(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí
tích)
LỄ
TIỆC LY - THỨ NĂM TUẦN THÁNH
WHĐ (05.4.2023) - Để hỗ trợ
các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm
giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo
sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được công bố qua Sắc lệnh ký ngày
29.06.2014.
Số 1337-1344:
Việc thiết lập bí tích Thánh Thể
1337. Khi
yêu thương những kẻ thuộc về mình, Chúa đã yêu họ đến cùng. Khi biết đã đến Giờ
lìa bỏ thế gian mà về cùng Cha mình, trong một bữa tiệc, Người đã rửa chân cho
họ và ban cho họ giới luật yêu thương[1]. Để
lưu lại cho họ bảo chứng của tình yêu này, để không bao giờ lìa xa những kẻ thuộc
về mình, và để họ được tham dự vào cuộc Vượt Qua của Người, Người đã thiết lập
bí tích Thánh Thể, với tính cách một việc để nhớ đến cái Chết và sự Sống lại của
Người, và Người truyền cho các Tông Đồ Người, “những vị Người đặt làm tư tế của
Giao Ước Mới”[2] phải
cử hành bí tích này cho tới khi Người lại đến.
1338. Ba
Tin Mừng Nhất Lãm và thánh Phaolô lưu truyền cho chúng ta bản tường thuật việc
thiết lập bí tích Thánh Thể; về phần mình, thánh Gioan thuật lại những lời của
Chúa Giêsu tại hội đường Capharnaum, những lời đó thật sự chuẩn bị cho việc thiết
lập bí tích Thánh Thể: chính Đức Kitô tự xưng mình là Bánh Hằng Sống, từ trời
xuống[3].
1339. Chúa
Giêsu chọn thời gian mừng lễ Vượt Qua để thực hiện điều Người đã báo trước ở
Capharnaum: Người ban Mình và Máu Người cho các môn đệ của Người:
“Đã đến ngày lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế
chiên Vượt Qua. Chúa Giêsu sai ông Phêrô với ông Gioan đi và dặn: ‘Các anh hãy
đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua’. … Các ông ra đi ... và dọn tiệc Vượt Qua.
Khi giờ đã đến, Chúa Giêsu vào bàn cùng với các Tông Đồ. Người nói với các ông:
‘Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ
hình. Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này
nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa’.... Rồi Người
cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: ‘Đây là Mình Thầy,
hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy’. Và tới tuần
rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: ‘Chén này là giao ước mới, lập
bằng Máu Thầy, máu đổ ra vì anh em’” (Lc 22,7-20)[4].
1340. Khi cử
hành bữa Tiệc Ly với các Tông Đồ của Người trong khung cảnh bữa tiệc Vượt Qua,
Chúa Giêsu đã ban cho lễ Vượt Qua của người Do Thái một ý nghĩa dứt khoát. Quả
thật, cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu để về cùng Cha Người, qua cái Chết và sự Sống
lại, thật sự là cuộc Vượt Qua mới, được tham dự trước trong bữa Tiệc Ly và được
cử hành trong bí tích Thánh Thể, cuộc Vượt Qua đó hoàn thành lễ Vượt Qua của
người Do Thái và tham dự trước vào lễ Vượt Qua chung cuộc của Hội Thánh trong
vinh quang Nước Thiên Chúa.
“Các
con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”
1341. Mệnh
lệnh Chúa Giêsu truyền phải lặp lại những cử chỉ và lời nói của Người “cho tới
khi Chúa đến” (1 Cr 11,26), không chỉ đòi hỏi phải nhớ đến Chúa Giêsu và những
gì Người đã làm. Mệnh lệnh này nhắm đến việc cử hành phụng vụ, do các Tông Đồ
và những người kế nhiệm các ngài, để tưởng niệm Đức
Kitô, tưởng niệm cuộc đời của Người, cái Chết và sự Sống lại của Người, và việc
chuyển cầu của Người bên Chúa Cha.
1342. Ngay
từ đầu, Hội Thánh đã trung thành tuân giữ mệnh lệnh này của Chúa. Về Hội Thánh
tại Giêrusalem có bài tường thuật như sau:
“Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy,
luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện
không ngừng.... Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm
lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ” (Cv 2,42.46).
1343. Đặc
biệt vào “ngày thứ nhất trong tuần”, nghĩa là ngày Chúa Nhật, ngày Chúa Giêsu
phục sinh, các Kitô hữu tụ họp để “bẻ bánh” (Cv 20,7). Từ đó đến nay, việc cử
hành bí tích Thánh Thể tiếp tục tồn tại y như vậy, đến độ ngày nay chúng ta vẫn
gặp được việc cử hành đó, ở bất cứ đâu trong Hội Thánh, với cùng một cấu trúc
căn bản. Bí tích Thánh Thể vẫn mãi mãi là trung tâm của đời sống Hội Thánh.
1344. Như vậy,
từ cử hành này sang cử hành khác để loan báo mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu,
“cho tới khi Chúa đến” (1 Cr 11,26), dân Thiên Chúa trên đường lữ hành, “qua đường
hẹp của thập giá”[5],
đang tiến về bàn tiệc thiên quốc, nơi tất cả mọi người được tuyển chọn sẽ ngồi
vào bàn tiệc của Nước Thiên Chúa.
Số 1359-1361:
Bí tích Thánh Thể với tính chất là việc tạ ơn và ca ngợi Chúa Cha
1359. Thánh
Thể, là bí tích của ơn cứu độ được Đức Kitô thực hiện trên thập giá, cũng là hy
tế ca ngợi để tạ ơn vì công trình tạo dựng. Trong hy tế Thánh Thể, toàn bộ công
trình tạo dựng được Thiên Chúa yêu thương được trình lên Chúa Cha qua cái Chết
và sự Sống lại của Đức Kitô. Nhờ Đức Kitô, Hội Thánh có thể dâng hy tế ca ngợi
để tạ ơn vì tất cả những gì là tốt, là đẹp, là đúng mà Thiên Chúa đã thực hiện
trong công trình tạo dựng và trong nhân loại.
1360. Bí
tích Thánh Thể là hy tế để tạ ơn Chúa Cha, là lời chúc tụng qua đó Hội Thánh diễn
tả lòng tri ân của mình đối với Thiên Chúa vì mọi điều Ngài ban, vì mọi điều
Ngài đã thực hiện trong công trình tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa. Bí tích
Thánh Thể trước hết có nghĩa là tạ ơn.
1361. Bí
tích Thánh Thể cũng là hy tế ca ngợi, qua đó Hội Thánh nhân danh toàn thể thụ tạo
ca tụng vinh quang Thiên Chúa. Hy tế ca ngợi này chỉ có thể được thực hiện nhờ
Đức Kitô: Người kết hợp các tín hữu vào bản thân Người, vào lời ca ngợi của Người,
vào sự chuyển cầu của Người, và như vậy hy tế ca ngợi được dâng lên Chúa Cha nhờ Đức Kitô, với Người,
để được chấp nhận trong Người.
Số 610,
1362-1372, 1382, 1436: Bí tích Thánh Thể với tính chất là hy tế
610. Chúa
Giêsu đã diễn tả cách hết sức rõ ràng việc Người tự nguyện dâng hiến chính mình
trong bữa tiệc Người ăn với mười hai Tông Đồ[6] “trong
đêm bị nộp” (1 Cr 11,23). Hôm trước ngày chịu nạn, khi còn hoàn toàn tự do,
Chúa Giêsu đã biến bữa Tiệc cuối cùng với các Tông Đồ của Người thành lễ tưởng
niệm việc Người tự nguyện dâng hiến chính mình cho Chúa Cha[7] để
cứu độ nhân loại: “Đây là Mình Thầy, bị nộp vì
anh em” (Lc 22,19). “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).
