Giáo lý cho Bài giảng Lễ Tiệc Ly - Thứ Năm Tuần Thánh
GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG
LỄ TIỆC LY - THỨ NĂM TUẦN THÁNH
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các
Bí tích)
WHĐ (05.4.2023) - Để
hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm
giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo
sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được công bố qua Sắc lệnh ký ngày
29.06.2014.
LỜI CHÚA
Bài Ðọc I: Xh 12, 1-8. 11-14
"Những chỉ thị về bữa Tiệc Vượt qua".
Bài trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê và
Aaron ở đất Ai-cập rằng: Tháng này các ngươi phải kể là tháng đầu năm, tháng thứ
nhất. Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Israel rằng: "Mùng mười tháng
này, ai nấy phải bắt một chiên con, mỗi gia đình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít
người, không ăn hết một con chiên, thì phải mời người láng giềng đến nhà cho đủ
số người để ăn một con chiên. Chiên đó không được có tật gì, phải là chiên đực,
được một năm. Có bắt dê con cũng phải làm như thế. Vậy phải để dành cho đến
ngày mười bốn tháng này, rồi vào lúc chập tối, toàn thể cộng đồng con cái
Israel sẽ giết nó, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Ðêm ấy
sẽ ăn thịt nướng với bánh không men và rau đắng. Phải ăn như thế này: Phải thắt
lưng, chân đi dép, tay cầm gậy và ăn vội vã: vì đó là ngày Vượt Qua của Chúa.
Ðêm ấy Ta sẽ đi qua xứ Ai-cập, sẽ giết các con đầu lòng trong xứ Ai-cập, từ
loài người cho đến súc vật, và Ta sẽ trừng phạt chư thần xứ Ai-cập: vì Ta là
Chúa. Máu bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ là dấu hiệu; và khi thấy máu, Ta sẽ đi
qua mà tha cho các ngươi, và các ngươi sẽ không bị tai ương tác hại khi Ta
giáng hoạ trên xứ Ai-cập. Các ngươi hãy ghi nhớ ngày ấy, làm lễ tưởng niệm, và
phải mừng ngày đó trọng thể kính Thiên Chúa. Các ngươi sẽ lập lễ này để mừng
vĩnh viễn muôn đời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca:
Ðáp: Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa
Kitô.
Xướng: 1) Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa để đền
đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi? Tôi sẽ lãnh chén cứu độ, và tôi sẽ kêu cầu
danh Chúa.
Ðáp: Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa
Kitô.
2) Trước mặt Chúa, thật là quý hoá cái chết của
những bậc thánh nhân Ngài. Con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài, Ngài đã
bẻ gãy xiềng xích cho con.
Ðáp: Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa
Kitô.
3) Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ,
và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt
toàn thể dân Ngài.
Ðáp: Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa
Kitô.
Bài Ðọc II: 1 Cr 11, 23-26
"Mỗi khi anh em ăn và uống, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết".
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ
gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, phần tôi, tôi đã lãnh nhận nơi
Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho anh em, là Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người
cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: "Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là
Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Cùng một
thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, và phán: "Chén này là Tân
ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến
Ta". Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc
Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến".
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm:
Chúa phán: "Thầy ban cho các con một giới
răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con".
Phúc Âm: Ga 13, 1-15
"Ngài yêu thương họ đến cùng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến
giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ
thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối,
ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng
Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến
và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ
nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.
Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy định
rửa chân cho con ư?" Chúa Giêsu đáp: "Việc Thầy làm bây giờ con chưa
hiểu, nhưng sau sẽ hiểu". Phêrô thưa lại: "Không đời nào Thầy sẽ rửa
chân cho con". Chúa Giêsu bảo: "Nếu Thầy không rửa chân cho con, con
sẽ không được dự phần với Thầy". Phêrô liền thưa: "Vậy xin Thầy hãy rửa
không những chân con, mà cả tay và đầu nữa". Chúa Giêsu nói: "Kẻ mới
tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không
phải hết thảy đâu". Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: "Không
phải tất cả các con đều sạch đâu".
Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại,
và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: "Các con có hiểu biết việc Thầy vừa
làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng
thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con,
thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để
các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con".
Ðó là lời Chúa.
GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
Số 1337-1344: Việc thiết lập bí tích Thánh Thể
1337. Khi yêu thương những kẻ thuộc về mình, Chúa đã yêu họ đến cùng. Khi biết
đã đến Giờ lìa bỏ thế gian mà về cùng Cha mình, trong một bữa tiệc, Người đã rửa
chân cho họ và ban cho họ giới luật yêu thương[1].
Để lưu lại cho họ bảo chứng của tình yêu này, để không bao giờ lìa xa những kẻ
thuộc về mình, và để họ được tham dự vào cuộc Vượt Qua của Người, Người đã thiết
lập bí tích Thánh Thể, với tính cách một việc để nhớ đến cái Chết và sự Sống lại
của Người, và Người truyền cho các Tông Đồ Người, “những vị Người đặt làm tư tế
của Giao Ước Mới”[2] phải cử hành bí tích này cho
tới khi Người lại đến.
1338. Ba Tin Mừng Nhất Lãm và thánh Phaolô lưu truyền cho chúng ta bản tường
thuật việc thiết lập bí tích Thánh Thể; về phần mình, thánh Gioan thuật lại những
lời của Chúa Giêsu tại hội đường Capharnaum, những lời đó thật sự chuẩn bị cho
việc thiết lập bí tích Thánh Thể: chính Đức Kitô tự xưng mình là Bánh Hằng Sống,
từ trời xuống[3].
1339. Chúa Giêsu chọn thời gian mừng lễ Vượt Qua để thực hiện điều Người đã
báo trước ở Capharnaum: Người ban Mình và Máu Người cho các môn đệ của Người:
“Đã đến
ngày lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua. Chúa Giêsu sai ông
Phêrô với ông Gioan đi và dặn: ‘Các anh hãy đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt
Qua’. … Các ông ra đi ... và dọn tiệc Vượt Qua. Khi giờ đã đến, Chúa Giêsu vào
bàn cùng với các Tông Đồ. Người nói với các ông: ‘Thầy những khát khao mong mỏi
ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình. Bởi vì, Thầy nói cho anh
em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được
nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa’.... Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn,
bẻ ra, trao cho các ông và nói: ‘Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em
hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy’. Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người
cũng làm như vậy và nói: ‘Chén này là giao ước mới, lập bằng Máu Thầy, máu đổ
ra vì anh em’” (Lc 22,7-20)[4].
1340. Khi cử hành bữa Tiệc Ly với các Tông Đồ của Người trong khung cảnh bữa
tiệc Vượt Qua, Chúa Giêsu đã ban cho lễ Vượt Qua của người Do Thái một ý nghĩa
dứt khoát. Quả thật, cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu để về cùng Cha Người, qua cái
Chết và sự Sống lại, thật sự là cuộc Vượt Qua mới, được tham dự trước trong bữa
Tiệc Ly và được cử hành trong bí tích Thánh Thể, cuộc Vượt Qua đó hoàn thành lễ
Vượt Qua của người Do Thái và tham dự trước vào lễ Vượt Qua chung cuộc của Hội
Thánh trong vinh quang Nước Thiên Chúa.
“Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”
1341. Mệnh lệnh Chúa Giêsu truyền phải lặp lại những cử chỉ và lời nói của
Người “cho tới khi Chúa đến” (1 Cr 11,26), không chỉ đòi hỏi phải nhớ đến Chúa
Giêsu và những gì Người đã làm. Mệnh lệnh này nhắm đến việc cử hành phụng vụ,
do các Tông Đồ và những người kế nhiệm các ngài, để tưởng niệm Đức Kitô, tưởng niệm cuộc đời của Người, cái Chết và sự
Sống lại của Người, và việc chuyển cầu của Người bên Chúa Cha.
1342. Ngay từ đầu, Hội Thánh đã trung thành tuân giữ mệnh lệnh này của Chúa.
Về Hội Thánh tại Giêrusalem có bài tường thuật như sau:
“Các tín hữu
chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng
năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng.... Họ đồng tâm nhất trí,
ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với
lòng đơn sơ vui vẻ” (Cv 2,42.46).
1343. Đặc biệt vào “ngày thứ nhất trong tuần”, nghĩa là ngày Chúa Nhật, ngày
Chúa Giêsu phục sinh, các Kitô hữu tụ họp để “bẻ bánh” (Cv 20,7). Từ đó đến
nay, việc cử hành bí tích Thánh Thể tiếp tục tồn tại y như vậy, đến độ ngày nay
chúng ta vẫn gặp được việc cử hành đó, ở bất cứ đâu trong Hội Thánh, với cùng một
cấu trúc căn bản. Bí tích Thánh Thể vẫn mãi mãi là trung tâm của đời sống Hội
Thánh.
1344. Như vậy, từ cử hành này sang cử hành khác để loan báo mầu nhiệm Vượt Qua
của Chúa Giêsu, “cho tới khi Chúa đến” (1 Cr 11,26), dân Thiên Chúa trên đường
lữ hành, “qua đường hẹp của thập giá”[5],
đang tiến về bàn tiệc thiên quốc, nơi tất cả mọi người được tuyển chọn sẽ ngồi
vào bàn tiệc của Nước Thiên Chúa.
Số 1359-1361: Bí tích Thánh Thể với tính chất là việc tạ ơn và ca ngợi
Chúa Cha
1359. Thánh Thể, là bí tích của ơn cứu độ được Đức Kitô thực hiện trên thập giá,
cũng là hy tế ca ngợi để tạ ơn vì công trình tạo dựng. Trong hy tế Thánh Thể,
toàn bộ công trình tạo dựng được Thiên Chúa yêu thương được trình lên Chúa Cha
qua cái Chết và sự Sống lại của Đức Kitô. Nhờ Đức Kitô, Hội Thánh có thể dâng
hy tế ca ngợi để tạ ơn vì tất cả những gì là tốt, là đẹp, là đúng mà Thiên Chúa
đã thực hiện trong công trình tạo dựng và trong nhân loại.
1360. Bí tích Thánh Thể là hy tế để tạ ơn Chúa Cha, là lời chúc tụng qua đó Hội
Thánh diễn tả lòng tri ân của mình đối với Thiên Chúa vì mọi điều Ngài ban, vì
mọi điều Ngài đã thực hiện trong công trình tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa.
Bí tích Thánh Thể trước hết có nghĩa là tạ ơn.
1361. Bí tích Thánh Thể cũng là hy tế ca ngợi, qua đó Hội Thánh nhân danh
toàn thể thụ tạo ca tụng vinh quang Thiên Chúa. Hy tế ca ngợi này chỉ có thể được
thực hiện nhờ Đức Kitô: Người kết hợp các tín hữu vào bản thân Người, vào lời
ca ngợi của Người, vào sự chuyển cầu của Người, và như vậy hy tế ca ngợi được
dâng lên Chúa Cha nhờ Đức Kitô, với Người, để được chấp nhận trong Người.
Số 610, 1362-1372, 1382, 1436: Bí tích Thánh Thể với tính chất là hy tế
610. Chúa Giêsu đã diễn tả cách hết sức rõ ràng việc Người tự nguyện dâng hiến
chính mình trong bữa tiệc Người ăn với mười hai Tông Đồ[6]
“trong đêm bị nộp” (1 Cr 11,23). Hôm trước ngày chịu nạn, khi còn hoàn toàn tự
do, Chúa Giêsu đã biến bữa Tiệc cuối cùng với các Tông Đồ của Người thành lễ tưởng
niệm việc Người tự nguyện dâng hiến chính mình cho Chúa Cha[7]
để cứu độ nhân loại: “Đây là Mình Thầy, bị
nộp vì anh em” (Lc 22,19). “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt
26,28).
1362. Bí tích Thánh Thể là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, là hiện
tại hoá hy tế duy nhất của Người, và dâng hy tế duy nhất đó cách bí tích, trong
phụng vụ của Hội Thánh là Thân Thể Người. Trong tất cả các Kinh nguyện Thánh Thể,
chúng ta đều thấy, sau các lời tường thuật về việc Chúa thiết lập Thánh Thể, một
kinh nguyện được gọi là kinh Tưởng Niệm (anamnesis
hoặc memoriale).
1363. Theo ý nghĩa của Thánh Kinh, tưởng
niệm không chỉ là nhớ lại những biến cố của quá khứ, nhưng còn là công bố
các kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện cho loài người[8].
Khi cử hành phụng vụ về các biến cố này, chúng hiện diện và được hiện tại hoá một
cách nào đó. Dân Israel hiểu về việc mình được giải thoát khỏi Ai Cập theo cách
như vậy: Mỗi lần lễ Vượt Qua được cử hành, các biến cố thời Xuất Hành lại hiện
diện trong ký ức của các tín hữu, để họ điều chỉnh cuộc sống của mình cho phù hợp
với các biến cố đó.
1364. Việc tưởng niệm trong Giao Ước mới mang một ý nghĩa mới. Khi cử hành bí
tích Thánh Thể, Hội Thánh tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, thì cuộc Vượt
Qua này trở nên hiện diện: Hy tế mà Đức Kitô dâng lên một lần cho mãi mãi trên
thập giá, luôn luôn được hiện tại hoá[9].
“Mỗi lần hy tế thập giá, qua đó ‘Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua
của chúng ta’ (1 Cr 5,7), được cử hành trên bàn thờ, thì công trình cứu chuộc
chúng ta được thực hiện”[10].
1365. Bởi vì là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, nên bí tích Thánh Thể cũng là một hy tế.
Tính chất hy tế của bí tích Thánh Thể được biểu lộ trong chính các lời thiết lập
bí tích này: “Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em”. “Chén này là giao ước mới,
lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,19-20). Trong bí tích Thánh Thể,
Đức Kitô ban chính thân mình đã bị nộp vì chúng ta trên thập giá, ban chính máu
mà Người đã đổ ra “cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).
