GHI CHÚ GIÁO LÝ VỀ CÁC GIỚI HẠN LUÂN LÝ CỦA
VIỆC THAO TÚNG KỸ THUẬT TRÊN THÂN
THỂ CON NGƯỜI
Ủy ban Giáo lý trực thuộc Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ
1. Kỹ thuật hiện
đại cung cấp ngày càng nhiều những phương tiện như hóa chất, phẫu thuật, di
truyền, nhằm can thiệp vào chức năng, cũng như thay đổi diện mạo của cơ thể con
người. Những phát triển kỹ thuật này đã cung cấp khả năng chữa trị nhiều bệnh tật
cho con người và hứa hẹn điều trị nhiều bệnh tật hơn nữa. Điều này quả là một lợi
ích lớn lao cho nhân loại. Tuy nhiên, kỹ thuật hiện đại không chỉ tạo ra những khả
năng can thiệp hữu ích, nhưng còn tạo ra những can thiệp gây tổn hại đến sự thăng tiến thực sự của nhân vị.
Cần có sự phân định luân lý thận trọng để xác định những khả năng nào nên và khả
năng nào không nên được thực hiện nhằm
thăng tiến thiện ích cho con
người. Để thực hiện sự phân định này, cần phải thực thi các tiêu chuẩn tôn trọng
trật tự tạo dựng đã được ghi khắc trong bản tính con người.
TRẬT TỰ TỰ NHIÊN
2. Một nguyên lý nền
tảng của niềm tin Kitô giáo là có một trật tự trong thế giới tự nhiên đã được
thiết định bởi Đấng Tạo Hóa và trật tự tạo dựng này là tốt lành (St 1,31; Tv 19,1…).
Giáo hội đã luôn khẳng định sự tốt lành thiết yếu của trật tự tự nhiên và kêu gọi
chúng ta tôn trọng trật tự đó. Công đồng Vatican II đã dạy: “Từ sự thật được tạo
dựng, mọi vật đều mang trong mình tính bền vững, chân thật và thiện
hảo cùng với những định luật và trật tự riêng của nó. Chúng ta phải tôn
trọng những điều ấy, qua việc nhìn nhận các phương pháp tương hợp với các
ngành khoa học và nghệ thuật khác nhau."[1]
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã giải thích rằng thế giới tự nhiên có một “trật tự
sẵn có”, một “ngữ pháp” vốn “biểu lộ các mục đích và tiêu chí hầu chúng ta sử dụng
khôn ngoan chứ không phải khai thác cách tùy tiện”[2].
Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảnh báo chống lại một “mô hình kỹ thuật” coi thế giới
tự nhiên như là “thứ gì đó vô hình dạng, hoàn toàn có thể thao túng”[3].
Ngài nhận xét rằng con người đã luôn can thiệp vào tự nhiên,
nhưng trong một
khoảng thời gian dài thì điều này có nghĩa là đang phù hợp và đang tôn trọng những
khả năng do chính các sự vật
mang lại. Đó là một vấn đề của việc tiếp nhận điều mà chính thiên nhiên cho
phép, như thể là từ chính bàn tay của thiên nhiên. Giờ đây, trái lại, chúng ta
là những người đặt bàn tay mình trên mọi sự, nỗ lực để rút lấy mọi thứ có thể từ chúng trong khi
thường xuyên phớt lờ hoặc lãng quên thực tại trước mắt chúng ta.[4]
3. Điều gì đúng với
toàn thể thụ tạo thì cũng đúng với bản tính riêng biệt của con người: có một trật
tự trong bản tính con người mà chúng ta được mời gọi tôn trọng. Thực vậy, bản
tính con người vô cùng xứng đáng được tôn trọng vì loài người có một vị trí duy
nhất trong trật tự sáng tạo, được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa (St
1,27).