1362. Bí
tích Thánh Thể là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, là hiện tại hoá
hy tế duy nhất của Người, và dâng hy tế duy nhất đó cách bí tích, trong phụng vụ
của Hội Thánh là Thân Thể Người. Trong tất cả các Kinh nguyện Thánh Thể, chúng
ta đều thấy, sau các lời tường thuật về việc Chúa thiết lập Thánh Thể, một kinh
nguyện được gọi là kinh Tưởng Niệm (anamnesis hoặc memoriale).
1363. Theo
ý nghĩa của Thánh Kinh, tưởng niệm không
chỉ là nhớ lại những biến cố của quá khứ, nhưng còn là công bố các kỳ công
Thiên Chúa đã thực hiện cho loài người[8]. Khi
cử hành phụng vụ về các biến cố này, chúng hiện diện và được hiện tại hoá một
cách nào đó. Dân Israel hiểu về việc mình được giải thoát khỏi Ai Cập theo cách
như vậy: Mỗi lần lễ Vượt Qua được cử hành, các biến cố thời Xuất Hành lại hiện
diện trong ký ức của các tín hữu, để họ điều chỉnh cuộc sống của mình cho phù hợp
với các biến cố đó.
1364. Việc
tưởng niệm trong Giao Ước mới mang một ý nghĩa mới. Khi cử hành bí tích Thánh
Thể, Hội Thánh tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, thì cuộc Vượt Qua này trở
nên hiện diện: Hy tế mà Đức Kitô dâng lên một lần cho mãi mãi trên thập giá,
luôn luôn được hiện tại hoá[9]. “Mỗi
lần hy tế thập giá, qua đó ‘Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của
chúng ta’ (1 Cr 5,7), được cử hành trên bàn thờ, thì công trình cứu chuộc chúng
ta được thực hiện”[10].
1365. Bởi
vì là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, nên bí tích
Thánh Thể cũng là một hy tế. Tính
chất hy tế của bí tích Thánh Thể được biểu lộ trong chính các lời thiết lập bí
tích này: “Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em”. “Chén này là giao ước mới, lập
bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,19-20). Trong bí tích Thánh Thể, Đức
Kitô ban chính thân mình đã bị nộp vì chúng ta trên thập giá, ban chính máu mà
Người đã đổ ra “cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).
1366. Vì vậy,
bí tích Thánh Thể là một Hy tế bởi vì bí tích này làm cho Hy tế thập giá hiện diện, bởi vì bí tích này là việc tưởng
niệm Hy tế đó, và bởi vì
bí tích này áp dụng hiệu
quả của Hy tế đó:
Đức Kitô “là Thiên Chúa và Chúa chúng ta, … đã tự
hiến cho Chúa Cha bằng cái chết trên bàn thờ thập giá một lần cho mãi mãi, để
thực hiện ơn cứu chuộc muôn đời cho loài người. Tuy nhiên, bởi vì cái chết của
Người không chấm dứt chức tư tế của Người [Dt 7,24.27], nên trong bữa Tiệc Ly,
‘trong đêm bị nộp’ [1 Cr 11,23], … Người đã để lại cho Hiền Thê yêu dấu của Người
là Hội Thánh một hy tế hữu hình (như bản tính con người đòi hỏi); trong hy tế hữu
hình này, hy tế đẫm máu được thực hiện một lần duy nhất trên thập giá được hiện
diện, và việc tưởng niệm hy tế đẫm máu đó sẽ còn mãi cho đến ngày tận thế, và sức
mạnh cứu độ của hy tế đó sẽ được áp dụng để tha thứ các tội lỗi chúng ta phạm hằng
ngày”[11].
1367. Hy tế
của Đức Kitô và hy tế Thánh Thể là một hy tế duy nhất. “Cũng cùng một hiến vật, cũng cùng một Đấng
xưa đã tự hiến trên thập giá, nay cũng chính Người dâng lên qua thừa tác vụ tư
tế, chỉ khác biệt về cách tiến dâng”[12]: “Vì
trong hy tế thần linh được thực hiện trong thánh lễ, cũng chính Đức Kitô Đấng
đã tự hiến một lần bằng cách đổ máu trên bàn thờ thập giá, nay được hiến dâng
và sát tế một cách không đổ máu, nên hy tế này thật sự có giá trị đền tội”[13].
1368. Bí tích
Thánh Thể cũng là hy tế của Hội Thánh. Hội
Thánh, là Thân Thể của Đức Kitô, tham dự vào lễ tế của Đấng là Đầu của mình.
Cùng với Người, toàn thể Hội Thánh được dâng lên. Hội Thánh kết hợp mình với việc
chuyển cầu của Người bên Chúa Cha, để cầu cho tất cả mọi người. Trong bí tích
Thánh Thể, hy tế của Đức Kitô cũng trở thành hy tế của các chi thể trong Thân
Thể Người. Đời sống của các tín hữu, lời ca ngợi, sự đau khổ, lời cầu nguyện,
việc lao động của họ, được kết hợp với cùng những khía cạnh đó trong đời sống của
Đức Kitô và với toàn bộ lễ tế của Người, và như vậy chúng có một giá trị mới.
Hy tế của Đức Kitô hiện diện trên bàn thờ đem lại cho mọi thế hệ Kitô hữu khả
năng được kết hợp với lễ tế của Người.
Trong
các hang toại đạo, Hội Thánh thường được diễn tả như một người nữ đang cầu nguyện,
hai tay giang ra trong cử chỉ cầu nguyện. Như Đức Kitô giang tay trên thập giá,
thì nhờ Người, với Người và trong Người, Hội Thánh dâng chính mình và chuyển cầu
cho tất cả mọi người.
1369. Toàn thể Hội
Thánh được kết hợp với lễ tế và lời chuyển cầu của Đức Kitô. Đảm nhận thừa tác vụ của thánh Phêrô trong
Hội Thánh, Đức Giáo Hoàng được
liên kết với mọi cử hành Thánh lễ, trong đó, ngài được nhắc đến với tư cách là
dấu chỉ và thừa tác viên của sự hợp nhất của Hội Thánh toàn cầu. Giám mục địa phương luôn có trách nhiệm về Thánh lễ,
cả khi một
linh mục cử hành; tên ngài
được đọc lên trong Thánh lễ để nói lên rằng ngài đứng đầu Giáo Hội địa phương,
giữa hàng linh mục và với sự trợ giúp của các phó tế. Cộng
đoàn cũng chuyển cầu cho tất cả các thừa tác viên đang dâng lễ cho cộng đoàn và
cùng với cộng đoàn:
“Bí tích Thánh Thể chỉ được coi là thành sự khi
được cử hành dưới sự chủ tọa của Giám mục hay của người được ngài giao trách
nhiệm”[14].
“Qua thừa tác vụ của các linh mục, hy tế thiêng
liêng của các tín hữu được hoàn tất trong sự kết hợp với hy tế của Đức Kitô, Đấng
Trung Gian duy nhất, hy tế này nhờ tay các linh mục, nhân danh toàn thể Hội
Thánh, được dâng lên trong thánh lễ một cách bí tích và không đổ máu, cho tới
khi Chúa đến”[15].