1366. Vì vậy, bí tích Thánh Thể là một Hy tế bởi vì bí tích này làm cho Hy tế thập giá hiện diện, bởi vì bí tích này là việc tưởng niệm Hy tế đó, và bởi vì bí
tích này áp dụng hiệu quả của Hy tế
đó:
Đức Kitô
“là Thiên Chúa và Chúa chúng ta, … đã tự hiến cho Chúa Cha bằng cái chết trên
bàn thờ thập giá một lần cho mãi mãi, để thực hiện ơn cứu chuộc muôn đời cho
loài người. Tuy nhiên, bởi vì cái chết của Người không chấm dứt chức tư tế của
Người [Dt 7,24.27], nên trong bữa Tiệc Ly, ‘trong đêm bị nộp’ [1 Cr 11,23], …
Người đã để lại cho Hiền Thê yêu dấu của Người là Hội Thánh một hy tế hữu hình
(như bản tính con người đòi hỏi); trong hy tế hữu hình này, hy tế đẫm máu được
thực hiện một lần duy nhất trên thập giá được hiện diện, và việc tưởng niệm hy
tế đẫm máu đó sẽ còn mãi cho đến ngày tận thế, và sức mạnh cứu độ của hy tế đó
sẽ được áp dụng để tha thứ các tội lỗi chúng ta phạm hằng ngày”[11].
1367. Hy tế của Đức Kitô và hy tế Thánh Thể là một hy tế duy nhất. “Cũng cùng một hiến vật, cũng cùng một Đấng xưa
đã tự hiến trên thập giá, nay cũng chính Người dâng lên qua thừa tác vụ tư tế,
chỉ khác biệt về cách tiến dâng”[12]: “Vì trong hy tế thần linh
được thực hiện trong thánh lễ, cũng chính Đức Kitô Đấng đã tự hiến một lần bằng
cách đổ máu trên bàn thờ thập giá, nay được hiến dâng và sát tế một cách không
đổ máu, nên hy tế này thật sự có giá trị đền tội”[13].
1368. Bí tích Thánh Thể cũng là hy tế của
Hội Thánh. Hội Thánh, là Thân Thể của Đức Kitô, tham dự vào lễ tế của Đấng
là Đầu của mình. Cùng với Người, toàn thể Hội Thánh được dâng lên. Hội Thánh kết
hợp mình với việc chuyển cầu của Người bên Chúa Cha, để cầu cho tất cả mọi người.
Trong bí tích Thánh Thể, hy tế của Đức Kitô cũng trở thành hy tế của các chi thể
trong Thân Thể Người. Đời sống của các tín hữu, lời ca ngợi, sự đau khổ, lời cầu
nguyện, việc lao động của họ, được kết hợp với cùng những khía cạnh đó trong đời
sống của Đức Kitô và với toàn bộ lễ tế của Người, và như vậy chúng có một giá
trị mới. Hy tế của Đức Kitô hiện diện trên bàn thờ đem lại cho mọi thế hệ Kitô
hữu khả năng được kết hợp với lễ tế của Người.
Trong các hang toại đạo, Hội Thánh thường được
diễn tả như một người nữ đang cầu nguyện, hai tay giang ra trong cử chỉ cầu
nguyện. Như Đức Kitô giang tay trên thập giá, thì nhờ Người, với Người và trong
Người, Hội Thánh dâng chính mình và chuyển cầu cho tất cả mọi người.
1369. Toàn thể Hội Thánh được kết hợp với
lễ tế và lời chuyển cầu của Đức Kitô. Đảm nhận thừa tác vụ của thánh Phêrô
trong Hội Thánh, Đức Giáo Hoàng được
liên kết với mọi cử hành Thánh lễ, trong đó, ngài được nhắc đến với tư cách là
dấu chỉ và thừa tác viên của sự hợp nhất của Hội Thánh toàn cầu. Giám mục địa phương luôn có trách nhiệm
về Thánh lễ, cả khi một linh mục cử
hành; tên ngài được đọc lên trong Thánh lễ để nói lên rằng ngài đứng đầu Giáo Hội
địa phương, giữa hàng linh mục và với sự trợ giúp của các phó tế. Cộng đoàn cũng chuyển cầu cho tất cả các thừa tác viên đang
dâng lễ cho cộng đoàn và cùng với cộng đoàn:
“Bí tích
Thánh Thể chỉ được coi là thành sự khi được cử hành dưới sự chủ tọa của Giám mục
hay của người được ngài giao trách nhiệm”[14].
“Qua thừa
tác vụ của các linh mục, hy tế thiêng liêng của các tín hữu được hoàn tất trong
sự kết hợp với hy tế của Đức Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất, hy tế này nhờ tay
các linh mục, nhân danh toàn thể Hội Thánh, được dâng lên trong thánh lễ một
cách bí tích và không đổ máu, cho tới khi Chúa đến”[15].
1370. Không những các chi thể của Đức Kitô còn ở trần gian, mà cả những vị đang hưởng vinh quang trên trời cũng được kết hợp với lễ tế của
Đức Kitô: Hội Thánh dâng hy tế Thánh Thể trong sự hiệp thông với Đức Trinh Nữ
Maria rất thánh, và nhớ đến ngài cũng như đến tất cả các Thánh nam nữ. Trong
Thánh lễ, Hội Thánh một cách nào đó đứng dưới Thánh Giá, cùng với Mẹ Maria, kết
hợp với lễ tế và lời chuyển cầu của Đức Kitô.
1371. Hy tế Thánh Thể cũng được dâng lên để cầu cho các tín hữu đã qua đời, “cho những người đã chết trong Đức Kitô mà
chưa được thanh luyện trọn vẹn”[16], để họ được vào hưởng ánh
sáng và bình an của Đức Kitô:
“Các con
hãy chôn xác này ở bất cứ nơi đâu: đừng lo lắng gì về chuyện đó; mẹ chỉ xin các
con điều này, là bất cứ các con ở đâu, các con hãy nhớ tới mẹ nơi bàn thờ của
Chúa”[17].
“Sau đó
[trong Kinh nguyện Thánh Thể] chúng ta cầu cho các Giáo hoàng và các Giám mục
đã an nghỉ, và cách chung, cho các tín hữu đã qua đời giữa chúng ta, vì chúng
ta tin rằng các linh hồn sẽ được trợ giúp tối đa nhờ lời cầu nguyện cho họ, khi
Của Lễ hiến tế thánh và đáng kính sợ đang hiện diện…. Khi dâng lên Thiên Chúa
những lời chuyển cầu của chúng ta cho những người đã an giấc, dù họ là những tội
nhân, chúng ta dâng chính Đức Kitô bị sát tế vì tội lỗi chúng ta, để xin ơn
giao hòa với Thiên Chúa, Bạn của loài người, cho họ và cho chúng ta”[18].