Để đạt được sự viên
mãn đời người, để tìm được hạnh phúc đích thực, chúng ta phải tôn trọng trật tự
tự nhiên. Chúng ta không tạo ra bản tính con người. Đó là quà tặng từ Đấng Tạo Hóa
nhân lành. Chúng ta cũng không “sở hữu” bản tính con người của mình như thể đó
là thứ mà chúng ta có thể tự do sử dụng theo bất kỳ cách nào chúng ta muốn. Vì
vậy, sự tôn trọng thực sự đối với phẩm giá con người đòi hỏi rằng những quyết định
về việc sử dụng kỹ thuật phải được hướng dẫn bởi sự tôn trọng thực sự đối với
trật tự tự nhiên.
4. Một khía cạnh tối
quan trọng về trật tự của tự
nhiên được tạo dựng bởi Thiên Chúa là sự duy nhất xác hồn nơi mỗi con người.
Trong suốt chiều dài lịch sử, Giáo Hội đã phản đối các quan niệm nhị nguyên về
con người vốn không coi thân xác là một thành phần nội tại của con người, cứ như
thể linh hồn tự nó là đầy đủ rồi, và thân xác chỉ là một công cụ được linh hồn
sử dụng.[5] Chống lại thuyết nhị nguyên, xưa kia cũng như
ngày nay, Giáo Hội luôn giữ vững lập trường rằng có sự phân biệt giữa linh hồn
và thân xác, nhưng cả hai đều là yếu tố cấu thành con người, bởi vì nơi con người,
“tinh thần và thể chất không
phải là hai bản tính được nối kết lại, nhưng sự kết hợp của chúng tạo thành một
bản tính duy nhất”[6]
. Linh hồn không tồn tại độc lập bên ngoài cơ thể, và cũng không thể chuyển đổi
hay di chuyển từ cơ thể này sang một cơ thể khác. Điều này có nghĩa là một linh
hồn không bao giờ có thể ở trong một thân xác nào khác ngoài thân xác mà nó đã
xuất hiện. Điều đó có nghĩa, là một con người nhất thiết phải bao gồm thể xác.
“Con người là những hữu thể thể lý tồn tại trong cùng một thế giới với các thực
thể thể lý khác.”[7]
5. Tính thân xác con
người có mối liên hệ nội tại với sự phân biệt giới tính. Cũng giống như mỗi người
nhất thiết phải có một thân xác, thì thân xác con người, cũng giống như các
loài động vật có vú khác, được phân biệt về mặt giới tính là nam hay là nữ:
“Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27)[8].
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc nhở chúng ta rằng, trong Sách Sáng Thế
cho biết rằng “Con người được tạo dựng ‘từ lúc khởi đầu' là nam, và là nữ: cuộc
sống của toàn thể nhân loại—dù là của các cộng đồng nhỏ hay của toàn xã hội—được
đánh dấu bởi hai phái tính nguyên thủy này.”[9]
Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo khẳng định: “Người nam và người nữ đã được
tạo dựng, nghĩa là do ý định của Thiên Chúa: một mặt, hoàn toàn bình đẳng như
những nhân vị; mặt khác trong bản thể tương ứng của họ là người nam hay người nữ. ‘Là nam’ hay ‘là nữ’ là một thực tại tốt
lành và được Thiên Chúa muốn.”[10]
Giống như thân
xác là một khía cạnh cơ bản của hiện hữu con người, thì việc “là người nam” hay
“là người nữ” cũng là một khía cạnh cơ bản của sự hiện hữu là một con người, thể
hiện mục đích kết hợp và sinh sản của một người. Bộ Giáo lý Đức tin nhấn mạnh rằng
cần ghi nhận tầm
quan trọng và ý nghĩa của sự khác biệt giới tính, như một thực tại đã ghi
khắc nơi người nam và người nữ.
