi, Ngài nhận lời tất cả khi cho Con Ngài sống lại. Như vậy, toàn thể
kinh nguyện trong nhiệm cục tạo dựng và cứu độ được thực hiện và hoàn tất. Tập
Thánh vịnh trao cho chúng ta chìa khoá của việc cầu nguyện trong Đức Kitô.
Chính trong “Ngày hôm nay” của biến cố Phục sinh, Chúa Cha phán: “Con là Con của
Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con. Con cứ xin, rồi Cha ban tặng, muôn dân nước
làm sản nghiệp riêng, toàn cõi đất làm phần lãnh địa” (Tv 2,7-8)[68].
Thư Do thái dùng
những lời le bi thảm để diễn tả lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đã đem lại chiến
thắng cứu độ như thế nào: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Chúa Giêsu đã lớn tiếng
kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người
khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa,
Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi
chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho
tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5,7-9).
2741. Chúa Giêsu còn đứng vào vị trí của chúng ta để cầu nguyện cho chúng ta. Mọi lời cầu xin của chúng ta đều được thâu tóm lại, một lần cho mãi mãi, trong tiếng kêu lớn của Người trên Thập Giá và đã được Chúa Cha nhậm lời trong cuộc Phục sinh của Người; và do đó, Người không ngừng chuyển cầu cho chúng ta bên Chúa Cha[69]. Nếu lời cầu nguyện của chúng ta được nối kết chặt chẽ với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong lòng tín thác và sự bạo dạn của người con hiếu thảo, thì chúng ta sẽ nhận được tất cả những gì chúng ta cầu xin nhân danh Người, nhiều hơn hẳn ơn nọ ơn kia: đó là chính Chúa Thánh Thần, Đấng gồm tóm mọi hồng ân.
Số 467, 540,
1137: Đức Kitô – Vị Thượng tế
467. Những
người chủ trương thuyết Nhất Tính (Monophysitae) khẳng định: bản tính nhân loại
không còn tồn tại nơi Đức Kitô, khi bản tính đó được Ngôi Vị thần linh của Con
Thiên Chúa đảm nhận. Để chống lại lạc thuyết này, Công đồng chung thứ IV, họp tại
Chalcêđonia năm 451, tuyên xưng:
“Theo sau các thánh phụ, chúng tôi đồng thanh dạy
phải tuyên xưng Một Chúa Con Duy Nhất là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, hoàn hảo
trong thần tính và cũng hoàn hảo trong nhân tính; là Thiên Chúa thật và là người
thật, gồm có một linh hồn có lý trí và một thân xác; đồng bản thể với Đức Chúa
Cha theo thần tính mà cũng đồng bản tính với chúng ta theo nhân tính, ‘giống
chúng ta về mọi phương diện ngoại trừ tội lỗi’;[70] sinh
bởi Đức Chúa Cha theo thần tính từ trước muôn đời, và trong những thời cuối
cùng này, vì chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người được sinh ra theo nhân tính
từ Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Cùng một Đấng duy nhất là Đức Kitô, là Chúa, là
Con Một, phải được nhìn nhận trong hai bản tính một cách không lẫn lộn, không
thay đổi, không phân chia, không tách biệt, sự khác biệt giữa hai bản tính
không hề bị mất đi do việc kết hợp, nhưng các đặc điểm của mỗi bản tính đã được
bảo tồn khi kết hợp với nhau trong một Ngôi Vị và một Đấng duy nhất”[71].
540. Cám
dỗ Chúa Giêsu phải chịu cho thấy cách thế Con Thiên Chúa là Đấng Messia, trái
ngược hẳn điều Satan xúi giục Người và người ta muốn gán cho Người[72].
Chính vì thế, Đức Kitô chiến thắng Tên cám dỗ là chiến thắng cho chúng ta: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng
không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi
phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15). Mỗi năm, qua bốn mươi
ngày Mùa
Chay, Hội Thánh kết hợp với mầu
nhiệm Chúa Giêsu trong hoang địa.