1372. Thánh Augustinô tóm tắt một cách tuyệt vời giáo lý này, một giáo lý
thúc giục chúng ta tham dự ngày càng trọn vẹn hơn vào hy tế của Đấng Cứu Chuộc
chúng ta mà chúng ta cử hành trong Thánh lễ:
“Chính
toàn thể đô thành đã được cứu chuộc, tức là cộng đoàn và tập thể các Thánh, là
một hy tế phổ quát được dâng lên Thiên Chúa nhờ vị Thượng Tế, Đấng trong hình
dang một kẻ nô lệ, đã tự hiến mình chịu khổ nạn vì chúng ta, để chúng ta trở
thành Thân thể của Đấng là Đầu cao cả dường ấy…. Đây là hy tế của các Kitô hữu:
‘Chúng ta cũng vậy: tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Kitô’ (Rm
12,5). Hy tế này được Hội Thánh tiếp tục cử hành qua bí tích bàn thờ mà các tín
hữu đã biết, trong đó Hội Thánh hiến dâng chính mình trong Hy tế mà Hội Thánh
tiến dâng”[19].
1382. Thánh lễ, một cách không thể tách biệt, vừa là việc tưởng niệm Hy tế thập
giá muôn đời tồn tại, vừa là bàn tiệc thánh thiêng để hiệp thông với Mình và
Máu Chúa. Nhưng việc cử hành hy tế Thánh Thể hoàn toàn hướng đến sự kết hợp mật
thiết của các tín hữu với Đức Kitô qua việc rước lễ. Rước lễ là lãnh nhận chính
Đức Kitô, Đấng đã tự hiến vì chúng ta.
1436. Bí tích Thánh Thể và bí tích Thống
Hối. Việc hối cải và thống hối hằng ngày gặp được nguồn mạch và lương thực
của mình nơi bí tích Thánh Thể, bởi vì nơi Thánh Thể, hy lễ của Đức Kitô hiện
diện, hy lễ này giao hoà chúng ta với Thiên Chúa; nhờ bí tích Thánh Thể, những
ai sống bởi sức sống của Đức Kitô sẽ được nuôi dưỡng và được bổ sức; bí tích
này là “thuốc giải độc, giải thoát chúng ta khỏi các lỗi phạm hằng ngày và gìn
giữ chúng ta khỏi các tội trọng”[20].
Số 1373-1381: Sự hiện diện thật sự của Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể
1373. “Đức Kitô Giêsu, Đấng đã chết, hơn nữa đã sống lại,
và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta” (Rm 8,34) đang hiện
diện trong Hội Thánh Người dưới nhiều hình thức[21]:
trong Lời của Người, trong kinh nguyện của Hội Thánh Người, “ở đâu có hai ba
người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20), trong những
người nghèo khổ, những bệnh nhân, những người bị cầm tù[22],
trong các bí tích mà chính Người là tác giả, trong Hy tế Thánh lễ và trong con
người thừa tác viên. Nhưng “nhất là
Người hiện diện dưới các hình dạng Thánh
Thể”[23].
1374. Cách thức hiện diện của Đức Kitô dưới các hình dạng Thánh Thể là độc nhất
vô nhị. Người nâng bí tích Thánh Thể vượt lên trên các bí tích khác và vì vậy
bí tích này là “như sự trọn hảo của đời sống thiêng liêng và cùng đích của mọi
bí tích”[24]. Trong bí tích Thánh Thể cực
thánh, Mình và Máu cùng với linh hồn và thần tính của Chúa chúng ta là Đức
Giêsu Kitô, và như vậy là Đức Kitô toàn
thể (totus Christus), hiện diện một cách đích thực, thật sự, và theo bản thể[25].
“Sự hiện diện này được gọi là ‘thật sự’, không theo nghĩa loại trừ, nghĩa là
không coi các hình thức hiện diện khác như không ‘thật sự’, nhưng theo nghĩa đặc
biệt, bởi vì đây là cách hiện diện theo bản
thể, và qua đó Đức Kitô toàn thể và trọn vẹn (totus atque integer
Christus), vừa là Thiên Chúa vừa là con người, hiện diện một cách chắc chắn”[26].
1375. Trong bí tích này, Đức Kitô hiện diện nhờ sự biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Đức Kitô. Các Giáo phụ mạnh
mẽ khẳng định đức tin của Hội Thánh vào hiệu lực của lời Đức Kitô và nhờ tác động
của Chúa Thánh Thần trong việc thực hiện sự biến đổi này. Thánh Gioan Kim Khẩu
tuyên bố:
“Không phải
người ta, nhưng chính Đức Kitô, Đấng đã chịu đóng đinh vì chúng ta, làm cho các
lễ vật trở thành Mình và Máu Đức Kitô. Vị tư tế, hình ảnh của Đức Kitô, đọc các
lời này, nhưng hiệu quả và ân sủng là do Thiên Chúa. Ngài đọc ‘Này là Mình Thầy’. Lời này biến đổi các
lễ vật”[27].
Và thánh Ambrôsiô nói về sự biến đổi như sau:
Chúng ta
hãy tin chắc rằng: “Đây không phải là vấn đề bản chất đã tạo ra, nhưng là điều
lời chúc lành đã thánh hiến. Sức mạnh của lời chúc lành vượt trên sức mạnh của
bản chất, vì nhờ lời chúc lành mà chính bản chất đã biến đổi”[28]. “Lời Đức Kitô có khả năng
làm ra, từ hư không, cái trước đó chưa từng hiện hữu, chẳng lẽ lời đó lại không
thể biến đổi những sự vật đang hiện hữu thành những sự vật trước đó chưa có hay
sao? Việc ban bản chất đầu tiên cho sự vật cũng tương đương như biến đổi bản chất
của chung”[29].
1376. Công đồng Triđentinô đã tóm tắt đức tin công giáo bằng lời tuyên bố: “Vì
Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, đã phán dạy: Điều Người dâng lên dưới hình
bánh, đích thực là Thân Mình Người, nên Hội Thánh luôn luôn xác tín như vậy, và
thánh Công đồng này một lần nữa tuyên bố: Nhờ lời thánh hiến bánh và rượu đã diễn
ra sự biến đổi trọn vẹn bản thể bánh thành bản thể Mình Thánh Đức Kitô, Chúa
chúng ta, và biến đổi trọn vẹn bản thể rượu thành bản thể Máu Thánh Người; Hội
Thánh công giáo gọi việc biến đổi này một cách thích hợp và chính xác là sự biến đổi bản thể (transsubstantiatio)[30].
1377. Sự hiện diện Thánh Thể của Đức Kitô bắt đầu từ lúc thánh hiến [a momento
consecrationis, quen gọi là lúc truyền phép] và kéo dài bao lâu các hình dạng
Thánh Thể còn tồn tại. Đức Kitô hiện diện trọn vẹn trong mỗi hình bánh và rượu,
và trong mỗi phần nhỏ của hình bánh và rượu, như vậy việc bẻ bánh không phân
chia Đức Kitô[31].
1378. Việc tôn thờ Thánh Thể. Trong
phụng vụ Thánh lễ, chúng ta bày tỏ đức tin vào sự hiện diện thật sự của Đức
Kitô trong các hình bánh và rượu bằng nhiều cách, như bái gối hay cúi mình sâu
để tỏ dấu tôn thờ Chúa. “Hội Thánh Công giáo đã và vẫn luôn tôn thờ Thánh Thể,
không chỉ trong mà còn ngoài Thánh lễ nữa, bằng cách bảo quản hết sức cẩn thận
Bánh đã được thánh hiến (consecratas Hostias), đặt lên cho các tín hữu tôn thờ
cách long trọng, và rước kiệu Thánh Thể với đông đảo dân chúng vui mừng tham dự”[32].
