GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích)
LỄ THÁNH GIA NĂM B
WHĐ (29.12.2023) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện
hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng,
Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh
Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và
Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được
công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.
Số 531-534: Thánh Gia
531. Phần lớn cuộc đời Người, Chúa Giêsu đã chia sẻ thân phận của đại
đa số con người: một cuộc sống thường ngày không có vẻ cao trọng nào, một cuộc
sống lao động tay chân, một cuộc sống suy phục Luật Thiên Chúa trong Do Thái
giáo[1], một cuộc sống trong cộng
đoàn. Về toàn bộ quãng đời này, chúng ta được mạc khải là Chúa Giêsu đã vâng phục
cha mẹ Người[2] và “ngày càng thêm khôn
ngoan, thêm cao lớn, và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc
2,52).
532. Sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với Mẹ Người và cha nuôi của
Người là chu toàn cách trọn hảo điều răn thứ tư. Sự vâng phục ở trần gian là
hình ảnh của sự vâng phục con thảo của Người đối với Cha trên trời của Ngươi.
Việc Chúa Giêsu hằng ngày vâng phục thánh Giuse và Mẹ Maria loan báo và tham dự
trước vào sự tuân phục của lời cầu nguyện trong vườn Cây Dầu: “Xin đừng cho ý
con thể hiện…” (Lc 22,42). Sự vâng phục của Đức Kitô trong các hoàn cảnh thường
ngày của cuộc đời ẩn dật đã khởi đầu công trình tái tạo những gì mà ông Ađam đã
phá huỷ vì bất tuân[3].
533. Cuộc đời ẩn dật ở Nazareth cho phép mọi người hiệp thông với
Chúa Giêsu qua những lối sống thông thường nhất:
“Ngôi nhà
Nazareth là mái trường nơi chúng ta bắt đầu học về cuộc đời Chúa Giêsu; đây là
trường dạy Tin Mừng. Trước hết là bài học về thinh lặng. Ước gì chúng ta biết quý chuộng sự thinh lặng, vì đó là
bầu khí tuyệt vời và tối cần cho tâm hồn…. Kế đến là bài học về đời sống gia đình: Ước gì Nazareth dạy
chúng ta biết gia đình là gì, sự hiệp thông tình yêu của gia đình là gì, vẻ đẹp
quan trọng và bừng sáng của gia đình là gì, tính chất thánh thiêng và bất khả
xâm phạm của gia đình là gì…. Sau cùng là bài học về lao động. Ôi Nazareth, ngôi nhà của “Con bác thợ mộc”, chính tại
đây, chúng ta muốn hiểu biết và đề cao bổn phận lao động của con người, tuy nhọc
nhằn nhưng đem lại ơn cứu chuộc…. Sau hết, tại đây chúng tôi muốn chào mừng mọi
người lao động trên toàn thế giới, và chỉ cho họ một mẫu mực vĩ đại, là người
anh thần linh của họ”[4].
534. Việc tìm thấy Chúa Giêsu
trong Đền thờ[5] là biến cố duy nhất phá vỡ sự
im lặng của các sách Tin Mừng về những năm tháng ẩn dật của Chúa Giêsu. Ở đây,
Chúa Giêsu cho chúng ta thoáng thấy mầu nhiệm của sự tận hiến của Người cho sứ
vụ xuất phát từ tư cách làm Con Thiên Chúa của Người. “Cha mẹ không biết là con
có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49) Đức Maria và thánh Giuse “không
hiểu” lời này, nhưng đón nhận lời ấy trong đức tin, và Đức Maria “hằng ghi nhớ
những điều ấy trong lòng”, suốt những năm dài Chúa Giêsu ẩn mình trong sự thinh
lặng của cuộc đời bình thường.
Số 1655-1658, 2204-2206: Gia đình Kitô giáo, một Hội
Thánh tại gia
1655. Đức Kitô đã muốn được sinh ra và lớn lên trong gia đình thánh
của thánh Giuse và Mẹ Maria. Hội Thánh không là gì khác hơn là “gia đình của
Thiên Chúa”. Ngay từ những buổi đầu, hạt nhân của Hội Thánh thường gồm những
người trở thành tín hữu “cùng với cả nhà”[6].
Khi trở lại, họ ao ước cho “cả nhà mình” cũng được cứu độ[7].
Những gia đình trở thành tín hữu này, là những tiểu đảo của đời sống Kitô giáo
giữa một thế giới ngoại giáo.