1137. Sách Khải Huyền của thánh Gioan, được đọc trong phụng vụ của Hội Thánh, trước tiên cho chúng ta thấy một cái ngai được đặt trên trời; và Đấng ngự trên ngai[73]: đó là “Chúa” (Is 6,1)[74]. Rồi đến “Một Con Chiên trông như thể đã bị giết” (Kh 5,6)[75]: đó là Đức Kitô bị đóng đinh và đã sống lại, là vị Thượng Tế duy nhất của cung thánh đích thực[76], chính Người “vừa là người dâng vừa là lễ vật được dâng lên, vừa là người tặng vừa là quà được hiến tặng”[77]. Cuối cùng là “con sông có nước trường sinh, … chảy ra từ ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên” (Kh 22,1), đó là một trong những biểu tượng đẹp nhất về Chúa Thánh Thần[78].
Số 2825: Sự
vâng phục của Đức Kitô và của chúng ta
2825. Chúa
Giêsu, “dầu là Con Thiên Chúa, đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế
nào là vâng phục” (Dt 5,8), phương chi chúng ta, là những thụ tạo và là tội
nhân, đã được nhận làm nghĩa tử trong Người. Chúng ta cầu xin Chúa Cha cho ý muốn
của chúng ta được kết hợp với ý muốn của Con Ngài, để chu toàn thánh ý của Cha,
là kế hoạch cứu độ hầu cho trần gian được sống. Trong công việc này, chúng ta
hoàn toàn bất lực, nhưng nhờ kết hợp với Chúa Giêsu và nhờ quyền năng Thánh Thần
của Ngài, chúng ta có thể phó dâng cho Chúa Cha ý muốn của chúng ta và quyết định
chọn điều Con Ngài luôn luôn chọn: đó là làm điều đẹp lòng Cha[79].
“Khi gắn bó với Đức Kitô, chúng ta có thể nên một
lòng trí với Người, và nhờ đó thực thi ý muốn của Người để, ý Chúa đã nên trọn
trên trời thế nào, thì cũng được thể hiện dưới đất như vậy”[80].
“Hãy xem Chúa Giêsu Kitô dạy chúng ta sống khiêm tốn như thế nào, khi Người cho chúng ta thấy rằng nhân đức của chúng ta không chỉ tùy thuộc công sức của mình nhưng còn nhờ ân sủng từ trên cao. Ngoài ra, Người ra lệnh cho mỗi người chúng ta khi cầu nguyện, phải quan tâm đến toàn thế giới. Vì Người không dạy: ‘Xin cho ý Cha thể hiện’ nơi tôi hay nơi anh em, nhưng nói chung là ở mọi nơi ‘dưới đất’, để sai lầm bị loại bỏ và chân lý được gieo trồng, để thói xấu bị hủy diệt, nhân đức được nảy nở, và như vậy ‘dưới đất’ không còn gì khác với ‘trên trời’ nữa”[81].
Bài Ðọc I: Is 52, 13-53, 12
"Người đã bị
thương tích vì tội lỗi chúng ta".
(Bài ca thứ tư của người
Tôi Tớ Chúa)
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Này tôi tớ Ta sẽ được cao minh, sẽ vinh thăng tấn
phát, cao cả tuyệt vời. Cũng như nhiều người đã kinh ngạc, vì thấy người tàn tạ
mất hết vẻ người, dung nhan người cũng không còn nữa, cũng thế, muôn dân sẽ sửng
sốt, các vua không còn biết nói chi trước mặt người. Vì họ sẽ thấy việc chưa ai
kể cho mình, sẽ biết điều mình chưa hề được nghe.
Ai mà tin được điều chúng ta nghe? Và Chúa đã tỏ
ra sức mạnh cho ai? Người sẽ lớn lên trước mặt Ngài như một chồi non, như một rễ
cây, tự đất khô khan. Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để
chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời
khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một
người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.
Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng
ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ
phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị
thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh
lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta
được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả.
Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta.
Người hiến thân vì người tình nguyện và không mở
miệng như con chiên bị đem đi giết, và như chiên non trước mặt người xén lông,
người thinh lặng chẳng hé môi. Do cưỡng bách và án lệnh, người đã bị tiêu diệt;
ai sẽ còn kể đến dòng dõi người nữa, bởi vì người đã bị khai trừ khỏi đất người
sống; vì tội lỗi dân Ta, Ta đánh phạt người. Người ta định đặt mồ người giữa những
kẻ gian ác, nhưng khi chết, người được chôn giữa kẻ giàu sang, mặc dầu người đã
không làm chi bất chánh, và miệng người không nói lời gian dối. Chúa đã muốn
hành hạ người trong đau khổ.
Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ
thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi
khổ tâm của người, người sẽ thấy và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ
công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ.
Bởi đó, Ta trao phó nhiều dân cho người, người sẽ chia chiến lợi phẩm với người
hùng mạnh. Bởi vì người đã hiến thân chịu chết và đã bị liệt vào hàng phạm
nhân, người đã mang lấy tội của nhiều người, và đã cầu bầu cho các phạm nhân.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca
Ðáp:
Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha.
Xướng: 1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài,
xin đừng để con muôn đời tủi hổ, vì đức công minh Ngài, xin cứu chữa con! Con
phó thác tâm hồn trong tay Chúa, lạy Chúa, lạy Thiên Chúa trung thành, xin cứu
chữa con.
Ðáp:
Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha.
2) Con trở nên đồ ô nhục đối với những người
thù, nên trò cười cho khách lân bang, và mối lo sợ cho người quen biết; gặp con
ngoài đường, họ tránh xa con. Con bị người ta quên, không để ý tới, dường như
đã chết, con đã trở nên như cái bình bị vỡ tan.
Ðáp:
Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha.
3) Phần con, lạy Chúa, con tin cậy ở Ngài, con
kêu lên: Ngài là Thiên Chúa của con! Vận mạng con ở trong tay Ngài, xin cứu gỡ
con khỏi tay quân thù và những người bách hại.
Ðáp:
Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha.
4) Xin cho tôi tớ Chúa được thấy long nhan dịu
hiền, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa. Lòng chư vị hãy can trường mạnh
bạo, hết thảy chư vị là người cậy trông ở Chúa.
Ðáp:
Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha.
Bài Ðọc II: Dt 4, 14-16; 5, 7-9
"Người đã học
vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn
nguyên ơn cứu độ đời đời".
Bài trích thư gởi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, chúng ta có một thượng tế cao cả
đã đi qua các tầng trời, là Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững
việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Vì chưng, không phải chúng ta có thượng tế
không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử
thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng
rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu mình khỏi chết, và vì
lòng thành kính, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học
vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn
nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng
Trước Phúc Âm
Chúa Kitô vì chúng ta đã vâng lời cho đến chết,
và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một
danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Phúc Âm: Ga 18, 1 - 19, 42
"Sự
Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. +: Chúa Giêsu
C. Bài Thương
Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối
Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản
bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa
dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho,
nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho
Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng:
+. "Các
ngươi tìm ai?"
C. Chúng
thưa lại:
S. "Giêsu
Nadarét".
C. Chúa
Giêsu bảo:
+. "Ta
đây".
C. Giuđa
là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói
"Ta đây", bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi
chúng:
+. "Các
ngươi tìm ai?"
C. Chúng
thưa:
S. "Giêsu
Nadarét".
C. Chúa
Giêsu đáp lại:
+. "Ta
đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những
người này đi".
C. Như
thế là trọn lời đã nói: "Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã
trao phó cho Con". Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh
tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Ðầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng
Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng:
+. "Hãy
xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!"
C. Bấy
giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại,
và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm
thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để
một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo
Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong
sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người
quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ
tì gác cửa liền bảo Phêrô:
S. "Có
phải ông cũng là môn đệ của người đó không?"
C. Ông
đáp:
S. "Tôi
không phải đâu".
C. Ðám
thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô
cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người.
Chúa Giêsu đáp:
+. "Tôi
đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và
trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm
lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều
Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói".
C. Nghe
vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói:
S. "Anh
trả lời vị thượng tế như thế ư".
C. Chúa
Giêsu đáp:
+. "Nếu
Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại
đánh Ta?"
C. Rồi
Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang
đứng sưởi. Họ bảo ông:
S. "Có
phải ông cũng là môn đệ người đó không?"
C. Ông
chối và nói:
S. "Tôi
không phải đâu".
C. Một
tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng:
S. "Tôi
đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?"
C. Phêrô
lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.
Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến
pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để
có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói:
S. "Các
ngươi tố cáo người này về điều gì".