1370. Không
những các chi thể của Đức Kitô còn ở trần gian, mà cả những vị đang hưởng
vinh quang trên trời cũng được kết hợp với lễ tế của Đức Kitô:
Hội Thánh dâng hy tế Thánh Thể trong sự hiệp thông với Đức Trinh Nữ Maria rất
thánh, và nhớ đến ngài cũng như đến tất cả các Thánh nam nữ. Trong Thánh lễ, Hội
Thánh một cách nào đó đứng dưới Thánh Giá, cùng với Mẹ Maria, kết hợp với lễ tế
và lời chuyển cầu của Đức Kitô.
1371. Hy tế
Thánh Thể cũng được dâng lên để cầu cho các tín hữu đã qua đời, “cho những người đã chết trong Đức Kitô mà
chưa được thanh luyện trọn vẹn”[16], để
họ được vào hưởng ánh sáng và bình an của Đức Kitô:
“Các con hãy chôn xác này ở bất cứ nơi đâu: đừng
lo lắng gì về chuyện đó; mẹ chỉ xin các con điều này, là bất cứ các con ở đâu,
các con hãy nhớ tới mẹ nơi bàn thờ của Chúa”[17].
“Sau đó [trong Kinh nguyện Thánh Thể] chúng ta cầu
cho các Giáo hoàng và các Giám mục đã an nghỉ, và cách chung, cho các tín hữu
đã qua đời giữa chúng ta, vì chúng ta tin rằng các linh hồn sẽ được trợ giúp tối
đa nhờ lời cầu nguyện cho họ, khi Của Lễ hiến tế thánh và đáng kính sợ đang hiện
diện…. Khi dâng lên Thiên Chúa những lời chuyển cầu của chúng ta cho những người
đã an giấc, dù họ là những tội nhân, chúng ta dâng chính Đức Kitô bị sát tế vì
tội lỗi chúng ta, để xin ơn giao hòa với Thiên Chúa, Bạn của loài người, cho họ
và cho chúng ta”[18].
1372. Thánh
Augustinô tóm tắt một cách tuyệt vời giáo lý này, một giáo lý thúc giục chúng
ta tham dự ngày càng trọn vẹn hơn vào hy tế của Đấng Cứu Chuộc chúng ta mà
chúng ta cử hành trong Thánh lễ:
“Chính toàn thể đô thành đã được cứu chuộc, tức
là cộng đoàn và tập thể các Thánh, là một hy tế phổ quát được dâng lên Thiên
Chúa nhờ vị Thượng Tế, Đấng trong hình dang một kẻ nô lệ, đã tự hiến mình chịu
khổ nạn vì chúng ta, để chúng ta trở thành Thân thể của Đấng là Đầu cao cả dường
ấy…. Đây là hy tế của các Kitô hữu: ‘Chúng ta cũng vậy: tuy nhiều nhưng chỉ là
một thân thể trong Đức Kitô’ (Rm 12,5). Hy tế này được Hội Thánh tiếp tục cử
hành qua bí tích bàn thờ mà các tín hữu đã biết, trong đó Hội Thánh hiến dâng
chính mình trong Hy tế mà Hội Thánh tiến dâng”[19].
1382. Thánh
lễ, một cách không thể tách biệt, vừa là việc tưởng niệm Hy tế thập giá muôn đời
tồn tại, vừa là bàn tiệc thánh thiêng để hiệp thông với Mình và Máu Chúa. Nhưng
việc cử hành hy tế Thánh Thể hoàn toàn hướng đến sự kết hợp mật thiết của các
tín hữu với Đức Kitô qua việc rước lễ. Rước lễ là lãnh nhận chính Đức Kitô, Đấng
đã tự hiến vì chúng ta.
1436. Bí tích
Thánh Thể và bí tích Thống Hối. Việc
hối cải và thống hối hằng ngày gặp được nguồn mạch và lương thực của mình nơi
bí tích Thánh Thể, bởi vì nơi Thánh Thể, hy lễ của Đức Kitô hiện diện, hy lễ
này giao hoà chúng ta với Thiên Chúa; nhờ bí tích Thánh Thể, những ai sống bởi
sức sống của Đức Kitô sẽ được nuôi dưỡng và được bổ sức; bí tích này là “thuốc
giải độc, giải thoát chúng ta khỏi các lỗi phạm hằng ngày và gìn giữ chúng ta
khỏi các tội trọng”[20].
Số 1373-1381:
Sự hiện diện thật sự của Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể
1373. “Đức
Kitô Giêsu, Đấng đã chết, hơn nữa đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa
mà chuyển cầu cho chúng ta” (Rm 8,34) đang hiện diện trong Hội Thánh Người dưới
nhiều hình thức[21]:
trong Lời của Người, trong kinh nguyện của Hội Thánh Người, “ở đâu có hai ba
người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20), trong những
người nghèo khổ, những bệnh nhân, những người bị cầm tù[22],
trong các bí tích mà chính Người là tác giả, trong Hy tế Thánh lễ và trong con
người thừa tác viên. Nhưng “nhất là Người
hiện diện dưới
các hình dạng Thánh Thể”[23].
1374. Cách
thức hiện diện của Đức Kitô dưới các hình dạng Thánh Thể là độc nhất vô nhị.
Người nâng bí tích Thánh Thể vượt lên trên các bí tích khác và vì vậy bí tích
này là “như sự trọn hảo của đời sống thiêng liêng và cùng đích của mọi bí tích”[24].
Trong bí tích Thánh Thể cực thánh, Mình và Máu cùng với linh hồn và thần tính của
Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và như vậy là Đức Kitô toàn thể (totus Christus), hiện diện một cách đích thực,
thật sự, và theo bản thể[25]. “Sự
hiện diện này được gọi là ‘thật sự’, không theo nghĩa loại trừ, nghĩa là không
coi các hình thức hiện diện khác như không ‘thật sự’, nhưng theo nghĩa đặc biệt,
bởi vì đây là cách hiện diện theo bản thể, và qua đó Đức Kitô toàn thể và trọn vẹn (totus
atque integer Christus), vừa là Thiên Chúa vừa là con người, hiện diện một cách
chắc chắn”[26].
1375. Trong
bí tích này, Đức Kitô hiện diện nhờ sự biến đổi bánh
và rượu thành Mình và Máu Đức Kitô. Các Giáo phụ mạnh mẽ khẳng định đức tin của
Hội Thánh vào hiệu lực của lời Đức Kitô và nhờ tác động của Chúa Thánh Thần
trong việc thực hiện sự biến đổi này. Thánh Gioan Kim Khẩu tuyên bố:
“Không phải người ta, nhưng chính Đức Kitô, Đấng
đã chịu đóng đinh vì chúng ta, làm cho các lễ vật trở thành Mình và Máu Đức
Kitô. Vị tư tế, hình ảnh của Đức Kitô, đọc các lời này, nhưng hiệu quả và ân sủng
là do Thiên Chúa. Ngài đọc ‘Này là Mình Thầy’. Lời này biến đổi các lễ vật”[27].
Và thánh Ambrôsiô nói về sự biến đổi như sau:
Chúng ta hãy tin chắc rằng: “Đây không phải là vấn
đề bản chất đã tạo ra, nhưng là điều lời chúc lành đã thánh hiến. Sức mạnh của
lời chúc lành vượt trên sức mạnh của bản chất, vì nhờ lời chúc lành mà chính bản
chất đã biến đổi”[28]. “Lời
Đức Kitô có khả năng làm ra, từ hư không, cái trước đó chưa từng hiện hữu, chẳng
lẽ lời đó lại không thể biến đổi những sự vật đang hiện hữu thành những sự vật
trước đó chưa có hay sao? Việc ban bản chất đầu tiên cho sự vật cũng tương
đương như biến đổi bản chất của chung”[29].