1656. Ngày nay, giữa một thế giới thường xa lạ và thậm chí thù nghịch
với đức tin, gia đình các tín hữu là hết sức quan trọng, với tính cách là những
lò lửa đức tin sống động và chiếu sáng. Vì vậy, Công đồng Vaticanô II dùng một
thuật ngữ cổ xưa, gọi gia đình là Hội
Thánh tại gia (Ecclesia domestica)[8]. Trong tổ ấm gia đình, cha mẹ phải là
“những người đầu tiên truyền dạy đức tin cho con cái mình, bằng lời nói và
gương sáng, cũng như cổ võ ơn gọi riêng của từng đứa con, đặc biệt quan tâm đến
ơn gọi thánh thiêng”[9].
1657. Nơi đây, một cách đặc biệt, người cha, người mẹ, con cái, mọi
phần tử trong gia đình, thực thi chức tư
tế do Phép Rửa “trong việc lãnh nhận các bí tích, trong kinh nguyện và tạ
ơn, qua chứng từ của một đời sống thánh thiện, qua sự từ bỏ, và qua lòng bác ái
sống động”[10]. Bằng cách đó, gia đình là
trường học đầu tiên về đời sống Kitô hữu và là “một trường học làm người cách
phong phú hơn”[11]. Ở đó, người ta học được sự
kiên nhẫn và niềm vui của lao động, tình yêu thương huynh đệ, sự tha thứ quảng
đại, thậm chí tha thứ nhiều lần, và nhất là việc phụng thờ Thiên Chúa qua kinh
nguyện và qua sự hiến dâng cuộc đời mình.
1658. Cũng phải nhắc đến một số người, phải sống trong những hoàn cảnh
cụ thể – và thường là ngoài ý muốn – đặc biệt gần gũi với trái tim Chúa Giêsu,
họ đáng được Hội Thánh, nhất là các mục tử, yêu thương và quan tâm chăm sóc: đó
là đông đảo những người sống độc thân.
Nhiều người trong số này không lập gia
đình được, thường vì điều kiện nghèo khó. Trong hoàn cảnh của mình, có những
người sống theo tinh thần các mối phúc, phục vụ Thiên Chúa và tha nhân một cách
gương mẫu. Phải mở ra cho tất cả những người này, cánh cửa của các gia đình là
“Hội Thánh tại gia” và cánh cửa của gia đình lớn là Hội Thánh. “Trên đời này,
không ai phải thiếu gia đình: vì Hội Thánh là nhà và là gia đình cho tất cả mọi
người, nhất là cho những ai ‘đang vất vả mang gánh nặng nề’ (Mt 11,28)”[12].
2204. “Gia đình Kitô giáo bày tỏ và thể hiện một cách đặc biệt sự
hiệp thông trong Hội Thánh, vì lẽ đó... phải được gọi là một ‘Hội Thánh tại gia’”[13].
Gia đình Kitô giáo là một cộng đoàn đức tin, đức cậy và đức mến; gia đình có một
tầm quan trọng độc đáo trong Hội Thánh, như thấy rõ trong Tân Ước[14].
2205. Gia đình Kitô giáo là sự hiệp thông giữa các nhân vị, là dấu
vết và hình ảnh của sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần.
Hoạt động sinh sản và giáo dục của gia đình là phản ánh công trình tạo dựng của
Chúa Cha. Gia đình được kêu gọi tham dự vào việc cầu nguyện và hy lễ của Đức
Kitô. Việc cầu nguyện hằng ngày và việc đọc Lời Chúa củng cố gia đình trong đức
mến. Gia đình Kitô giáo có sứ vụ loan báo Tin Mừng và truyền giáo.
2206. Các tương quan trong gia đình mang lại sự đồng cảm về cảm
xúc, tình cảm, và tình nghĩa, chủ yếu phát xuất từ sự tôn trọng lẫn nhau giữa
các nhân vị. Gia đình là một cộng đồng ưu
việt được kêu gọi để thực hiện một kế hoạch chung của đôi phối ngẫu và sự cộng
tác chu đáo của cha mẹ trong việc giáo dục con cái[15].
Số 2214-2233: Bổn phận của các phần tử trong gia
đình
Bổn phận của con cái
2214. Tình phụ tử thần linh là nguồn mạch của tình phụ tử nhân loại[16]; chính tình phụ tử đó đặt nền
tảng cho việc tôn kính cha mẹ. Lòng tôn kính của con cái, còn nhỏ hay đã trưởng
thành, đối với cha và mẹ mình[17] được nuôi dưỡng bằng tình cảm
tự nhiên xuất phát từ mối dây kết hợp họ. Lòng tôn kính đó được đòi buộc bởi một
điều răn của Thiên Chúa[18].