C. Họ
đáp:
S. "Nếu
hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan".
C. Philatô
bảo họ:
S. "Các
ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông".
C. Nhưng
người Do-thái đáp lại:
S. "Chúng
tôi chẳng có quyền giết ai cả".
C. Thế
mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ
Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi:
S. "Ông
có phải là Vua dân Do-thái không?"
C. Chúa
Giêsu đáp:
+. "Quan
tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?"
C. Philatô
đáp:
S. "Ta
đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho
ta. Ông đã làm gì?"
C. Chúa
Giêsu đáp:
+. "Nước
tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những
người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước
tôi không thuộc chốn này".
C. Philatô
hỏi lại:
S. "Vậy
ông là Vua ư?"
C. Chúa
Giêsu đáp:
+. "Quan
nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng
về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi".
C. Philatô
bảo Người:
S. "Chân
lý là cái gì?"
C. Nói
lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ:
S. "Ta
không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ
phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn
ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?"
C. Họ
liền la lên:
S. "Không
phải tên đó, nhưng là Baraba".
C. Baraba
là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người.
Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói:
S. "Tâu
Vua Do-thái!"
C. Và
vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói:
S. "Ðây
ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy
nơi người ấy một lý do để kết án".
C. Bấy
giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ:
S. "Này
là Người".
C. Vừa
thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to:
S. "Ðóng
đinh nó vào thập giá! Ðóng đinh nó vào thập giá!"
C. Philatô
bảo họ:
S. "Ðấy
các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do
nào kết tội ông".
C. Người
Do-thái đáp lại:
S. "Chúng
tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên
Chúa".
C. Nghe
lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu:
S. "Ông
ở đâu đến?"
C. Nhưng
Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người:
S. "Ông
không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá
và cũng có quyền tha ông sao?"
C. Chúa
Giêsu đáp:
+. "Quan
chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp
tôi cho quan, mắc tội nặng hơn".
C. Từ
lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên:
S. "Nếu
quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là
vua, kẻ đó chống lại Xêsa".
C. Philatô
vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi
gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu
ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân:
S. "Ðây
là vua các ngươi".
C. Nhưng
họ càng la to:
S. "Giết
đi! Giết đi! Ðóng đinh nó đi!"
C. Philatô
nói:
S. "Ta
đóng đinh vua các ngươi ư?"
C. Các
thượng tế đáp:
S. "Chúng
tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa".
C. Bấy
giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.
Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập
giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh
Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa
Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng
mang những hàng chữ này: "Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái". Nhiều người
Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố,
mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến
thưa với Philatô:
S. Xin
đừng viết "Vua dân Do Thái", nhưng nên viết: "Người này đã nói:
'Ta là vua dân Do-thái'".
C. Philatô
đáp:
S. "Ðiều
ta đã viết là đã viết".
C. Khi
quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia
làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu,
đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau:
S. "Chúng
ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy".
C. Hầu
ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo
dài của Ta". Chính quân lính đã làm điều đó.
Ðứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người,
cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và
bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng:
+. "Hỡi
Bà, này là con Bà".
C. Rồi
Người lại nói với môn đệ:
+. "Này
là Mẹ con".
C. Và
từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã
hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói:
+. "Ta
khát!"
C. Ở
đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu
ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói:
+. "Mọi
sự đã hoàn tất".
C. Và
Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
(Quỳ gối thinh lặng thờ
lạy trong giây lát)
Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi
treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người
Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân
lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo
trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết,
nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh
sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà
lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho
các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh
Thánh: "Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người". Lời
Kinh Thánh khác rằng: "Họ sẽ nhìn xem Ðấng họ đã đâm thâu qua".
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa
Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa
Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông
là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm
cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại
cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh
có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn
bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu
trong mộ đó.
Đó là lời Chúa.
[1] X.
Rm 5,12; 1 Cr 15,56.
[2] X.
Pl 2,7.
[3] X.
Rm 8,3.
[4] X.
Ga 8,46.
[5] X.
Ga 8,29.
[6] X.
Tv 22,1.
[7] X.
1 Ga 4,19.
[8] X.
Rm 5,18-19.
[9] X.
2 Cr 5,15; 1 Ga 2,2.
[10] CĐ Carisia (năm 853), De libero
arbitrio hominis et de praedestinatione,
canon 4: Ds 624.