1376. Công
đồng Triđentinô đã tóm tắt đức tin công giáo bằng lời tuyên bố: “Vì Đức Kitô, Đấng
Cứu Chuộc chúng ta, đã phán dạy: Điều Người dâng lên dưới hình bánh, đích thực
là Thân Mình Người, nên Hội Thánh luôn luôn xác tín như vậy, và thánh Công đồng
này một lần nữa tuyên bố: Nhờ lời thánh hiến bánh và rượu đã diễn ra sự biến đổi
trọn vẹn bản thể bánh thành bản thể Mình Thánh Đức Kitô, Chúa chúng ta, và biến
đổi trọn vẹn bản thể rượu thành bản thể Máu Thánh Người; Hội Thánh công giáo gọi
việc biến đổi này một cách thích hợp và chính xác là sự biến đổi
bản thể (transsubstantiatio)[30].
1377. Sự hiện
diện Thánh Thể của Đức Kitô bắt đầu từ lúc thánh hiến [a momento
consecrationis, quen gọi là lúc truyền phép] và kéo dài bao lâu các hình dạng
Thánh Thể còn tồn tại. Đức Kitô hiện diện trọn vẹn trong mỗi hình bánh và rượu,
và trong mỗi phần nhỏ của hình bánh và rượu, như vậy việc bẻ bánh không phân
chia Đức Kitô[31].
1378. Việc tôn thờ
Thánh Thể. Trong phụng vụ
Thánh lễ, chúng ta bày tỏ đức tin vào sự hiện diện thật sự của Đức Kitô trong
các hình bánh và rượu bằng nhiều cách, như bái gối hay cúi mình sâu để tỏ dấu
tôn thờ Chúa. “Hội Thánh Công giáo đã và vẫn luôn tôn thờ Thánh Thể, không chỉ
trong mà còn ngoài Thánh lễ nữa, bằng cách bảo quản hết sức cẩn thận Bánh đã được
thánh hiến (consecratas Hostias), đặt lên cho các tín hữu tôn thờ cách long trọng,
và rước kiệu Thánh Thể với đông đảo dân chúng vui mừng tham dự”[32].
1379. Nhà Tạm,
trước hết được dùng để lưu giữ Thánh Thể cách xứng đáng để có thể mang đến cho
các bệnh nhân và những người vắng mặt rước lễ ngoài thánh lễ. Nhờ đào sâu đức
tin vào sự hiện diện thật sự của Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể, Hội Thánh ý
thức về ý nghĩa của việc thinh lặng tôn thờ Đức Kitô hiện diện trong các hình dạng
Thánh Thể. Vì vậy, Nhà Tạm phải đặt nơi đặc biệt xứng đáng trong nhà thờ, và phải
được thiết kế như thế nào để nêu cao và bày tỏ chân lý về sự hiện diện thật sự
của Đức Kitô trong Bí tích Cực thánh này.
1380. Thật
rất thích hợp, việc Đức Kitô đã muốn hiện diện với Hội Thánh của Người theo
cách thức độc nhất vô nhị này. Bởi vì Đức Kitô dưới hình dạng hữu hình, đã rời
bỏ những kẻ thuộc về Người, nên Người muốn ban cho chúng ta sự hiện diện cách
bí tích của Người; bởi vì Người đã tự hiến trên thập giá để cứu độ chúng ta,
nên Người muốn chúng ta tưởng niệm tình yêu mà Người đã yêu thương ta “đến
cùng” (Ga 13,1), đến độ ban cả mạng sống mình. Thật vậy, trong sự hiện diện bí
tích của Người, Người vẫn ở giữa chúng ta cách mầu nhiệm với tư cách là Đấng đã
yêu mến và nộp mình vì chúng ta[33], và
Người hiện diện dưới những dấu chỉ diễn tả và truyền thông tình yêu này:
“Quả thật, Hội Thánh và trần gian rất cần sự tôn
thờ bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu đang chờ đợi chúng ta trong bí tích tình yêu
này. Đừng từ chối thời gian đến gặp Người để tôn thờ, để chiêm ngắm tràn đầy đức
tin và sẵn sàng đền tạ những tội lỗi và tội ác nặng nề của trần gian. Chúng ta
hãy không ngừng tôn thờ Thánh Thể”[34].
1381. Thánh
Tôma đã nói: “Không thể nhận biết bằng giác quan Mình thật và Máu thật của Đức
Kitô hiện diện trong bí tích này, nhưng chỉ bằng đức tin, một đức tin dựa vào thẩm quyền của Thiên Chúa.
Vì thế, khi chú giải câu Luca 22,19: ‘Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con’,
thánh Cyrillô đã nói: ‘Bạn đừng hồ nghi điều này có thật hay không, nhưng tốt
hơn nên đón nhận bằng đức tin các lời của Đấng Cứu Độ, bởi vì Người là chân lý,
Người không lừa dối bao giờ’”[35]:
Số 1384-1401,
2837: Rước Lễ
1384. Chúa
tha thiết mời chúng ta đón rước Người trong bí tích Thánh Thể: “Thật, tôi bảo
thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống Máu Con Người, các ông không có
sự sống nơi mình” (Ga 6,53).
1385. Để
đáp lại lời mời đó, chúng ta phải dọn mình cho
giây phút cực trọng cực thánh này. Thánh Phaolô khuyên ta nên tự vấn lương tâm:
“Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì phạm đến Mình và
Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. Thật vậy,
ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt
mình” (1 Cr 11,27-29). Ai biết mình đang mắc tội trọng, thì phải lãnh nhận bí
tích Hòa Giải trước khi đi lên rước lễ.
1386. Trước
sự cao trọng của bí tích này, tín hữu chỉ có thể lặp lại, một cách khiêm tốn và
với đức tin sốt sắng, lời viên đại đội trưởng[37]: “Lạy
Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì
linh hồn con sẽ lành mạnh”[38].
Trong phụng vụ thánh của thánh Gioan Kim Khẩu, các tín hữu cầu nguyện cũng
trong tinh thần ấy:
“Lạy Con Thiên Chúa, hôm nay xin cho con được hiệp
thông vào bàn tiệc huyền nhiệm của Chúa. Bởi vì con không tiết lộ cho các kẻ
thù điều kín nhiệm của Chúa, cũng không tặng Chúa cái hôn của Giuđa. Nhưng như
người trộm lành, con kêu lên cùng Chúa: Lạy Chúa, xin nhớ đến con trong Nước
Chúa”[39].
1387. Để
dọn mình đón nhận bí tích này cách xứng đáng, các tín hữu phải giữ chay theo
quy định của Hội Thánh[40].
Thái độ bên ngoài (cử chỉ, cách ăn mặc) phải biểu lộ lòng tôn kính, sự trang trọng
và niềm vui của giây phút được Chúa là thượng khách của chúng ta.
1388. Căn cứ
vào ý nghĩa của bí tích Thánh Thể, các tín hữu, nếu hội đủ các điều kiện cần
thiết[41], rước lễ khi tham dự Thánh lễ.[42] “Việc
tham dự Thánh lễ cách hoàn hảo hơn, được nồng nhiệt khuyến khích, đó là sau khi
vị chủ tế rước lễ, các tín hữu rước Mình Chúa bởi cùng một hy tế”[43].