2215. Lòng tôn kính cha mẹ (lòng
hiếu thảo) dựa trên sự biết ơn đối
với những người, bằng việc trao ban sự sống, bằng tình yêu và công lao của
mình, đã sinh ra các con cái mình, giúp chúng có khả năng lớn lên về tuổi tác,
về sự khôn ngoan và ân sủng. “Cha con, con hãy hết lòng tôn kính, và đừng quên
ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy,
con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng ?” (Hc 7,27-28).
2216. Lòng hiếu thảo được bày tỏ qua sự ngoan ngoãn và vâng phục chân thành. “Hỡi con, lệnh cha
con truyền, hãy lo tuân giữ; lời mẹ con dạy, chớ bỏ ngoài tai… Những lời đó sẽ
hướng dẫn con lúc con tới lui, sẽ giữ gìn con khi con nằm xuống, sẽ cùng con
chuyện trò khi con thức dậy” (Cn 6,20-22). “Con khôn giữ lời cha nghiêm huấn, kẻ
nhạo báng chẳng nghe lời sửa dạy” (Cn 13,1).
2217. Bao lâu còn chung sống với cha mẹ, con cái phải tuân giữ mọi
điều cha mẹ dạy liên quan đến lợi ích bản thân hoặc của gia đình. “Kẻ làm con
hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20)[19]. Con cái cũng phải vâng
theo những lời dạy bảo hữu lý của những người giáo dục chúng, và của những người
cha mẹ đã giao phó chúng cho họ chăm sóc. Nhưng nếu người con theo lương tâm,
thấy vâng theo một lệnh truyền nào đó là làm điều xấu về mặt luân lý, thì không
được vâng lời.
Khi trưởng thành, con cái vẫn phải
tôn kính cha mẹ. Con cái phải biết đón trước những điều cha mẹ mong muốn, sẵn
sàng hỏi ý kiến và đón nhận những lời khuyên bảo chính đáng của cha mẹ. Sự vâng
lời của con cái đối với cha mẹ ngưng khi con cái không còn sống chung với cha mẹ
nữa, nhưng lòng tôn kính thì không như thế, mà phải tồn tại luôn mãi. Thật ra,
lòng tôn kính này có gốc rễ từ lòng kính sợ Thiên Chúa, là một trong các hồng
ân của Chúa Thánh Thần.
2218. Điều răn thứ tư còn nhắc cho những người con, khi đã trưởng
thành, nhớ các trách nhiệm của họ đối với
cha mẹ. Con cái phải trợ giúp cho cha mẹ về vật chất và tinh thần, bao
nhiêu có thể, trong những năm tháng của tuổi già, hoặc suốt thời gian bệnh tật,
cô đơn hoặc túng thiếu. Chúa Giêsu nhắc lại bổn phận biết ơn này[20].
“Chúa làm cho
người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con.
Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ
được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha
sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng” (Hc 3,2-6).
“Con ơi, hãy săn
sóc cha con, khi người đến tuổi già, bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn
tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể
người... Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ
bị Chúa nguyền rủa” (Hc 3, 12-13.16).
2219. Lòng hiếu thảo củng cố sự hài hoà trong toàn bộ đời sống gia
đình, ảnh hưởng cả đến các tương quan giữa
anh chị em. Lòng hiếu thảo đối với cha mẹ làm rạng rỡ bầu khí gia đình.
“Triều thiên của người già là đàn con cháu, vinh dự của con cái là chính người
cha” (Cn 17,6). “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy
tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4,2).
2220. Các Kitô hữu còn phải biết ơn đặc biệt những ai đã giúp mình
lãnh nhận hồng ân đức tin, ân sủng bí tích Rửa Tội và sự sống trong Hội Thánh.
Những người này có thể là cha mẹ, những phần tử khác của gia đình, ông bà, các
vị mục tử, các giáo lý viên, thầy cô giáo hay bạn bè. “Tôi hồi tưởng lại lòng
tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lôít, bà ngoại anh, nơi bà
Êunikê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (2 Tm 1,5).
Bổn phận của cha mẹ
2221. Sự phong phú của tình yêu phu phụ không chỉ giới hạn ở việc
sinh sản con cái, mà còn phải mở rộng đến cả việc giáo dục luân lý và đào tạo
thiêng liêng cho con cái. “Nhiệm vụ của
cha mẹ trong việc giáo dục hết sức quan trọng đến nỗi, nếu thiếu, chắc chắn
là không gì thay thế được”[21]. Quyền và bổn phận giáo dục
con cái là quyền và bổn phận hàng đầu và bất khả nhượng của cha mẹ[22].