“Tính dục đặc trưng cho người nam và người nữ không chỉ về mặt thể xác mà còn về
mặt tâm lý và thiêng liêng, ghi dấu ấn nơi tất cả biểu hiện của họ”. Nó không
thể bị giảm thiểu thành một dữ kiện sinh học thuần túy và tầm thường, mà đúng
hơn “là một thành phần cơ bản của nhân cách, một trong những cách thức hiện hữu,
biểu hiện, tương giao với người khác, cảm nhận, diễn tả và sống tình người”. Khả
năng yêu thương này – phản ánh hình ảnh của Thiên Chúa Đấng là Tình Yêu – được
bộc lộ nơi đặc tính phu thê của thân xác, trong đó nam tính hay nữ tính của con
người được biểu lộ.[11]
6. Trong xã hội
đương đại của chúng ta, có những người không có quan niệm về con người như vậy.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc đến một ý thức hệ cổ súy cho “bản sắc cá nhân và
sự thân thiết thuộc cảm xúc mà hoàn toàn tách rời khỏi sự khác biệt sinh học giữa
nam và nữ,” trong đó “căn tính con người trở thành sự lựa chọn của cá nhân, một
sự lựa chọn cũng có thể thay đổi theo thời gian.”[12]
Đáp lại điều này, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định:
Cần nhấn mạnh rằng
“người ta có thể phân biệt, nhưng không thể tách rời giới tính sinh học (sex)
và vai trò văn hóa-xã hội của giới (gender)”… Thông cảm với sự yếu đuối của con
người hay sự phức tạp của cuộc sống là một chuyện, còn chấp nhận những ý thức hệ muốn tách biệt hai khía cạnh vốn không thể
tách biệt của thực tại lại là chuyện khác. Chúng ta đừng sa vào tội cả gan thay
thế Đấng Tạo Hóa. Chúng ta là những thụ tạo, chúng ta không toàn năng. Công
trình tạo dựng có trước chúng ta và phải được đón nhận như một quà tặng. Đồng
thời, chúng ta được mời gọi bảo vệ nhân tính của mình, và điều đó trước hết có
nghĩa là đón nhận nhân tính ấy và tôn trọng nó như nó vốn đã được tạo dựng nên.[13]
NHỮNG CAN THIỆP KỸ
THUẬT
7. Con người, thân
xác và linh hồn, là nam hay nữ, đều có một trật tự và cùng đích nền tảng mà
tính toàn vẹn của chúng phải được tôn trọng. Bởi vì trật tự và cùng đích này,
nên không ai, bệnh nhân, bác sĩ, nhà nghiên cứu hay bất kỳ ai khác, có quyền vô
hạn trên thân thể; tất cả đều phải tôn trọng trật tự và cùng đích được ghi khắc
nơi thân xác con người. Đức Giáo Hoàng Piô XII đã dạy rằng bệnh nhân “không phải
là chủ tuyệt đối của chính mình, của thân thể và của tâm trí. Anh ta không thể
tự ý quyết định chính thân thể mình như ý anh muốn.”[14]
Liên quan đến các bộ phận và quyền hạn của bản chất con người, Đức Giáo Hoàng
Piô XII tiếp tục khẳng định rằng bệnh nhân “là người sử dụng, chứ không phải là
chủ sở hữu” và do đó, “không có quyền lực vô hạn để thực hiện các hành vi gây
ra việc cắt bỏ một phần thân thể hoặc phá hủy một phần chức năng thân thể.”[15]
Thân xác không phải là một đối
tượng, một công cụ đơn thuần phục vụ cho linh hồn mà mỗi người có thể tùy ý sử
dụng theo ý muốn của mình, nhưng thân xác là một phần cấu thành của chủ thể người;
đó là một món quà phải được đón nhận, được tôn trọng và được chăm sóc như một
phần thiết yếu của con người. Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng khẳng định: “Việc
đón nhận thân xác của chúng ta như một món quà từ Thiên Chúa là điều sống còn để
hoan nghênh và chào đón toàn bộ thế giới như một hồng ân từ Chúa Cha và từ ngôi
nhà chung của chúng ta, trong khi những suy nghĩ rằng chúng ta có toàn quyền
làm chủ thân xác, thường dễ dàng dẫn đến suy nghĩ chúng ta có quyền tuyệt đối
trên công trình sáng tạo.”[16]
8. Truyền thống luân
lý của Giáo hội nhìn nhận hai trường hợp chính yếu trong đó những can thiệp kỹ
thuật trên thân thể người có thể hợp luân lý: 1) khi những can thiệp này nhằm sửa
chữa một khuyết điểm trong thân thể; 2) khi việc hy sinh một phần của thân thể
là cần thiết cho ích lợi chung của toàn thân. Những loại can thiệp kỹ thuật này
tôn trọng trật tự nền tảng và cùng đích cố hữu của con người. Tuy nhiên, cũng
có những can thiệp kỹ thuật khác không nhằm mục đích sửa chữa khiếm khuyết trong thân thể, cũng không hy sinh
một phần thân thể vì lợi ích chung của toàn thân, mà là nhằm thay đổi trật tự nền
tảng của thân thể. Những can
thiệp như vậy không tôn trọng trật tự và cùng đích được ghi khắc trong con người.