1389. Hội
Thánh buộc các tín hữu phải tham dự Thánh lễ vào các ngày Chúa nhật và các lễ
buộc[44] và
rước lễ mỗi năm ít là một lần, nếu có thể được trong mùa Phục Sinh[45], sau
khi đã chuẩn bị tâm hồn bằng bí tích Hòa Giải. Nhưng Hội Thánh tha thiết khuyến
khích các tín hữu rước lễ vào các ngày Chúa Nhật và các lễ khá long trọng, hay
thường xuyên hơn nữa, kể cả việc rước lễ hằng ngày.
1390. Vì Đức
Kitô hiện diện cách bí tích dưới mỗi hình dạng, nên việc rước lễ dưới hình bánh
mà thôi vẫn nhận được trọn vẹn hiệu quả ân sủng của bí tích Thánh Thể. Vì các
lý do mục vụ, cách rước lễ này đã được quy định cách hợp pháp trong nghi lễ La
tinh, như là hình thức thông thường nhất. Nhưng “dấu chỉ của việc rước lễ được
đầy đủ hơn khi được trao ban dưới hai hình dạng. Vì theo cách này, dấu chỉ của
bàn tiệc Thánh Thể trở nên rõ nét hơn”[46]. Đây
là cách rước lễ thông thường trong các nghi lễ Đông phương.
Hiệu quả của việc rước
lễ
1391. Việc rước lễ
làm tăng trưởng sự hiệp thông của chúng ta với Đức Kitô. Lãnh nhận bí tích Thánh Thể khi rước lễ
mang lại hiệu quả chính yếu là kết hợp thân mật với Đức Kitô Giêsu. Thật vậy,
Chúa nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong
người ấy” (Ga 6,56). Sự sống trong Đức Kitô có nền tảng nơi bàn tiệc Thánh Thể:
“Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào,
thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57).
“Trong các ngày lễ của Chúa, khi lãnh nhận Mình
của Chúa Con, các tín hữu công bố cho nhau Tin Mừng: bảo chứng của sự sống đã
được trao ban, cũng như xưa kia Thiên thần báo cho bà Maria Mađalêna: ‘Đức Kitô
đã phục sinh!’ Giờ đây cũng vậy, sự sống và sự phục sinh cũng được trao ban cho
ai lãnh nhận Đức Kitô”[47].
1392. Những
gì lương thực vật chất mang lại cho sự sống thể xác, thì việc rước lễ thực hiện
điều này cách kỳ diệu cho đời sống thiêng liêng của chúng ta. Việc hiệp thông với
thân mình Đức Kitô phục sinh, một thân mình “nhờ Chúa Thánh Thần, đã được sống
và có sức ban sự sống”[48], bảo
toàn, phát triển và canh tân đời sống ân sủng đã nhận được trong bí tích Rửa Tội.
Sự tăng trưởng như vậy của đời sống Kitô hữu cần được nuôi dưỡng bằng việc rước
Thánh Thể, là Bánh cho cuộc lữ hành của chúng ta, mãi cho đến giờ chết; lúc đó
Bánh sẽ được ban cho chúng ta như Của ăn đàng.
1393. Việc rước lễ
ngăn cách chúng ta khỏi tội lỗi.
Mình Đức Kitô chúng ta lãnh nhận khi rước lễ, là thân mình “bị nộp vì chúng ta”
và Máu chúng ta uống, là máu “đổ ra cho nhiều người được tha tội.” Vì vậy, bí
tích Thánh Thể không thể kết hợp chúng ta với Đức Kitô, nếu đồng thời không
thanh tẩy chúng ta khỏi các tội đã phạm và gìn giữ chúng ta khỏi các tội trong
tương lai:
“Mỗi lần chúng ta rước lễ, chúng ta loan truyền
Chúa đã chịu chết[49]. Nếu
chúng ta loan truyền cái chết của Chúa, thì cũng loan truyền ơn tha tội. Nếu mỗi
lần Máu Người đổ ra, là đổ ra để tha tội, thì tôi phải luôn lãnh nhận Máu Người,
để Người luôn tha tội cho tôi. Tôi là kẻ luôn phạm tội, nên tôi luôn phải có một
phương dược”[50].
1394. Như
lương thực vật chất dùng để phục hồi sức lực bị tiêu hao, thì bí tích Thánh Thể
cũng tăng sức mạnh cho đức mến của chúng ta, vốn có xu hướng bị suy yếu trong đời
sống hằng ngày; và đức mến sống động này xóa bỏ các tội nhẹ[51]. Khi
tự hiến cho chúng ta, Đức Kitô một lần nữa ban sự sống cho tình yêu của chúng
ta và ban cho chúng ta khả năng phá huỷ những đam mê vô trật tự của chúng ta đối
với các thụ tạo và khả năng gắn bó với Người:
“Vì yêu thương, Đức Kitô đã chết cho chúng ta,
nên mỗi khi tưởng niệm cuộc tử nạn của Người trong Thánh lễ, chúng ta xin Người
ban tình yêu cho chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần ngự đến; chúng ta khiêm tốn khẩn
nguyện rằng, nhờ tình yêu mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, và nhờ ân sủng Chúa
Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận, chúng ta có thể coi thế gian như đã bị
đóng đinh, và chúng ta bị đóng đinh cho thế gian; ... khi đã lãnh nhận hồng ân
tình yêu, chúng ta hãy chết cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa”[52].
1395. Nhờ
tình yêu mà bí tích Thánh Thể đã đốt lên trong chúng ta, bí tích này gìn giữ
chúng ta khỏi các tội trọng trong
tương lai. Chúng ta càng tham dự vào sự sống của Đức Kitô, và càng tiến thêm
trong tình bằng hữu với Người, thì càng khó phạm tội trọng mà cắt đứt sự liên kết
với Người. Bí tích Thánh Thể không được thiết lập để tha các tội trọng. Đó là
chức năng riêng của bí tích Hòa Giải. Bí tích Thánh Thể có chức năng riêng, là
bí tích của những người đang sống trong sự hiệp thông đầy đủ với Hội Thánh.
1396. Sự hợp nhất của Nhiệm Thể: Bí tích Thánh
Thể làm nên Hội Thánh. Những ai đã lãnh nhận
Thánh Thể, đều được kết hợp cách chặt chẽ hơn với Đức Kitô. Nhờ đó, Đức Kitô kết
hợp mọi tín hữu thành một thân thể duy nhất là Hội Thánh. Việc tháp nhập vào Hội
Thánh như vậy, vốn đã được bí tích Rửa Tội thực hiện, nay được việc rước lễ
canh tân, củng cố và làm cho thâm sâu hơn. Trong bí tích Rửa Tội, chúng ta đã
được kêu gọi để làm thành một thân thể duy nhất[53]. Bí
tích Thánh Thể thực hiện lời kêu gọi này: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ
Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư ? Và khi ta cùng bẻ
Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một
tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người,
chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,16-17):
“Nếu anh em là Thân Thể và là các chi thể của Đức
Kitô, thì mầu nhiệm của anh em đang được đặt trên Bàn của Chúa: anh em lãnh nhận
mầu nhiệm của anh em. Anh em đáp Amen (Vâng, đúng như thế) đối với điều anh em
là, và anh em xác nhận bằng câu đáp đó. Anh em nghe: ‘Mình Thánh Chúa Kitô’ và
anh em đáp: ‘Amen’. Vậy hãy là chi thể của Thân Thể Đức Kitô, để lời đáp Amen của anh em là chân thật”[54].