2222. Cha mẹ phải xem con cái của mình như những người con của Thiên Chúa và tôn trọng chúng như những nhân vị. Họ phải dạy cho con cái
biết chu toàn Luật Thiên Chúa, bằng cách cho con cái thấy chính họ cũng vâng phục
thánh ý Cha trên trời.
2223. Cha mẹ là những người đầu tiên có trách nhiệm giáo dục con
cái. Họ thể hiện trách nhiệm này trước hết trong việc xây dựng gia đình, trong đó, tình âu yếm, lòng tha thứ, sự tôn trọng
lẫn nhau, lòng chung thủy và sự phục vụ vô vị lợi phải là những chuẩn mực. Gia
đình là nơi thích hợp cho việc giáo dục
các nhân đức. Việc giáo dục này đòi phải tập bỏ mình, tập phán đoán lành mạnh,
tập tự chủ, là những điều kiện để có sự tự do đích thực. Cha mẹ phải dạy cho
con cái biết “đặt những gì là vật chất và tự nhiên phụ thuộc những gì thuộc nội
tâm và tinh thần”[23]. Cha mẹ có trách nhiệm quan
trọng là phải nêu gương tốt cho con cái. Khi biết nhìn nhận những thiếu sót của
mình trước mặt con cái, cha mẹ có uy tín hơn để hướng dẫn và sửa dạy con cái:
“Thương con thì
cho roi cho vọt... Ai biết giáo dục con sẽ được thỏa lòng về con” (Hc 30,1-2).
“Những bậc làm
cha mẹ đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy thay mặt Chúa giáo dục chúng bằng
cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6,4).
2224. Gia đình là môi trường tự nhiên để khai tâm cho nhân vị về
tình liên đới và về các trách nhiệm trong cộng đồng. Cha mẹ phải dạy cho con
cái biết giữ mình khỏi những nguy hiểm và những sa đọa đang đe dọa xã hội loài
người.
2225. Nhờ ân sủng của bí tích Hôn Phối, cha mẹ nhận trách nhiệm và
đặc ân loan báo Tin Mừng cho con cái.
Cha mẹ khai tâm cho con cái về các mầu nhiệm đức tin ngay từ lúc đầu đời, chính
họ là “những sứ giả đầu tiên”[24] của đức tin đối với con cái
mình. Lúc chúng còn thơ ấu, cha mẹ phải cho con cái hoà nhập vào đời sống của Hội
Thánh. Cách sống của gia đình có thể nuôi dưỡng những tâm tình tốt đẹp, những
tâm tình đó vẫn luôn là sự chuẩn bị và sự nâng đỡ đích thực cho đức tin sống động
trong suốt cuộc đời.
2226. Việc giáo dục đức tin
cho con cái phải được cha mẹ bắt đầu ngay từ tuổi ấu thơ của chúng. Việc giáo dục
này đã khởi đầu, khi các phần tử trong gia đình giúp nhau lớn lên trong đức
tin, nhờ chứng từ của một đời sống Kitô hữu theo Tin Mừng. Việc dạy giáo lý
trong gia đình đi trước, đồng hành và làm phong phú các hình thức khác của việc
giáo dục đức tin. Cha mẹ có sứ vụ dạy con cái cầu nguyện và khám phá ra ơn gọi
làm con Thiên Chúa[25]. Giáo xứ là cộng đồng Thánh
Thể và là trung tâm đời sống phụng vụ của các gia đình Kitô giáo; đó là nơi tốt
nhất để dạy giáo lý cho con cái và cho cha mẹ chúng.
2227. Về phần mình, con cái cũng làm cho cha mẹ chúng tăng trưởng trong sự thánh thiện[26]. Mọi người và mỗi người phải
biết quảng đại và luôn sẵn sàng tha thứ cho nhau khi gặp những xúc phạm, gây gỗ,
bất công và bỏ rơi. Tình yêu thương lẫn nhau gợi lên điều đó. Tình yêu đối với
Đức Kitô đòi buộc điều đó[27].
2228. Khi con cái còn nhỏ, sự tôn trọng và yêu thương của cha mẹ được
biểu lộ trước hết qua việc chăm sóc và lưu tâm nhằm dạy dỗ con cái mình, để đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần của
chúng. Khi chúng lớn lên, cũng vẫn sự tôn trọng và tận tụy đó thúc đẩy cha mẹ
giáo dục con cái để chúng biết sử dụng lý trí và sự tự do của mình một cách
đúng đắn.