PHỤC HỒI KHIẾM
KHUYẾT TRONG THÂN THỂ
9. Phần lớn thực
hành y khoa liên quan đến việc sử dụng kỹ thuật sẵn có để sửa chữa các khiếm
khuyết trong thân thể, thường
là khi nó bị ảnh hưởng bởi một số chấn thương hoặc bệnh tật.[17]
Ý định sửa chữa những khiếm khuyết trong thân thể cho thấy sự tôn trọng trật tự nền tảng của thân thể, điều này rất đáng khen ngợi. Thực vậy,
mỗi chúng ta đều có bổn phận chăm sóc cho thân thể của mình. Các Chỉ thị về Đạo
đức và Tôn giáo đối với các Dịch vụ Chăm sóc Sức khỏe Công giáo khẳng định rằng
“mọi người buộc phải sử dụng các phương tiện thông thường[18]
để bảo vệ sức khỏe của mình.”[19]
Tuy nhiên, nghĩa vụ này không còn tồn tại khi lợi ích của việc can thiệp không
còn tương xứng với gánh nặng liên quan.[20]
Do đó, việc đánh giá liệu một can thiệp y khoa có tính sửa chữa có hợp pháp về
mặt đạo đức hay không đòi hỏi phải xem xét không chỉ đối tượng của hành động và
ý định thực hiện hành động đó, mà còn cả những hậu quả của hành động, điều này
sẽ bao gồm việc đánh giá về khả năng mang lại lợi ích rõ rệt cho người đó và so
sánh lợi ích mong đợi với gánh nặng dự kiến. Đôi khi những lợi ích mong đợi (chẳng
hạn như sức khỏe hoặc chức năng được cải thiện) sẽ lớn hơn gánh nặng dự đoán
(chẳng hạn như chi phí hoặc đau đớn thể lý liên quan đến thủ thuật), nhưng đôi
khi chúng không hẳn là như vậy.
10. Một phân tích
tương tự liên quan đến việc xem xét tính luân lý của các can thiệp được thực hiện
để cải thiện thân thể không phải về chức năng của nó mà là về vẻ bên ngoài, vốn
có thể liên quan đến việc phục hồi hoặc cải thiện vẻ bên ngoài. Về vấn đề này,
Đức Giáo hoàng Piô XII thừa nhận rằng vẻ đẹp thể chất của một người “tự nó là một
điều tốt, mặc dù phụ thuộc vào những điều khác cao hơn nhiều, và do đó là quý
giá và đáng mơ ước.”[21]
Ngài cũng tiếp tục chỉ ra rằng vẻ đẹp hình thể “không ở đỉnh cao của bậc thang
giá trị, vì nó là một điều tốt đẹp không phải là tinh thần cũng không phải là
thiết yếu”; thật vậy, nó là “một điều tốt, nhưng là một điều tốt thể lý... Giống
như một món quà tốt lành đến từ Thiên Chúa, nó phải là được quý trọng và quan
tâm, tuy nhiên, không đòi hỏi phải sử dụng đến các phương tiện ngoại thường như
một nghĩa vụ.”[22]
Bởi vì phân tích luân lý đòi hỏi những lợi ích mong đợi của một thủ thuật phải
tương xứng với gánh nặng và rủi ro dự kiến, một mức độ gánh nặng và rủi ro cao
hơn có thể được biện minh trong trường hợp một người tìm cách phục hồi các khiếm
khuyết để đạt được diện mạo bình thường hơn là trong trường hợp một người đã có
ngoại hình bình thường, và người tìm kiếm, như Giáo hoàng Piô XII đã nói, "sự hoàn hảo của diện mạo
của mình."[23]
Tuy nhiên, cả hai điều này đều có thể hợp pháp về mặt đạo đức, nếu được thực hiện
với mục đích đúng đắn và trong những hoàn cảnh phù hợp.[24]
SỰ HY SINH MỘT BỘ
PHẬN VÌ LỢI ÍCH TOÀN THỂ
11. Vị tiền nhiệm
của Đức Giáo Hoàng Piô XII là Đức Giáo Hoàng Piô XI cũng đã nhấn mạnh sự cần
thiết phải tôn trọng trật tự nền tảng của thân xác. Ngài khẳng định rằng, như một
quy luật, người ta không được phép “phá hủy hoặc cắt bỏ” các bộ phận của cơ thể
mình. Tuy nhiên, đồng thời ngài khẳng định rằng có thể có những trường hợp ngoại
lệ khi lợi ích của toàn bộ thân thể đang bị đe dọa.