1397. Bí tích Thánh Thể đòi buộc dấn thân cho
người nghèo: Để lãnh nhận trong sự thật Mình và Máu Đức
Kitô bị nộp vì chúng ta, chúng ta phải nhận ra Đức Kitô trong những kẻ nghèo nhất,
là các anh em của Người.[55]
“Bạn nếm Máu Thánh Chúa, vậy mà bạn lại không nhận
ra người anh em; ... Bạn làm hổ thẹn Bàn tiệc này, khi người được coi là xứng
đáng tham dự Ban tiệc này, lại bị bạn coi là không xứng đáng được chia phần ăn
của bạn. Thiên Chúa đã giải thoát bạn khỏi mọi tội lỗi và cho bạn vào bàn tiệc,
vậy mà quả thật bạn đã chẳng nhân hậu hơn chút nào”[56].
1398. Bí tích
Thánh Thể và sự hợp nhất các Kitô hữu. Trước
sự cao cả của mầu nhiệm này, thánh Augustinô đã thốt lên: “Ôi bí tích
tình yêu! Ôi dấu chỉ hợp nhất! Ôi mối dây bác ái!”[57] Người
ta càng đau lòng vì sự chia rẽ trong Hội Thánh vốn làm cho các Kitô hữu không
thể tham dự chung với nhau bàn tiệc của Chúa, thì những lời nguyện dâng lên
Chúa càng khẩn thiết hơn, để những ngày hợp nhất trọn vẹn, của mọi kẻ tin vào
Người, được trở lại.
1399. Các
Giáo Hội Đông phương, dù không hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công giáo, vẫn
cử hành bí tích Thánh Thể với một tình yêu cao cả. “Các Giáo Hội ấy, mặc dù ly
khai, vẫn có các bí tích đích thực, chủ yếu là chức tư tế và bí tích Thánh Thể,
nhờ sự kế nhiệm các Tông Đồ, nên vẫn liên kết rất chặt chẽ với chúng ta”[58]. Vì
vậy, “một hiệp thông nào đó trong các sự thánh, trong những trường hợp thuận lợi và với sự chấp
thuận của giáo quyền, không những là có thể, mà còn được khuyến khích”[59].
1400. Các Cộng
đoàn Giáo hội phát sinh từ cuộc Cải Cách, đã ly khai khỏi Hội Thánh Công Giáo,
“đặc biệt là vì thiếu bí tích Truyền Chức Thánh, nên không còn giữ được bản chất
đích thực và nguyên vẹn của mầu nhiệm Thánh Thể”[60]. Vì
vậy, đối với Hội Thánh Công Giáo, việc rước lễ chung với những Cộng đoàn này là
không thể được. Nhưng khi các cộng đoàn này “tưởng niệm sự chết và sự sống lại
của Chúa trong Tiệc Thánh, họ tuyên xưng rằng sự sống chỉ có nghĩa trong sự hiệp
thông với Đức Kitô và họ mong đợi ngày trở lại vinh quang của Người”[61].
1401. Khi
có nhu cầu khẩn cấp, theo phán đoán của Đấng Bản Quyền địa phương, các thừa tác
viên Công giáo được phép ban các bí tích (Thánh Thể, Hòa Giải, Xức Dầu bệnh
nhân) cho các Kitô hữu không hiệp thông trọn vẹn với Hội Thánh Công Giáo, nhưng
họ phải tự ý xin lãnh nhận các bí tích đó: lúc đó, họ phải tuyên xưng đức tin
công giáo về các bí tích này và có sự chuẩn bị đầy đủ[62].
2837. “Hằng ngày”. Tân
Ước không sử dụng từ “hằng ngày” (épiousios)
ở chỗ nào khác. Theo nghĩa thời gian, từ này là sự lặp lại từ “hôm nay” theo kiểu
sư phạm[63], để
dạy chúng ta phó thác cách triệt để. Theo nghĩa phẩm chất, từ này có nghĩa là
điều cần thiết cho sự sống và, hiểu rộng hơn, mọi điều thiện hảo đủ để tồn tại[64].
Theo nghĩa văn tự (épi-ousios:
“super-substantiale”, vượt trên điều cốt thiết), từ này trực tiếp nói đến Bánh
trường sinh, là Mình Thánh Chúa Kitô, “phương dược trường sinh”[65], mà
nếu không có lương thực này, chúng ta sẽ không có sự sống nơi mình[66]. Sau
cùng, kết hợp với điều đã nói trên, ý nghĩa thiên quốc là rõ ràng: “ngày” là
ngày của Chúa, ngày của Bàn tiệc Nước Trời, mà bí tích Thánh Thể là một sự tham
dự trước, như nếm trước Nước Trời đang đến. Chính vì vậy, phụng vụ Thánh Thể phải
được cử hành “hằng ngày”.
“Vậy Thánh Thể là lương thực hằng ngày của chúng
ta…. Đặc tính của lương thực thần thiêng này là sự hợp nhất, để một khi được kết
hợp trong Mình Thánh Người, trở nên các chi thể của Người, chúng ta trở thành
điều chúng ta lãnh nhận…. Và lương thực hằng ngày là khi anh em nghe các bài đọc
mỗi ngày ở nhà thờ; lương thực hằng ngày là khi anh em nghe và hát các thánh
thi. Bởi vì những điều đó là cần thiết cho cuộc lữ hành của chúng ta”[67].
“Cha trên trời thúc giục chúng ta là, với tư
cách là con cái bởi trời, chúng ta hãy cầu xin Bánh bởi trời[68]. Đức
Kitô ‘chính Người là tấm bánh được gieo trồng trong lòng Đức Trinh Nữ, dậy men
trong xác phàm, làm thành bánh trong cuộc khổ nạn, nấu nương trong lò huyệt mộ,
lưu giữ trong các nhà thờ, được dâng lên trên các bàn thờ, hằng ngày cung cấp
lương thực bởi trời cho các tín hữu’”[69].
Số 1402-1405:
Bí tích Thánh Thể như là bảo chứng vinh quang
1402. Trong
một kinh nguyện cổ xưa, Hội Thánh tung hô mầu nhiệm Thánh Thể như sau: “Ôi Tiệc
Thánh, trong đó Đức Kitô được rước lấy làm lương thực, việc tưởng niệm cuộc khổ
nạn của Người được nhắc lại, tâm trí được tràn đầy ân sủng, và bảo chứng cho
vinh quang mai sau được ban cho chúng ta”[70]. Nếu
bí tích Thánh Thể là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa, nếu nhờ việc rước
lễ tại bàn thờ mà chúng ta được “tràn đầy ân phúc bởi trời”[71], thì
bí tích Thánh Thể cũng là sự tham dự trước vào vinh quang thiên quốc.
1403. Trong
bữa Tiệc ly, chính Chúa hướng các môn đệ Người đến sự hoàn tất lễ Vượt Qua
trong Nước Thiên Chúa: “Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không còn uống
thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới
trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26,29)[72]. Mỗi
lần cử hành bí tích Thánh Thể, Hội Thánh nhớ lại lời hứa này và hướng trông “Đấng
đang đến” (Kh 1,4). Trong kinh nguyện, Hội Thánh kêu cầu Người ngự đến: “Marana tha” (1 Cr 16,22), “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến”
(Kh 22,20), “Ước gì ân sủng của Ngài đến và trần gian này qua đi”[73].
1404. Hội
Thánh biết rằng giờ đây Chúa đã đến trong bí tích Thánh Thể của Người, và Người
ở đó giữa chúng ta. Tuy nhiên, sự hiện diện này còn bị che phủ. Chính vì vậy,
chúng ta cử hành bí tích Thánh Thể “đang khi chúng con mong đợi niềm hy vọng hồng
phúc và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con”[74],
trong khi chúng ta khẩn nguyện được “cùng nhau tận hưởng vinh quang Cha muôn đời,
khi Cha lau sạch nước mắt chúng con, vì khi được thấy tường tận Cha là Thiên
Chúa chúng con, thì muôn đời chúng con sẽ trở nên giống Cha và sẽ ca ngợi Cha
khôn cùng”[75].