2229. Cha mẹ là những người đầu tiên có trách nhiệm giáo dục con
cái, nên có quyền lựa chọn cho con cái một
trường học đáp ứng được những xác tín riêng của mình. Quyền này là một quyền
căn bản. Cha mẹ có bổn phận, bao nhiêu có thể, lựa chọn những trường học nào
giúp mình cách tốt nhất, để chu toàn nhiệm vụ của mình là nhà giáo dục Kitô
giáo[28]. Công quyền có bổn phận bảo
đảm quyền này của các bậc cha mẹ và tạo những điều kiện thực tế để cha mẹ thực
thi quyền đó.
2230. Khi đến tuổi trưởng thành, con cái có bổn phận và có quyền lựa chọn nghề nghiệp và bậc sống của
mình. Con cái đảm nhận những trách nhiệm mới trong tương quan đầy tin tưởng đối
với cha mẹ, sẵn sàng bàn hỏi và đón nhận các ý kiến và lời khuyên của cha mẹ.
Cha mẹ phải lưu ý để không ép buộc con cái trong việc chọn nghề nghiệp hoặc chọn
bạn trăm năm. Bổn phận giữ sự chừng mực này không ngăn cản họ – mà trái lại –
trong việc trợ giúp con cái bằng những lời khuyên khôn ngoan, nhất là khi con
cái có ý định lập gia đình.
2231. Có những người không lập gia đình, để đảm nhận việc chăm sóc
cha mẹ hoặc anh chị em mình, hoặc để dồn hết tâm trí vào một nghề nghiệp hay vì
những động lực cao đẹp khác. Họ có thể góp phần lớn lao vào lợi ích của gia
đình nhân loại.
Gia đình và Nước Trời
2232. Các mối liên hệ trong gia đình dù quan trọng, nhưng không phải
tuyệt đối. Cũng như đứa trẻ tăng trưởng trong sự trưởng thành và sự tự lập về mặt
nhân bản và thiêng liêng, thì cũng vậy, ơn gọi riêng của nó, ơn gọi đến từ
Thiên Chúa, cũng được khẳng định một cách rõ ràng hơn và mạnh mẽ hơn. Cha mẹ phải
tôn trọng ơn gọi này và khuyến khích con cái đáp trả bằng việc đi theo ơn gọi
đó. Phải xác tín rằng ơn gọi thứ nhất của Kitô hữu là đi theo Chúa Giêsu[29]. “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai,
con gái hơn Thầy thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37).
2233. Trở thành môn đệ Chúa Giêsu là chấp nhận lời mời gọi thuộc về
gia đình Thiên Chúa, sống theo cách sống
của Người: “Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh
chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12,50).
Cha mẹ phải đón nhận và tôn trọng,
với tâm tình vui mừng và tạ ơn, ơn gọi mà Chúa dành cho một người nào đó trong
số con cái mình để đi theo Người trong sự trinh khiết vì Nước Trời, trong đời sống
thánh hiến hay trong thừa tác vụ tư tế.
Số 529, 583, 695: Việc dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ
529. Việc dâng Chúa Giêsu vào
Đền thờ[30] cho thấy Người có tư cách
là “con đầu lòng” thuộc về Thiên Chúa như sở hữu riêng của Ngài[31]. Cùng với ông Simêon và bà
Anna, toàn thể dân Israel đến gặp gỡ
Đấng Cứu Độ mà họ trông chờ (truyền thống Byzantin gọi biến cố này như vậy).
Chúa Giêsu được nhìn nhận là Đấng Messia được mong đợi đã quá lâu, là “ánh sáng
muôn dân”, là “vinh quang của Israel”, nhưng cũng là “dấu hiệu cho người đời chống
báng”. Lưỡi gươm của đau khổ được tiên báo cho Đức Maria, loan báo một việc
dâng hiến khác, hoàn hảo và duy nhất, là việc dâng hiến trên thập giá, việc
dâng hiến này sẽ mang lại ơn cứu độ mà Thiên Chúa “đã dành sẵn cho muôn dân”.
583. Chúa Giêsu, cũng như các Tiên tri trước Người, tỏ lòng tôn
kính rất sâu xa đối với Đền thờ Giêrusalem. Ở đó, Người đã được thánh Giuse và
Đức Maria tiến dâng, bốn mươi ngày sau khi Người ra đời[32].
Lúc mười hai tuổi, Người quyết định ở lại trong Đen thờ để nhắc cha mẹ Người nhớ
rằng Người phải lo việc của Cha Người[33].