Giáo lý Kitô giáo
xác định, và ánh sáng của lý trí con người làm cho điều đó trở nên thật rõ
ràng, rằng các cá nhân không có quyền nào khác đối với các bộ phận cơ thể của họ
ngoài quyền tuân theo mục đích tự nhiên của chúng; và họ không được tự do phá hủy
hoặc cắt bỏ các bộ phận thân
thể của mình, hoặc bằng bất kỳ cách thức nào khác làm cho chúng trở nên mất chức
năng tự nhiên của chúng, trừ khi không có
cách nào khác để đảm bảo lợi ích của toàn bộ cơ thể.[25]
Giáo huấn này đã
được phát triển thêm bởi Đức Giáo Hoàng Piô XII, ngài giải thích rằng:
Mỗi cơ quan cụ thể
đều phụ thuộc vào thân thể
như một toàn thể và phải nhượng bộ cho sự toàn thể đó trong trường hợp có xung
đột. Do đó, người được trao quyền sử dụng toàn bộ thân thể thì có quyền hy sinh một cơ quan cụ thể, nếu
việc duy trì hoặc sự hoạt động của nó gây ra tác hại đáng kể cho toàn bộ thân thể, mà sự tác hại này không thể tránh khỏi
bằng cách nào khác.[26]
12. Đức Giáo
hoàng Piô XII đặt ra ba điều kiện cần phải đáp ứng để một sự can thiệp y khoa
“bao gồm việc cắt bỏ về mặt giải phẫu hoặc chức năng”, được cho phép về luân lý:
Thứ nhất, việc giữ
lại hoặc sự hoạt động của một cơ quan cụ thể trong toàn bộ thân thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho thân thể hoặc tạo thành một mối đe dọa.
Thứ hai, sự thiệt
hại này là không thể tránh được, hoặc ít nhất là giảm đi đáng kể, nếu không bằng
cách cắt bỏ đang được đề cập và hiệu quả của việc cắt bỏ được đảm bảo chắc chắn.
Cuối cùng, có thể
trông đợi một cách hợp lý rằng tác động tiêu cực, tức là sự cắt bỏ và hậu quả của
nó, sẽ được bù đắp bằng tác động tích cực: loại bỏ mối nguy hiểm cho toàn bộ thân thể, giảm bớt đau khổ ...[27]
Những điều kiện
này đảm bảo sự tôn trọng đúng đắn đối với trật tự nền tảng của con người. Trong
đó các điều kiện xác định rằng sự hy sinh của một phần thân thể tự nó không phải là điều được tìm kiếm,
nhưng nó chỉ được chấp nhận khi thực sự là phương sách bất đắc dĩ cần thiết cho
lợi ích của cơ thể, khi không có lựa chọn nào khác để đảm bảo lợi ích của toàn
bộ thân thể.