1405. Về niềm
hy vọng lớn lao này, niềm hy vọng về trời mới đất mới, nơi công lý lưu ngụ cách
chắc chắn[76],
chúng ta không có bảo chứng nào vững chắc hơn và dấu chỉ nào được biểu lộ rõ
ràng hơn, là bí tích Thánh Thể. Thật vậy, mỗi khi mầu nhiệm này được cử hành,
thì “công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện”[77] và
“chúng ta bẻ cùng một tấm bánh, là phương dược trường sinh bất tử, và của ăn để
chúng ta không chết, nhưng đem lại sự sống muôn đời trong Chúa Giêsu Kitô”[78].
Số 611, 1366:
Thiết lập chức tư tế trong bữa Tiệc Ly
611. Bí
tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã thiết lập lúc đó, sẽ là “việc tưởng niệm”[79] hy
tế của Người. Người bao gồm các Tông Đồ vào sự dâng hiến chính mình Người và dạy
họ lưu truyền việc dâng hiến này mãi mãi[80]. Như
vậy, Chúa Giêsu đã đặt các Tông Đồ của Người làm tư tế của Giao Ước Mới: “Vì họ,
con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga
17,19)[81].
1366. Vì vậy,
bí tích Thánh Thể là một Hy tế bởi vì bí tích này làm cho Hy tế thập giá hiện diện, bởi vì bí tích này là việc tưởng
niệm Hy tế đó, và bởi vì
bí tích này áp dụng hiệu
quả của Hy tế đó:
Đức Kitô “là Thiên Chúa và Chúa chúng ta, … đã tự
hiến cho Chúa Cha bằng cái chết trên bàn thờ thập giá một lần cho mãi mãi, để
thực hiện ơn cứu chuộc muôn đời cho loài người. Tuy nhiên, bởi vì cái chết của
Người không chấm dứt chức tư tế của Người [Dt 7,24.27], nên trong bữa Tiệc Ly,
‘trong đêm bị nộp’ [1 Cr 11,23], … Người đã để lại cho Hiền Thê yêu dấu của Người
là Hội Thánh một hy tế hữu hình (như bản tính con người đòi hỏi); trong hy tế hữu
hình này, hy tế đẫm máu được thực hiện một lần duy nhất trên thập giá được hiện
diện, và việc tưởng niệm hy tế đẫm máu đó sẽ còn mãi cho đến ngày tận thế, và sức
mạnh cứu độ của hy tế đó sẽ được áp dụng để tha thứ các tội lỗi chúng ta phạm hằng
ngày”[82].
Bài Ðọc I: Xh
12, 1-8. 11-14
"Những
chỉ thị về bữa Tiệc Vượt qua".
Bài trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa
phán cùng Môsê và Aaron ở đất Ai-cập rằng: Tháng này các ngươi phải kể là tháng
đầu năm, tháng thứ nhất. Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Israel rằng:
"Mùng mười tháng này, ai nấy phải bắt một chiên con, mỗi gia đình, mỗi nhà
một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con chiên, thì phải mời người láng
giềng đến nhà cho đủ số người để ăn một con chiên. Chiên đó không được có tật
gì, phải là chiên đực, được một năm. Có bắt dê con cũng phải làm như thế. Vậy
phải để dành cho đến ngày mười bốn tháng này, rồi vào lúc chập tối, toàn thể cộng
đồng con cái Israel sẽ giết nó, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt
chiên. Ðêm ấy sẽ ăn thịt nướng với bánh không men và rau đắng. Phải ăn như thế
này: Phải thắt lưng, chân đi dép, tay cầm gậy và ăn vội vã: vì đó là ngày Vượt
Qua của Chúa. Ðêm ấy Ta sẽ đi qua xứ Ai-cập, sẽ giết các con đầu lòng trong xứ
Ai-cập, từ loài người cho đến súc vật, và Ta sẽ trừng phạt chư thần xứ Ai-cập:
vì Ta là Chúa. Máu bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ là dấu hiệu; và khi thấy máu,
Ta sẽ đi qua mà tha cho các ngươi, và các ngươi sẽ không bị tai ương tác hại
khi Ta giáng hoạ trên xứ Ai-cập. Các ngươi hãy ghi nhớ ngày ấy, làm lễ tưởng niệm,
và phải mừng ngày đó trọng thể kính Thiên Chúa. Các ngươi sẽ lập lễ này để mừng
vĩnh viễn muôn đời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp
Ca:
Ðáp: Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa
Kitô.
Xướng: 1) Tôi lấy gì dâng lại
cho Chúa để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi? Tôi sẽ lãnh chén cứu độ,
và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa.
Ðáp: Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa
Kitô.
2) Trước mặt Chúa, thật là
quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. Con là tôi tớ Ngài, con trai của
nữ tỳ Ngài, Ngài đã bẻ gãy xiềng xích cho con.
Ðáp: Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa
Kitô.
3) Con sẽ hiến dâng Chúa lời
ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Con sẽ giữ trọn lời khấn xin
cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài.
Ðáp: Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa
Kitô.
Bài Ðọc II: 1 Cr 11, 23-26
"Mỗi
khi anh em ăn và uống, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết".
Bài trích thư thứ nhất của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, phần tôi,
tôi đã lãnh nhận nơi Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho anh em, là Chúa Giêsu
trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: "Các con hãy
lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con: Các con hãy làm việc này
mà nhớ đến Ta. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, và
phán: "Chén này là Tân ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy
làm việc này mà nhớ đến Ta". Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này,
anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến".
Ðó là lời Chúa.
Câu
Xướng Trước Phúc Âm:
Chúa phán: "Thầy ban cho
các con một giới răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu
thương các con".
Phúc Âm: Ga 13, 1-15
"Ngài
yêu thương họ đến cùng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa
Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu
thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến
cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp
Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người
bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy
khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy
khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng:
"Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?" Chúa Giêsu đáp: "Việc
Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu". Phêrô thưa lại:
"Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con". Chúa Giêsu bảo: "Nếu
Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy". Phêrô liền
thưa: "Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa".
Chúa Giêsu nói: "Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy
các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu". Vì Người biết ai sẽ nộp
Người nên mới nói: "Không phải tất cả các con đều sạch đâu".
Sau khi đã rửa chân cho các
ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: "Các con có hiểu
biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì
phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa
chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương
cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con".
Ðó là lời Chúa.
[1] X. Ga 13,1-17.
[2] X. CĐ Triđentinô, Sess. 22a, Doctrina de
ss. Missae Sacrificio, c.
1: DS 1740.
[3] X. Ga 6.
[4] X. Mt 26,17-29; Mc 14,12-25; 1 Cr 11,23-25.
[5] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 1 : AAS 58 (1966) 947.
[6] X. Mt 16,20.
[7] X. 1 Cr 5,7.
[8] X. Xh 13,3.
[9] X. Dt 7, 25-27.
[10] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 3: AAS 57 (1965)
6.
[11] CĐ Triđentinô, Sess. 22a, Doctrina de
ss. Missae sacrificio, c.1: DS
1740.
[12] CĐ Triđentinô, Sess. 22a, Doctrina de
ss. Missae sacrificio, c. 2: DS
1743.
[13] Ibid.