1379. Nhà Tạm, trước hết được dùng để lưu giữ Thánh Thể cách xứng đáng để có
thể mang đến cho các bệnh nhân và những người vắng mặt rước lễ ngoài thánh lễ.
Nhờ đào sâu đức tin vào sự hiện diện thật sự của Đức Kitô trong bí tích Thánh
Thể, Hội Thánh ý thức về ý nghĩa của việc thinh lặng tôn thờ Đức Kitô hiện diện
trong các hình dạng Thánh Thể. Vì vậy, Nhà Tạm phải đặt nơi đặc biệt xứng đáng
trong nhà thờ, và phải được thiết kế như thế nào để nêu cao và bày tỏ chân lý về
sự hiện diện thật sự của Đức Kitô trong Bí tích Cực thánh này.
1380. Thật rất thích hợp, việc Đức Kitô đã muốn hiện diện với Hội Thánh của
Người theo cách thức độc nhất vô nhị này. Bởi vì Đức Kitô dưới hình dạng hữu
hình, đã rời bỏ những kẻ thuộc về Người, nên Người muốn ban cho chúng ta sự hiện
diện cách bí tích của Người; bởi vì Người đã tự hiến trên thập giá để cứu độ
chúng ta, nên Người muốn chúng ta tưởng niệm tình yêu mà Người đã yêu thương ta
“đến cùng” (Ga 13,1), đến độ ban cả mạng sống mình. Thật vậy, trong sự hiện diện
bí tích của Người, Người vẫn ở giữa chúng ta cách mầu nhiệm với tư cách là Đấng
đã yêu mến và nộp mình vì chúng ta[33],
và Người hiện diện dưới những dấu chỉ diễn tả và truyền thông tình yêu này:
“Quả thật,
Hội Thánh và trần gian rất cần sự tôn thờ bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu đang chờ
đợi chúng ta trong bí tích tình yêu này. Đừng từ chối thời gian đến gặp Người để
tôn thờ, để chiêm ngắm tràn đầy đức tin và sẵn sàng đền tạ những tội lỗi và tội
ác nặng nề của trần gian. Chúng ta hãy không ngừng tôn thờ Thánh Thể”[34].
1381. Thánh Tôma đã nói: “Không thể nhận biết bằng giác quan Mình thật và Máu
thật của Đức Kitô hiện diện trong bí tích này, nhưng chỉ bằng đức tin, một đức tin dựa vào thẩm quyền của Thiên Chúa. Vì
thế, khi chú giải câu Luca 22,19: ‘Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con’,
thánh Cyrillô đã nói: ‘Bạn đừng hồ nghi điều này có thật hay không, nhưng tốt
hơn nên đón nhận bằng đức tin các lời của Đấng Cứu Độ, bởi vì Người là chân lý,
Người không lừa dối bao giờ’”[35]:
“Con sốt sắng thờ lạy Chúa, ôi Thần tính ẩn mình
đang thật sự hiện diện dưới các hình dạng này;
trọn vẹn tâm hồn con suy phục Chúa,
bởi vì khi chiêm ngắm Chúa, trọn hồn con biến tan.
Thị giác, vị giác và xúc giác
không chạm được đến Chúa,
nhưng chỉ tin vững điều đã được nghe dạy;
con tin tất cả những gì Con Thiên Chúa đã nói,
không gì thật hơn lời chân lý này”[36].
Số 1384-1401, 2837: Rước Lễ
1384. Chúa tha thiết mời chúng ta đón rước Người trong bí tích Thánh Thể: “Thật,
tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống Máu Con Người, các ông
không có sự sống nơi mình” (Ga 6,53).
1385. Để đáp lại lời mời đó, chúng ta phải dọn mình cho giây phút cực trọng cực thánh này. Thánh Phaolô khuyên
ta nên tự vấn lương tâm: “Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng,
thì phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống
Chén này. Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn
và uống án phạt mình” (1 Cr 11,27-29). Ai biết mình đang mắc tội trọng, thì phải
lãnh nhận bí tích Hòa Giải trước khi đi lên rước lễ.
1386. Trước sự cao trọng của bí tích này, tín hữu chỉ có thể lặp lại, một cách
khiêm tốn và với đức tin sốt sắng, lời viên đại đội trưởng[37]:
“Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời,
thì linh hồn con sẽ lành mạnh”[38]. Trong phụng vụ thánh của
thánh Gioan Kim Khẩu, các tín hữu cầu nguyện cũng trong tinh thần ấy:
“Lạy Con
Thiên Chúa, hôm nay xin cho con được hiệp thông vào bàn tiệc huyền nhiệm của
Chúa. Bởi vì con không tiết lộ cho các kẻ thù điều kín nhiệm của Chúa, cũng
không tặng Chúa cái hôn của Giuđa. Nhưng như người trộm lành, con kêu lên cùng
Chúa: Lạy Chúa, xin nhớ đến con trong Nước Chúa”[39].
1387. Để dọn mình đón nhận bí tích này cách xứng đáng, các tín hữu phải giữ
chay theo quy định của Hội Thánh[40]. Thái độ bên ngoài (cử chỉ,
cách ăn mặc) phải biểu lộ lòng tôn kính, sự trang trọng và niềm vui của giây
phút được Chúa là thượng khách của chúng ta.
1388. Căn cứ vào ý nghĩa của bí tích Thánh Thể, các tín hữu, nếu hội đủ các điều
kiện cần thiết[41], rước lễ khi tham dự Thánh lễ.[42]
“Việc tham dự Thánh lễ cách hoàn hảo hơn, được nồng nhiệt khuyến khích, đó là
sau khi vị chủ tế rước lễ, các tín hữu rước Mình Chúa bởi cùng một hy tế”[43].
1389. Hội Thánh buộc các tín hữu phải tham dự Thánh lễ vào các ngày Chúa nhật
và các lễ buộc[44] và rước lễ mỗi năm ít là một
lần, nếu có thể được trong mùa Phục Sinh[45],
sau khi đã chuẩn bị tâm hồn bằng bí tích Hòa Giải. Nhưng Hội Thánh tha thiết
khuyến khích các tín hữu rước lễ vào các ngày Chúa Nhật và các lễ khá long trọng,
hay thường xuyên hơn nữa, kể cả việc rước lễ hằng ngày.
1390. Vì Đức Kitô hiện diện cách bí tích dưới mỗi hình dạng, nên việc rước lễ
dưới hình bánh mà thôi vẫn nhận được trọn vẹn hiệu quả ân sủng của bí tích Thánh
Thể. Vì các lý do mục vụ, cách rước lễ này đã được quy định cách hợp pháp trong
nghi lễ La tinh, như là hình thức thông thường nhất. Nhưng “dấu chỉ của việc rước
lễ được đầy đủ hơn khi được trao ban dưới hai hình dạng. Vì theo cách này, dấu
chỉ của bàn tiệc Thánh Thể trở nên rõ nét hơn”[46].