NHỮNG CỐ GẮNG
THAY ĐỔI TRẬT TỰ NỀN TẢNG CỦA THÂN THỂ CON NGƯỜI
13. Trong khi hai
loại can thiệp kỹ thuật nói trên coi trật tự nền tảng của con người như là một trật tự được trao ban và
không có ý định thay đổi nó, thì có một loại can thiệp khác coi trật tự này là
không thỏa đáng theo một cách nào đó và đề xuất một trật tự đáng ước ao hơn, một
trật tự được thiết kế lại. Một số đề xuất về kỹ thuật di truyền thuộc dạng này
là: những kỹ thuật không nhằm sửa chữa một số khiếm khuyết, mà là những kỹ thuật
thao túng không mang tính điều trị đối với chất liệu di truyền của con người. Bộ
Giáo lý Đức tin đã giải thích rằng “các quy trình được sử dụng trên tế bào thân
(somatic cells) cho các mục đích nghiêm ngặt điều trị về nguyên tắc là hợp pháp
về mặt luân lý” vì các quy trình này “tìm cách khôi phục cấu hình di truyền
bình thường của bệnh nhân hoặc để giải quyết thiệt hại gây ra do bất thường di
truyền hoặc do những vấn đề liên quan đến các bệnh lý khác.”[28]
Ngược lại, kỹ thuật di truyền “cho các mục đích khác ngoài điều trị y khoa” là
không được chấp nhận về mặt luân lý.[29]
Ở đây, ý hướng là thay thế trật tự tự nhiên bằng thứ được tưởng tượng là một trật
tự mới và tốt hơn. Bộ GLĐT cảnh
báo rằng “trong nỗ lực tạo ra một kiểu loại
người mới, người ta có thể nhận ra một
yếu tố mang tính ý thức hệ trong đó con người cố gắng chiếm vị trí của Đấng
Tạo Hóa”.[30]
Theo cách tương tự, một số đề xuất về “tăng cường điều khiển học” cũng nhằm mục
đích tái thiết kế trật tự nền tảng của con người và tạo ra một kiểu loại người
mới bằng cách thay thế một số hoặc tất cả[31]
cơ quan thân thể bằng các thiết
bị nhân tạo. Những loại can thiệp kỹ thuật này, trong hầu hết các trường hợp,
hiện đang trong giai đoạn phát triển hoặc đang được xem xét về mặt lý thuyết.
14. Tuy nhiên, vấn
đề đang thực hành rộng rãi ngày nay , và đáng quan tâm nhiều, là phạm vi các
can thiệp kỹ thuật được cổ súy bởi số
đông trong xã hội chúng ta như là điều trị cho cái gọi là “sự chán ghét giới
tính” hoặc “không tương hợp giới tính"[32].
Những can thiệp này liên quan đến việc sử dụng các kỹ thuật phẫu thuật hoặc hóa
chất nhằm thay đổi các đặc điểm giới tính của thân thể bệnh nhân thành các đặc điểm của giới tính
ngược lại hoặc để mô phỏng chúng. Trong trường hợp các trẻ em, việc thay đổi
các đặc điểm giới tính được chuẩn bị bằng cách sử dụng hóa chất ngăn cản dậy
thì làm ngưng tiến trình dậy thì tự nhiên và ngăn chặn sự phát triển của một số
đặc điểm giới tính ngay từ đầu.
15. Những can thiệp
kỹ thuật này không được biện minh về mặt luân lý như là nỗ lực sửa chữa khiếm
khuyết trong thân thể hoặc là
nỗ lực hy sinh một phần thân
thể vì lợi ích của toàn bộ. Trước hết, họ không sửa chữa một khiếm khuyết trong thân thể: không có rối loạn trong thân thể cần được giải quyết; các cơ quan cơ
thể là bình thường và khỏe mạnh. Thứ hai, các can thiệp không hy sinh một phần
của cơ thể vì lợi ích của toàn thể. Khi một phần của cơ thể được hy sinh một
cách hợp pháp vì lợi ích của toàn bộ cơ thể, cho dù bằng cách loại bỏ toàn bộ
hoặc tái cấu trúc phần lớn một cơ quan thân thể, việc loại bỏ hoặc tái cấu trúc lại cơ quan thân thể được miễn cưỡng chấp nhận như là cách
duy nhất để giải quyết mối đe dọa nghiêm trọng đối với thân thể. Ngược lại, ở đây, việc loại bỏ hoặc
tái cấu trúc một bộ phận là được ước ao cho chính nó.[33]
16. Đáng lẽ, thay
vì sửa chữa một khiếm khuyết nào đó của thân thể, hoặc hy sinh một bộ phận thân thể vì lợi ích của toàn thân, những can thiệp này nhằm mục đích biến đổi
thân thể làm cho nó càng giống
hình thể của giới tính ngược lại càng tốt, trái ngược với hình dáng tự nhiên của
thân thể. Chúng là những cố gắng
thay đổi trật tự nền tảng và mục đích của thân thể, và thay thế nó bằng một thứ gì khác.