Trong quãng đời ẩn dật của Người, Người đều lên Đền thờ mỗi năm ít nhất để mừng
lễ Vượt Qua[34]; thừa tác vụ công khai của
Người được đánh dấu như theo nhịp điệu những lần Người hành hương lên Giêrusalem
vào những dịp lễ lớn của người Do Thái[35].
695. Sự xức dầu. Sự xức dầu
cũng là một biểu tượng nói về Chúa Thánh Thần, đến độ từ này trở thành đồng
nghĩa với Chúa Thánh Thần[36]. Trong nghi thức khai tâm
Kitô giáo, việc xức dầu là dấu chỉ bí tích của phép Thêm Sức, mà các Giáo Hội
Đông phương gọi cách chính xác là “Sự Xức dầu thánh” (“Christmatio”). Nhưng để
hiểu thật rõ, phải trở lại với cuộc xức dầu đầu tiên bởi Chúa Thánh Thần: cuộc
xức dầu cho Chúa Giêsu. “Kitô” (tiếng Do thái là Messia) có nghĩa là “người được
xức dầu” bằng Thần Khí Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, có một số nhân vật là “những
người được xức dầu” của Chúa[37], nổi bật là vua Đavid[38]. Nhưng Chúa Giêsu là Đấng
Được Xức Dầu của Thiên Chúa một cách độc nhất vô nhị: nhân tính mà Chúa Con đảm
nhận, “được xức dầu bằng Chúa Thánh Thần” một cách trọn vẹn. Chúa Giêsu được
Chúa Thánh Thần thiết đặt làm “Đức Kitô”[39].
Đức Trinh Nữ Maria thụ thai Đức Kitô bởi Chúa Thánh Thần, Đấng đã dùng Thiên thần
loan báo rằng Người là Đức Kitô khi Người giáng sinh[40],
và là Đấng thúc đẩy ông Simêon đen đền thờ để ông được thấy Đức Kitô của Chúa[41]; Đức Kitô được đầy Thánh Thần[42], và sức mạnh của Chúa Thánh
Thần xuất phát từ Đức Kitô trong những hành vi chữa lành và cứu độ của Người[43]. Cuối cùng chính Chúa Thánh
Thần làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết[44].
Lúc đó Chúa Giêsu, được thiết đặt làm Đức Kitô một cách trọn vẹn trong nhân tính
đã chiến thắng sự chết của Người[45], tuôn đổ Chúa Thánh Thần
cách tràn đầy cho đến khi “các Thánh”, trong sự kết hợp với nhân tính của Con
Thiên Chúa, làm nên “con người trưởng thành tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô”
(Ep 4,13), làm nên “Đức Kitô toàn thể” (“totum
Christum”) theo cách nói của thánh Augustinô[46].
Số 144-146, 165, 489, 2572, 2676: Ông Abraham và bà
Sara là những mẫu gương đức tin
144. Vâng phục (ob-audire:
nghe, lắng nghe) bằng đức tin là tự nguyện quy thuận lời đã nghe, bởi vì chân
lý của lời đó được Thiên Chúa là chính Chân Lý, bảo đảm. Thánh Kinh trưng dẫn tổ
phụ Abraham như gương mẫu của sự vâng phục đó. Còn Đức Trinh Nữ Maria là người
thể hiện sự vâng phục đó cách hoàn hảo.
145. Thư gửi tín hữu Do thái, trong bài tán dương đức tin của các bậc
tổ tiên, đã đặc biệt nhấn mạnh đến đức tin của ông Abraham: “Nhờ đức tin, ông
Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận
làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu” (Dt 11,8)[47]. Nhờ đức tin, ông đã sống
như kẻ mới nhập cư và người lữ hành trong Đất hứa[48].
Nhờ đức tin, bà Sara đã thụ thai người con của lời hứa. Cuối cùng, nhờ đức tin,
ông Abraham đã dâng hiến con một mình làm hy lễ[49].
146. Như vậy, ông Abraham đã thực hiện điều Thư gửi tín hữu Do thái
định nghĩa về đức tin: “Đức tin là bảo đảm cho những điều hy vọng, là bằng chứng
của những điều ta không thấy” (Dt 11,1). “Ông Abraham đã tin Thiên Chúa, và vì
thế được kể là người công chính” (Rm 4,3)[50].
“Nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh” (Rm 4,20), ông Abraham trở thành “tổ phụ của
tất cả những người tin” (Rm 4,11.18)[51].