Đây là cách rước lễ thông thường trong các nghi lễ Đông phương.
Hiệu quả của việc rước lễ
1391. Việc rước lễ làm tăng trưởng sự
hiệp thông của chúng ta với Đức Kitô. Lãnh nhận bí tích Thánh Thể khi rước
lễ mang lại hiệu quả chính yếu là kết hợp thân mật với Đức Kitô Giêsu. Thật vậy,
Chúa nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong
người ấy” (Ga 6,56). Sự sống trong Đức Kitô có nền tảng nơi bàn tiệc Thánh Thể:
“Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào,
thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57).
“Trong các
ngày lễ của Chúa, khi lãnh nhận Mình của Chúa Con, các tín hữu công bố cho nhau
Tin Mừng: bảo chứng của sự sống đã được trao ban, cũng như xưa kia Thiên thần
báo cho bà Maria Mađalêna: ‘Đức Kitô đã phục sinh!’ Giờ đây cũng vậy, sự sống
và sự phục sinh cũng được trao ban cho ai lãnh nhận Đức Kitô”[47].
1392. Những gì lương thực vật chất mang lại cho sự sống thể xác, thì việc rước
lễ thực hiện điều này cách kỳ diệu cho đời sống thiêng liêng của chúng ta. Việc
hiệp thông với thân mình Đức Kitô phục sinh, một thân mình “nhờ Chúa Thánh Thần,
đã được sống và có sức ban sự sống”[48],
bảo toàn, phát triển và canh tân đời sống ân sủng đã nhận được trong bí tích Rửa
Tội. Sự tăng trưởng như vậy của đời sống Kitô hữu cần được nuôi dưỡng bằng việc
rước Thánh Thể, là Bánh cho cuộc lữ hành của chúng ta, mãi cho đến giờ chết; lúc
đó Bánh sẽ được ban cho chúng ta như Của ăn đàng.
1393. Việc rước lễ ngăn cách chúng ta
khỏi tội lỗi. Mình Đức Kitô chúng ta lãnh nhận khi rước lễ, là thân mình “bị
nộp vì chúng ta” và Máu chúng ta uống, là máu “đổ ra cho nhiều người được tha tội.”
Vì vậy, bí tích Thánh Thể không thể kết hợp chúng ta với Đức Kitô, nếu đồng thời
không thanh tẩy chúng ta khỏi các tội đã phạm và gìn giữ chúng ta khỏi các tội
trong tương lai:
“Mỗi lần
chúng ta rước lễ, chúng ta loan truyền Chúa đã chịu chết[49].
Nếu chúng ta loan truyền cái chết của Chúa, thì cũng loan truyền ơn tha tội. Nếu
mỗi lần Máu Người đổ ra, là đổ ra để tha tội, thì tôi phải luôn lãnh nhận Máu
Người, để Người luôn tha tội cho tôi. Tôi là kẻ luôn phạm tội, nên tôi luôn phải
có một phương dược”[50].
1394. Như lương thực vật chất dùng để phục hồi sức lực bị tiêu hao, thì bí
tích Thánh Thể cũng tăng sức mạnh cho đức mến của chúng ta, vốn có xu hướng bị
suy yếu trong đời sống hằng ngày; và đức mến sống động này xóa bỏ các tội nhẹ[51]. Khi tự hiến cho chúng ta,
Đức Kitô một lần nữa ban sự sống cho tình yêu của chúng ta và ban cho chúng ta
khả năng phá huỷ những đam mê vô trật tự của chúng ta đối với các thụ tạo và khả
năng gắn bó với Người:
“Vì yêu
thương, Đức Kitô đã chết cho chúng ta, nên mỗi khi tưởng niệm cuộc tử nạn của
Người trong Thánh lễ, chúng ta xin Người ban tình yêu cho chúng ta nhờ Chúa
Thánh Thần ngự đến; chúng ta khiêm tốn khẩn nguyện rằng, nhờ tình yêu mà Đức
Kitô đã chết vì chúng ta, và nhờ ân sủng Chúa Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận,
chúng ta có thể coi thế gian như đã bị đóng đinh, và chúng ta bị đóng đinh cho
thế gian; ... khi đã lãnh nhận hồng ân tình yêu, chúng ta hãy chết cho tội lỗi
và sống cho Thiên Chúa”[52].
1395. Nhờ tình yêu mà bí tích Thánh Thể đã đốt lên trong chúng ta, bí tích
này gìn giữ chúng ta khỏi các tội trọng
trong tương lai. Chúng ta càng tham dự vào sự sống của Đức Kitô, và càng tiến
thêm trong tình bằng hữu với Người, thì càng khó phạm tội trọng mà cắt đứt sự
liên kết với Người. Bí tích Thánh Thể không được thiết lập để tha các tội trọng.
Đó là chức năng riêng của bí tích Hòa Giải. Bí tích Thánh Thể có chức năng
riêng, là bí tích của những người đang sống trong sự hiệp thông đầy đủ với Hội
Thánh.
1396. Sự hợp nhất
của Nhiệm Thể: Bí tích Thánh Thể làm nên Hội Thánh. Những ai
đã lãnh nhận Thánh Thể, đều được kết hợp cách chặt chẽ hơn với Đức Kitô. Nhờ
đó, Đức Kitô kết hợp mọi tín hữu thành một thân thể duy nhất là Hội Thánh. Việc
tháp nhập vào Hội Thánh như vậy, vốn đã được bí tích Rửa Tội thực hiện, nay được
việc rước lễ canh tân, củng cố và làm cho thâm sâu hơn. Trong bí tích Rửa Tội,
chúng ta đã được kêu gọi để làm thành một thân thể duy nhất[53].
Bí tích Thánh Thể thực hiện lời kêu gọi này: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm
tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư ? Và khi ta cùng bẻ
Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một
tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người,
chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,16-17):
“Nếu anh
em là Thân Thể và là các chi thể của Đức Kitô, thì mầu nhiệm của anh em đang được
đặt trên Bàn của Chúa: anh em lãnh nhận mầu nhiệm của anh em. Anh em đáp Amen
(Vâng, đúng như thế) đối với điều anh em là, và anh em xác nhận bằng câu đáp
đó. Anh em nghe: ‘Mình Thánh Chúa Kitô’ và anh em đáp: ‘Amen’. Vậy hãy là chi
thể của Thân Thể Đức Kitô, để lời đáp Amen
của anh em là chân thật”[54].
1397. Bí tích
Thánh Thể đòi buộc dấn thân cho người nghèo: Để lãnh nhận trong sự thật
Mình và Máu Đức Kitô bị nộp vì chúng ta, chúng ta phải nhận ra Đức Kitô trong
những kẻ nghèo nhất, là các anh em của Người.[55]
“Bạn nếm
Máu Thánh Chúa, vậy mà bạn lại không nhận ra người anh em; ... Bạn làm hổ thẹn
Bàn tiệc này, khi người được coi là xứng đáng tham dự Ban tiệc này, lại bị bạn
coi là không xứng đáng được chia phần ăn của bạn. Thiên Chúa đã giải thoát bạn
khỏi mọi tội lỗi và cho bạn vào bàn tiệc, vậy mà quả thật bạn đã chẳng nhân hậu
hơn chút nào”[56].