[11] X.
Ga 6,38.
[12] X.
Lc 12,50; 22,15; Mt 16,21-23.
[13] X.
Lc 3,21; Mt 3,14-15.
[14] X.
Ga 1,29.36.
[15] X.
Is 53,7; Gr 11,19.
[16] X.
Is 53,12.
[17] X.
Xh 12,3-14; Ga 19,36; 1 Cr 5,7.
[18] X.
Mc 10,45.
[19] X.
Dt 2,10.17-18; 4,15; 5,7-9.
[20] X.
Ga 18,4-6; Mt 26,53.
[21] X.
Mt 16,20.
[22] X.
1 Cr 5,7.
[23] X.
1 Cr 11,25.
[24] X.
Lc 22,19.
[25] X. CĐ Triđentinô, Sess. 22a, Doctrina de
sanctissimo Missae Sacrificio,
c. 2: DS 1752; Sess. 23a, Doctrina de sacramento Ordinis, c.1: DS 1764.
[26] X.
Lc 22,20.
[27] X.
Mt 26,42.
[28] X.
Dt 5,7-8.
[29] X.
Dt 4,15.
[30] X.
Rm 5,12.
[31] X.
Cv 3,15.
[32] X.
Kh 1,18; Ga 1,4; 5,26.
[33] X.
Mt 26,42.
[34] X.
1 Cr 5,7; Ga 8,34-36.
[35] X.
Ga 1,29; 1 Pr 1,19.
[36] X.
1 Cr 11,25.
[37] X.
Xh 24,8.
[38] X.
Mt 26,28; Lv 16,15-16.
[39] X.
Dt 10,10.
[40] X.
1 Ga 4,10.
[41] X.
Ga 15,13.
[42] X.
Ga 10,17-18.
[43] X.
Dt 9,14.
[44] X.
Is 53,10-12.
[45] X. CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de
iustificatione, c. 7: DS 1529.
[46] X.
Ga 13,1.
[47] X.
Gl 2,20; Ep 5,2.25.
[48] CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de
iustificatione, c. 1: DS 1529.
[49] X.
Dt 5,9.
[50] Additio liturgica ad Hymnum “Vexilla
Regis”: Các
Giờ Kinh Phụng Vụ, editio
typica, v, 2 (Typis Polyglottis Vaticanis 1974) 313; v. 4 (Typis Polyglottis
Vaticanis 1974) 1129.
[51] X.
1 Tm 2,5.
[52] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et
Spes, 22: AAS 58 (1966)
1042.
[53] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et
Spes, 22: AAS 58 (1966)
1043.
[54] X.
Mt 16,24.
[55] X.
1 Pr 2,21.
[56] X.
Mc 10,39; Ga 21,18-19; Cl 1,24.
[57] X.
Lc 2,35.
[58] Thánh Rôsa Lima: P.Hansen, Vita
mirabilis […] venerabilis sororis Rosae de sancta Maria Limensis (Romae 1664) 137.
[59] X. CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de
iustificatione, c. 7: DS
1529.
[60] X.
Lc 22,20.
[61] X.
Mt 26,42.
[62] X.
Dt 5,7-8.
[63] X.
Dt 4,15.
[64] X.
Rm 5,12.
[65] X.
Cv 3,15.
[66] X.
Kh 1,18; Ga 1,4; 5,26.
[67] X.
Mt 26,42.
[68] X. Cv 13,33.
[69] X. Dt 5,7; 7,25; 9,24.
[70] X.
Dt 4,15.
[71] CĐ
Chalcêđônia: DS 301-302.
[72] X.
Mt 16,21-23.
[73] X.
Kh 4,2.
[74] X.
Ed 1,26-28.
[75] X.
Ga 1,29.
[76] X.
Dt 4,14-15; 10,19-21; etc.
[77] Liturgia Byzantina. Anaphora Iohannis Chrysostomi: F.E. Brightman, Liturgies
Eastern and Western (Oxford
1896) 378 (PG 63, 913).
[78] X.
Ga 4,10-14; Kh 21,6.
[79] X. Ga 8,29.
[80] Ôrigiênê, De oratione, 26, 3: GCS 3, 361 (PG 11, 501).