165. Chính lúc đức tin bị cám dỗ, chúng ta phải hướng về các nhân chứng đức tin: về ông Abraham, là
người “mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin” (Rm
4,18); về Đức Trinh Nữ Maria, là người, “trong cuộc lữ hành đức tin”[52], đã tiến đến tận “đêm tối của
đức tin”[53] khi tham dự vào đêm tối là
cuộc khổ hình thập giá của Con ngài, và đêm tối là phần mộ của Người[54]; và chúng ta phải hướng về
biết bao nhiêu nhân chứng đức tin khác nữa: “Được ngần ấy nhân chứng đức tin
như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói
buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Chúa
Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,1-2).
489. Suốt thời Cựu Ước, sứ vụ của Đức Maria đã được chuẩn bị bởi sứ vụ của những phụ nữ thánh thiện. Ngay từ đầu,
là bà Evà: bất chấp sự bất tuân phục của mình, bà đã nhận được Lời Hứa rằng một
hậu duệ của bà sẽ chiến thắng ma quỷ[55]
và Lời Hứa rằng bà sẽ là mẹ của tất cả chúng sinh[56].
Do lời hứa đó, bà Sara, mặc dù đã cao niên, vẫn thụ thai một người con trai[57]. Trái với mọi niềm hy vọng
nhân loại, Thiên Chúa đã chọn những gì bị coi như bất lực và yếu đuối[58] để chứng tỏ Ngài luôn trung
tín với lời Ngài đã hứa: bà Anna, mẹ của tiên tri Samuel[59],
bà Đêbôra, bà Ruth, bà Juđitha, bà Esther và nhiều phụ nữ khác. Đức Maria “trổi
vượt giữa những người khiêm hạ và nghèo hèn của Chúa, những người hy vọng và
đón nhận ơn cứu độ từ nơi Ngài với lòng tin tưởng. Cuối cùng, sau sự trông đợi
lâu dài Lời Chúa đã hứa, thời gian đã đến hồi viên mãn và một Nhiệm cục mới đã
bắt đầu với Đức Maria, người Con Gái Sion cao trọng nhất”[60].
2572. Trong cuộc thanh luyện cuối cùng về đức tin, Thiên Chúa đã
đòi ông Abraham, người “đã nhận được lời hứa” (Dt 11,17), phải sát tế đứa con
mà Thiên Chúa đã ban cho ông. Ông Abraham vẫn vững tin: “Lễ toàn thiêu, chính
Thiên Chúa sẽ liệu” (St 22,8), vì nghĩ rằng “Thiên Chúa có quyền năng cho người
chết trỗi dậy” (Dt 11,19). Như vậy, vị tổ phụ của những người tin đã nên giống
Chúa Cha, Đấng chẳng tha chính Con Một của Ngài, nhưng đã trao nộp Người vì hết
thảy chúng ta[61]. Nhờ cầu nguyện con người
được phục hồi tình trạng “giống như Thiên Chúa” và được tham dự vào quyền năng
của tình yêu Thiên Chúa, là quyền năng cứu độ muôn người[62].
2676. Hai động thái (một là “ngợi khen” Chúa vì “những điều cao cả”
Ngài đã làm cho Mẹ; hai là dâng lên Mẹ Chúa Giêsu những lời cầu khẩn và ca ngợi
của con cái Thiên Chúa) của kinh nguyện dâng lên Đức Maria được diễn tả cách độc
đáo trong kinh Kính Mừng:
“Kính mừng Maria” (Ave, Maria – Laetare, Maria): lời chào của thiên
sứ Gabriel mở đầu kinh Kính mừng. Chính Thiên Chúa, qua vị thiên sứ của Ngài,
chào Đức Maria. Lời kinh của chúng ta dám lặp lại lời chào Đức Maria với tâm
tình của Thiên Chúa khi Ngài đoái thương nhìn đến người nữ tỳ hèn mọn của Ngài[63] và hân hoan vì niềm vui mà
Thiên Chúa gặp được nơi Đức Maria[64].
“Bà đầy ân phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà”: hai phần lời chào của vị
thiên sứ soi sáng cho nhau. Đức Maria đầy ân sủng vì Chúa ở cùng Mẹ. Ân sủng,
mà Mẹ được ban tràn đầy, chính là sự hiện diện của Đấng là nguồn mạch mọi ân sủng.
“Reo vui lên… hỡi thiếu nữ Giêrusalem… Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự
giữa ngươi” (Sp 3,14.17a). Đức Maria, vì được chính Chúa đến và ngự nơi Mẹ, nên
Mẹ chính là thiếu nữ Sion, là Hòm bia Giao Ước, nơi vinh quang Chúa ngự trị:
chính Mẹ là “nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại” (Kh 21,3). Được “đầy ơn
phúc”, Mẹ đã tận hiến cho Đấng đến ngự nơi Mẹ và là Đấng Mẹ sắp trao ban cho thế
gian.
“Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ”.
Sau lời chào của thiên sứ, chúng ta lấy lời chào của bà Êlisabeth làm lời chào
của chúng ta. “Được tràn đầy Thánh Thần” (Lc 1,41), bà Êlisabeth là người đầu
tiên trong chuỗi dài những thế hệ tung hô Đức Maria là người có phúc[65]: “Em thật có phúc vì đã
tin…” (Lc 1,45). Đức Maria “có phúc lạ hơn mọi người nữ” vì Mẹ đã tin rằng lời
Chúa sẽ được hoàn thành. Nhờ đức tin, ông Abraham đã trở thành phúc lành cho “mọi
gia tộc trên mặt đất” (St 12,3). Nhờ đức tin, Đức Maria đã trở thành Mẹ của các
kẻ tin; nhờ Mẹ, mọi dân tộc trên mặt đất được đón nhận Đấng là chính phúc lành
của Thiên Chúa: “Giêsu, con lòng bà gồm phúc lạ”.
Bài Ðọc I: Hc 3, 3-7. 14-17a
“Ai kính sợ Chúa, thì thảo
kính cha mẹ”.
Trích sách Huấn Ca.
Thiên Chúa suy tôn người cha
trong con cái; quyền lợi bà mẹ, Người củng cố trên đoàn con. Ai yêu mến cha
mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho
tàng. Ai thảo kính cha mình, sẽ được vui mừng trong con cái, khi cầu xin, người
ấy sẽ được nhậm lời. Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. Ai vâng lời
cha, sẽ làm vui lòng mẹ.
Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi
già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống. Nếu tinh thần người
sa sút, thì hãy rộng lượng, ngươi là kẻ trai tráng, chớ đành khinh dể người. Vì
của dâng cho cha, sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ, sẽ đền bù tội lỗi,
và xây dựng đức công chính của ngươi.
Ðó là lời Chúa.
Đáp ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5
Ðáp: Phúc
thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người.
Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào
tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm
ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.
Ðáp: Phúc
thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy
hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như những chồi non của
khóm ô-liu ở chung quanh bàn ăn của bạn. Ðó là phúc lộc dành để cho người biết
tôn sợ Ðức Thiên Chúa.
Ðáp: Phúc
thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người.
3) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion
chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem hết mọi ngày
trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con!
Ðáp: Phúc
thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người.
Bài Ðọc II: Cl 3, 12-21
“Về đời sống gia đình trong
Chúa”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi
tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, như những người
được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em
hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu
đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải oán trách
người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và
trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn
thiện. Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em, sự bình an
mà anh em đã được kêu gọi tới để làm nên một thân thể. Anh em hãy cảm tạ Thiên
Chúa. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. Với tất cả sự khôn
ngoan, anh em hãy học hỏi và nhủ bảo lẫn nhau. Hãy dùng những bài thánh vịnh,
thánh thi và thánh ca của Thần khí, cùng với lòng tri ân, để hát mừng Thiên
Chúa trong lòng anh em. Và tất cả những gì anh em làm, trong lời nói cũng như
trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ
Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.
Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng
trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng
đay nghiến nó. Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là
đẹp lòng Chúa. Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng
nên nhát đảm sợ sệt.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Cl 3, 15a. 16a
Alleluia, alleluia! - Nguyện cho
bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ
dồi dào trong anh em. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 2, 22-40
“Con trẻ lớn lên, đầy khôn
ngoan”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật
Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa,
như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người
thánh thuộc về Chúa”. Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật
Chúa, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giêrusalem có một người
tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi
an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng:
Ông sẽ không chết trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục,
ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người
những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên
Chúa rằng: “Lạy Chúa, bây giờ, Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời
Chúa, vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân,
là ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa”.
Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những
điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người
rằng: “Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ
hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà,
một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!”
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna,
con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với
chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi bốn tuổi. Bà không rời
khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng
đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang
trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều
theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn
lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
Ðó là lời Chúa.
[4] ĐGH Phaolô VI, Homilia
in templo Annuntiationis beatae Mariae Virginis in Nazareth (5-1-1964): AAS
56 (1964) 167-168.
[8] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16; x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông
huấn Familiaris consortio, 21: AAS 74
(1982) 105.
[13] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio, 21: AAS 74 (1982) 105; x. CĐ Vaticanô II, Hiến
chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57
(1965) 16.
[24] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16; x. Bộ Giáo Luật, điều 1136.
[65] X. Lc 1,48.