1398. Bí tích Thánh Thể và sự hợp nhất
các Kitô hữu. Trước sự cao cả của mầu nhiệm này, thánh Augustinô đã thốt
lên: “Ôi bí tích tình yêu! Ôi dấu chỉ hợp
nhất! Ôi mối dây bác ái!”[57] Người ta càng đau lòng vì sự chia rẽ
trong Hội Thánh vốn làm cho các Kitô hữu không thể tham dự chung với nhau bàn
tiệc của Chúa, thì những lời nguyện dâng lên Chúa càng khẩn thiết hơn, để những
ngày hợp nhất trọn vẹn, của mọi kẻ tin vào Người, được trở lại.
1399. Các Giáo Hội Đông phương, dù không hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội
Công giáo, vẫn cử hành bí tích Thánh Thể với một tình yêu cao cả. “Các Giáo Hội
ấy, mặc dù ly khai, vẫn có các bí tích đích thực, chủ yếu là chức tư tế và bí
tích Thánh Thể, nhờ sự kế nhiệm các Tông Đồ, nên vẫn liên kết rất chặt chẽ với
chúng ta”[58]. Vì vậy, “một hiệp thông
nào đó trong các sự thánh, trong những
trường hợp thuận lợi và với sự chấp thuận của giáo quyền, không những là có thể,
mà còn được khuyến khích”[59].
1400. Các Cộng đoàn Giáo hội phát sinh từ cuộc Cải Cách, đã ly khai khỏi Hội
Thánh Công Giáo, “đặc biệt là vì thiếu bí tích Truyền Chức Thánh, nên không còn
giữ được bản chất đích thực và nguyên vẹn của mầu nhiệm Thánh Thể”[60]. Vì vậy, đối với Hội Thánh
Công Giáo, việc rước lễ chung với những Cộng đoàn này là không thể được. Nhưng
khi các cộng đoàn này “tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa trong Tiệc
Thánh, họ tuyên xưng rằng sự sống chỉ có nghĩa trong sự hiệp thông với Đức Kitô
và họ mong đợi ngày trở lại vinh quang của Người”[61].
1401. Khi có nhu cầu khẩn cấp, theo phán đoán của Đấng Bản Quyền địa phương,
các thừa tác viên Công giáo được phép ban các bí tích (Thánh Thể, Hòa Giải, Xức
Dầu bệnh nhân) cho các Kitô hữu không hiệp thông trọn vẹn với Hội Thánh Công
Giáo, nhưng họ phải tự ý xin lãnh nhận các bí tích đó: lúc đó, họ phải tuyên
xưng đức tin công giáo về các bí tích này và có sự chuẩn bị đầy đủ[62].
2837. “Hằng
ngày”. Tân Ước không sử dụng từ “hằng ngày” (épiousios) ở chỗ nào khác. Theo nghĩa thời gian, từ này là sự lặp lại
từ “hôm nay” theo kiểu sư phạm[63], để dạy chúng ta phó thác
cách triệt để. Theo nghĩa phẩm chất, từ này có nghĩa là điều cần thiết cho sự sống
và, hiểu rộng hơn, mọi điều thiện hảo đủ để tồn tại[64].
Theo nghĩa văn tự (épi-ousios:
“super-substantiale”, vượt trên điều cốt thiết), từ này trực tiếp nói đến Bánh
trường sinh, là Mình Thánh Chúa Kitô, “phương dược trường sinh”[65], mà nếu không có lương thực
này, chúng ta sẽ không có sự sống nơi mình[66].
Sau cùng, kết hợp với điều đã nói trên, ý nghĩa thiên quốc là rõ ràng: “ngày”
là ngày của Chúa, ngày của Bàn tiệc Nước Trời, mà bí tích Thánh Thể là một sự
tham dự trước, như nếm trước Nước Trời đang đến. Chính vì vậy, phụng vụ Thánh
Thể phải được cử hành “hằng ngày”.
“Vậy Thánh
Thể là lương thực hằng ngày của chúng ta…. Đặc tính của lương thực thần thiêng
này là sự hợp nhất, để một khi được kết hợp trong Mình Thánh Người, trở nên các
chi thể của Người, chúng ta trở thành điều chúng ta lãnh nhận…. Và lương thực hằng
ngày là khi anh em nghe các bài đọc mỗi ngày ở nhà thờ; lương thực hằng ngày là
khi anh em nghe và hát các thánh thi. Bởi vì những điều đó là cần thiết cho cuộc
lữ hành của chúng ta”[67].
“Cha trên
trời thúc giục chúng ta là, với tư cách là con cái bởi trời, chúng ta hãy cầu
xin Bánh bởi trời[68]. Đức Kitô ‘chính Người là tấm
bánh được gieo trồng trong lòng Đức Trinh Nữ, dậy men trong xác phàm, làm thành
bánh trong cuộc khổ nạn, nấu nương trong lò huyệt mộ, lưu giữ trong các nhà thờ,
được dâng lên trên các bàn thờ, hằng ngày cung cấp lương thực bởi trời cho các
tín hữu’”[69].
Số 1402-1405: Bí tích Thánh Thể như là bảo chứng vinh quang
1402. Trong một kinh nguyện cổ xưa, Hội Thánh tung hô mầu nhiệm Thánh Thể như
sau: “Ôi Tiệc Thánh, trong đó Đức Kitô được rước lấy làm lương thực, việc tưởng
niệm cuộc khổ nạn của Người được nhắc lại, tâm trí được tràn đầy ân sủng, và bảo
chứng cho vinh quang mai sau được ban cho chúng ta”[70].
Nếu bí tích Thánh Thể là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa, nếu nhờ việc
rước lễ tại bàn thờ mà chúng ta được “tràn đầy ân phúc bởi trời”[71], thì bí tích Thánh Thể cũng
là sự tham dự trước vào vinh quang thiên quốc.
1403. Trong bữa Tiệc ly, chính Chúa hướng các môn đệ Người đến sự hoàn tất lễ
Vượt Qua trong Nước Thiên Chúa: “Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không
còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ
rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26,29)[72].
Mỗi lần cử hành bí tích Thánh Thể, Hội Thánh nhớ lại lời hứa này và hướng trông
“Đấng đang đến” (Kh 1,4). Trong kinh nguyện, Hội Thánh kêu cầu Người ngự đến: “Marana tha” (1 Cr 16,22), “Lạy Chúa
Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22,20), “Ước gì ân sủng của Ngài đến và trần gian
này qua đi”[73].
1404. Hội Thánh biết rằng giờ đây Chúa đã đến trong bí tích Thánh Thể của Người,
và Người ở đó giữa chúng ta. Tuy nhiên, sự hiện diện này còn bị che phủ. Chính
vì vậy, chúng ta cử hành bí tích Thánh Thể “đang khi chúng con mong đợi niềm hy
vọng hồng phúc và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con”[74], trong khi chúng ta khẩn
nguyện được “cùng nhau tận hưởng vinh quang Cha muôn đời, khi Cha lau sạch nước
mắt chúng con, vì khi được thấy tường tận Cha là Thiên Chúa chúng con, thì muôn
đời chúng con sẽ trở nên giống Cha và sẽ ca ngợi Cha khôn cùng”[75].