[14] Thánh Ignatiô Antiôchia, Epistula ad
Smyrnaeos, 8, 1: SC 10bis,
138 (Funk 1, 282).
[15] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Presbyterorum
Ordinis, 2: AAS 58 (1966) 993.
[16] CĐ Triđentinô, Sess. 22a, Doctrina de
ss. Missae sacrificio, c. 2: DS
1743.
[17] Thánh Augustinô, Confessiones,
9, 11, 27 : CCL 27, 149
(PL 32, 775); lời thánh nữ Mônica, trước khi chết, trối cho anh em thánh
Augustinô.
[18] Thánh Cyrillô Giêrusalem, Catecheses
mystagogicae, 5, 9-10: SC 126,
158-160 (PG 30, 1116-1117).
[19] Thánh Augustinô, De civitate
Dei, 10,6: CSEL 40/1, 456
(PL 41, 284).
[20] X. CĐ Triđentinô, Sess. 13a, Decretum de
ss. Eucharistia, c. 2: DS 1638.
[21] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 48: AAS 57 (1965)
53.
[22] X. Mt 25,31-46.
[23] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum
Concilium, 7: AAS 56
(1964) 100-101.
[24] Thánh Tôma Aquinô, Summa
theologiae, III, q. 73, a.
3, c: Ed. Leon. 12, 140.
[25] X. CĐ Triđentinô, Sess. 13a, Decretum de
ss. Eucharistia, c. 1: DS
1651.
[26] ĐGH Phaolô VI, Thông điệp Mysterium
Fidei, 39: AAS 57 (1965)
764.
[27] Thánh Gioan Kim Khẩu, De
proditione Iudae homilia, 1,
6: PG 49, 380.
[28] Thánh Ambrôsiô, De
mysteriis, 9, 50: CSEL 73,
110 (PL 16, 405).
[29] Ibid., 9,
52: CSEL 73, 112 (PL 16, 407).
[30] CĐ Triđentinô, Sess. 13a, Decretum de
ss. Eucharistia, c. 4: DS
1642.
[31] X. CĐ Triđentinô, Sess. 13a, Decretum de
ss. Eucharistia, c. 3: DS
1641.
[32] ĐGH Phaolô VI, Thông điệp Mysterium
Fidei, 56: AAS 57 (1965)
769.
[33] X. Gl 2,20.
[34] ĐGH Gioan Phaolô II, Thư Dominicae
Cenae, 3: AAS 72 (1980)
119; x. Enchiridion
Vaticanum, 7, 177.
[35] ĐGH Phaolô VI, Thông điệp Mysterium
Fidei, 18: AAS 57 (1965)
757; x. Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, III, q. 75, a. 1, c: Ed. Leon. 12, 156;
Thánh Cyrillô Alexandria, Commentarius in Lucam, 22,19: PG 72, 912.
[36] AHMA 50, 589.
[37] X. Mt 8,8.
[38] Nghi thức Hiệp lễ, 133: Sách Lễ Rôma,
editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 474.
[39] Liturgia Byzantina. Anaphora Iohannis Chrysostomi, Prex ante Communionem: F.E. Brightman, Liturgies
Eastern and Western (Oxford
1896) 394 (PG 63, 920).
[40] X. Bộ Giáo Luật, điều 919.
[41] X. Bộ Giáo Luật, các điều 916-917: AAS 75 (1983 II) 165-166.
[42] Trong cùng một ngày, các tín hữu có thể rước
lễ hai lần, và chỉ hai lần mà thôi: Pontificia Commissio Codici Iuris Canonici
authentice interpretando, Responsa ad proposita dubia, 1 : AAS 76 (1984), 746.
[43] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum
Concilium, 55: AAS 56
(1964) 115.
[44] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Orientalium
Ecclesiarum, 15: AAS 57
(1965) 81.
[45] X. Bộ Giáo Luật, điều 920.
[46] Quy chế tổng quát Sách Lễ Rôma, 240: Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970)
68.
[47] Fanqýth, Breviarium iuxta ritum Ecclesiae
Antiochenae Syrorum, v. 1
(Mossul 1886) 237a-b.
[48] X. CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Presbyterorum
ordinis, 5: AAS 58 (1966)
997.
[49] X. 1 Cr 11,26.
[50] Thánh Ambrôsiô, De
sacramentis, 4, 28: CSEL
73, 57-58 (PL 16, 446).
[51] X. CĐ Triđentinô, Sess. 13a, Decretum de
ss. Eucharistia, c. 2: DS
1638.
[52] Thánh Fulgentiô Ruspensê, Contra
gesta Fabiani, 28, 17: CCL
19A, 813-814 (PL 65, 789).
[53] X. 1 Cr 12,13.
[54] Thánh Augustinô, Sermo 272: PL 38, 1247.
[55] X. Mt 25,40.
[56] Thánh Gioan Kim Khẩu, In
epistulam I ad Corinthios, homilia 27,
5: PG 61, 230.
[57] Thánh Augustinô, In Iohannis
evangelium tractatus, 26,
13: CCL 36, 266 (PL 35, 1613); x. CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum
Concilium, 47: AAS 56
(1964) 113.
[58] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis
redintegratio, 15 :
AAS 57 (1965) 102.
[59] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis
redintegratio, 15: AAS 57
(1965) 102; x. Bộ Giáo Luật, điều 844,3.
[60] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis
redintegratio, 22: AAS 57
(1965) 106.
[61] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis
redintegratio, 22: AAS 57
(1965) 106.
[62] X. Bộ Giáo Luật, điều 844,4.
[63] X. Xh 16,19-21.
[64] X. 1 Tm 6,8.
[65] Thánh Ignatiô Antiôchia, Epistula ad
Ephesios, 20, 2: SC 10bis,
76 (Funk 1, 230).
[66] X. Ga 6,53-56.
[67] Thánh Augustinô, Sermo 57, 7, 7: PL 38, 389-390.
[68] X. Ga 6,51.
[69] Thánh Phêrô Kim Ngôn, Sermo 67, 7: CCL 24A, 404-405 (PL 52, 402).
[70] Lễ Trọng kính Mình và Máu thánh Chúa Kitô, Điệp ca kinh “Magnificat” Kinh Chiều II: Các Giờ
Kinh Phụng Vụ, editio
typica, v. 3 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 502.
[71] Kinh nguyện Thánh Thể I hay Lễ Quy Rôma, 96: Sách Lễ Rôma,
editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 453.
[72] X. Lc 22,18; Mc 14,25.
[73] Didaché, 10,
6: SC 248, 180 (Funk, Patres apostolici, 1, 24).
[74] Nghi thức Hiệp lễ, 126 [Lời nguyện sau kinh Lạy Cha]: Sách Lễ
Rôma, editio typica (Typis
Polyglottis Vaticanis 1970) 472; x. Tt 2,13.
[75] Kinh nguyện Thánh Thể III, 116: Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970)
465.
[76] X. 2 Pr 3,13.
[77] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 3: AAS 57 (1965)
6.
[78] Thánh Ignatiô Antiôchia, Epistula ad
Ephesios, 20, 2: SC 10bis,
76 (Funk 1, 230).
[79] X. 1 Cr 11,25.
[80] X. Lc 22,19.
[81] X. CĐ Triđentinô, Sess. 22a, Doctrina de
sanctissimo Missae Sacrificio,
c. 2: DS 1752; Sess. 23a, Doctrina de sacramento Ordinis, c.1: DS 1764.
[82] CĐ Triđentinô, Sess. 22a, Doctrina de
ss. Missae sacrificio, c.1: DS
1740.