1405. Về niềm hy vọng lớn lao này, niềm hy vọng về trời mới đất mới, nơi công
lý lưu ngụ cách chắc chắn[76], chúng ta không có bảo chứng
nào vững chắc hơn và dấu chỉ nào được biểu lộ rõ ràng hơn, là bí tích Thánh Thể.
Thật vậy, mỗi khi mầu nhiệm này được cử hành, thì “công trình cứu chuộc chúng
ta được thực hiện”[77] và “chúng ta bẻ cùng một tấm
bánh, là phương dược trường sinh bất tử, và của ăn để chúng ta không chết,
nhưng đem lại sự sống muôn đời trong Chúa Giêsu Kitô”[78].
Số 611, 1366: Thiết lập chức tư tế trong bữa Tiệc Ly
611. Bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã thiết lập lúc đó, sẽ là “việc tưởng
niệm”[79] hy tế của Người. Người bao
gồm các Tông Đồ vào sự dâng hiến chính mình Người và dạy họ lưu truyền việc
dâng hiến này mãi mãi[80]. Như vậy, Chúa Giêsu đã đặt
các Tông Đồ của Người làm tư tế của Giao Ước Mới: “Vì họ, con xin thánh hiến
chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,19)[81].
1366. Vì vậy, bí tích Thánh Thể là một Hy tế bởi vì bí tích này làm cho Hy tế thập giá hiện diện, bởi vì bí tích này là việc tưởng niệm Hy tế đó, và bởi vì bí
tích này áp dụng hiệu quả của Hy tế
đó:
Đức Kitô
“là Thiên Chúa và Chúa chúng ta, … đã tự hiến cho Chúa Cha bằng cái chết trên
bàn thờ thập giá một lần cho mãi mãi, để thực hiện ơn cứu chuộc muôn đời cho
loài người. Tuy nhiên, bởi vì cái chết của Người không chấm dứt chức tư tế của
Người [Dt 7,24.27], nên trong bữa Tiệc Ly, ‘trong đêm bị nộp’ [1 Cr 11,23], …
Người đã để lại cho Hiền Thê yêu dấu của Người là Hội Thánh một hy tế hữu hình
(như bản tính con người đòi hỏi); trong hy tế hữu hình này, hy tế đẫm máu được
thực hiện một lần duy nhất trên thập giá được hiện diện, và việc tưởng niệm hy
tế đẫm máu đó sẽ còn mãi cho đến ngày tận thế, và sức mạnh cứu độ của hy tế đó
sẽ được áp dụng để tha thứ các tội lỗi chúng ta phạm hằng ngày”[82].
[17] Thánh Augustinô, Confessiones, 9,
11, 27 : CCL 27, 149 (PL 32, 775); lời thánh nữ Mônica, trước khi chết, trối
cho anh em thánh Augustinô.
[18] Thánh Cyrillô Giêrusalem, Catecheses
mystagogicae, 5, 9-10: SC 126, 158-160 (PG 30, 1116-1117).
[34] ĐGH Gioan Phaolô II, Thư Dominicae
Cenae, 3: AAS 72 (1980) 119; x. Enchiridion
Vaticanum, 7, 177.
[35] ĐGH Phaolô VI, Thông điệp Mysterium
Fidei, 18: AAS 57 (1965) 757; x. Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, III, q. 75, a. 1, c: Ed. Leon. 12, 156; Thánh
Cyrillô Alexandria, Commentarius in
Lucam, 22,19: PG 72, 912.
[39] Liturgia Byzantina. Anaphora
Iohannis Chrysostomi, Prex ante Communionem: F.E. Brightman, Liturgies Eastern and Western (Oxford
1896) 394 (PG 63, 920).
[42] Trong cùng một ngày, các tín hữu có thể rước lễ hai lần, và chỉ hai lần
mà thôi: Pontificia Commissio Codici Iuris Canonici authentice interpretando, Responsa ad proposita dubia, 1 : AAS 76
(1984), 746.
[46] Quy chế tổng quát Sách Lễ Rôma, 240:
Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis
Polyglottis Vaticanis 1970) 68.
[57] Thánh Augustinô, In Iohannis
evangelium tractatus, 26, 13: CCL 36, 266 (PL 35, 1613); x. CĐ Vaticanô II,
Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 47:
AAS 56 (1964) 113.
[59] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis
redintegratio, 15: AAS 57 (1965) 102; x. Bộ Giáo Luật, điều 844,3.
[70] Lễ Trọng kính Mình và Máu thánh
Chúa Kitô, Điệp ca kinh “Magnificat” Kinh Chiều II: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v. 3 (Typis Polyglottis
Vaticanis 1973) 502.
[71] Kinh nguyện Thánh Thể I hay Lễ
Quy Rôma, 96: Sách Lễ Rôma,
editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 453.
[74] Nghi thức Hiệp lễ, 126 [Lời
nguyện sau kinh Lạy Cha]: Sách Lễ Rôma, editio
typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 472; x. Tt 2,13.
[75] Kinh nguyện Thánh Thể III,
116: Sách Lễ Rôma, editio typica
(Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 465.
[81] X. CĐ Triđentinô, Sess. 22a, Doctrina
de sanctissimo Missae Sacrificio, c. 2: DS 1752; Sess. 23a, Doctrina de sacramento Ordinis, c.1: DS
1764.
[82] CĐ Triđentinô, Sess. 22a, Doctrina
de ss. Missae sacrificio, c.1: DS 1740.
- Ăn no nê (06.12.2023 – Thứ Tư Tuần 1 Mùa Vọng) ( 05/12/2023)
- Chúa nhật 1 Mùa Vọng năm B (03.12.2023) – Tỉnh thức gặp gỡ Chúa Giêsu nơi mỗi anh chị em đang cần chúng ta ( 04/12/2023)
- Thánh Thần tác động (05.12.2023 – Thứ Ba Tuần 1 Mùa Vọng) ( 04/12/2023)
- Từ phương Đông phương Tây (04.12.2023 – Thứ Hai Tuần 1 Mùa Vọng) ( 03/12/2023)
- Giáo lý cho bài giảng Chúa nhật 1 Mùa Vọng năm B ( 02/12/2023)
- Người giữ cửa (03.12.2023 – Chúa Nhật 1 Mùa Vọng, Năm B) ( 02/12/2023)
- Tỉnh thức và canh thức (03.12.2023 – Chúa Nhật 1 Mùa Vọng, Năm B) ( 02/12/2023)
- Loan báo Tin Mừng (03.12.2023 – Thánh Phanxicô Xaviê, Linh mục) ( 02/12/2023)
- Chúa nhật 1 Mùa Vọng năm B – Tỉnh thức hay Canh thức theo Kinh Thánh ( 01/12/2023)
- Bài giảng Đức Thánh Cha – Chúa nhật 1 Mùa Vọng năm B ( 01/12/2023)