17. Có nhiều loại
can thiệp được sử dụng cho mục đích này, tương ứng với nhiều phương thức khác
nhau mà sự khác biệt giới tính ảnh hưởng đến các bộ phận khác nhau của cơ thể.
Hiện nay, không phải tất cả những ai tìm kiếm loại “điều trị” này cũng đều trải qua tất cả các can thiệp
hiện có, bởi họ không thể làm thế hoặc họ chọn không làm như vậy vì một số lý
do; thay vào đó, họ thường lựa chọn giới hạn một số trong các can thiệp hiện
có. Những can thiệp này khác nhau về mức độ tạo ra những thay đổi trong thân thể. Tuy nhiên, chúng đều giống nhau ở
cùng một mục đích cơ bản: đó là biến đổi các đặc điểm giới tính của thân
thể thành những đặc điểm của giới
tính ngược lại.
18. Do đó, những
can thiệp như vậy là không tôn trọng trật tự nền tảng của con người như một duy
nhất nội tại của thân xác và linh hồn, với một thân thể được phân biệt giới tính. Thân xác là một
khía cạnh nền tảng của sự hiện hữu con người, và sự khác biệt về giới tính của thân thể cũng vậy. Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
Công giáo không được thực hiện các can thiệp, dù là phẫu thuật hay hoá chất, nhằm
mục đích biến đổi các đặc điểm giới tính của thân thể con người thành các đặc điểm của giới tính
ngược lại hoặc tham gia vào việc phát triển các loại quy trình như thế. Họ phải
dùng tất cả các nguồn lực thích hợp để giảm bớt sự đau khổ của những người đang
chiến đấu với sự không phù hợp về giới tính, nhưng các phương tiện được sử dụng
phải tôn trọng trật tự nền tảng của thân thể con người. Chỉ bằng cách sử dụng các phương tiện phù hợp luân lý, các
nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ mới thể hiện sự tôn trọng đầy đủ đối với
phẩm giá của từng con người.
KẾT LUẬN: NHỮNG GIỚI
HẠN LUÂN LÝ ĐỐI VỚI VIỆC THAO TÚNG KỸ THUẬT TRÊN THÂN THỂ CON NGƯỜI
19. Việc sử dụng kỹ thuật để thao túng thế giới
tự nhiên có một lịch sử bắt nguồn từ việc sử dụng các công cụ thời xưa. Điều khác biệt trong thời đại của chúng
ta, đó là những khả năng mở rộng to lớn mà kỹ thuật hiện đại mang lại và sự
phát triển nhanh chóng của những khả năng luôn mới mẻ này. Vì ranh giới của những
khả năng kỹ thuật tiếp tục mở rộng, điều bắt buộc là phải xác định các tiêu chuẩn
luân lý để hướng dẫn việc sử dụng kỹ thuật của chúng ta . Vì phạm vi những gì
chúng ta có thể thực hiện luôn mở rộng, chúng ta phải đặt câu hỏi: điều gì chúng ta nên
làm hay không nên làm. Một tiêu chí không thể thiếu trong việc đưa ra
quyết định như vậy, là trật tự nền tảng của thế giới thụ tạo. Cách thức chúng
ta sử dụng kỹ thuật phải tôn trọng trật tự này.
20. Chắc chắn, nhiều người đang chân thành
tìm kiếm cách thức đáp trả với các vấn nạn thực tế và sự đau khổ thực sự.[34]
Một số cách tiếp cận mà không tôn trọng cái trật tự nền tảng lại tỏ ra cung cấp
nhiều giải pháp. Tuy nhiên, việc dựa trên các cách tiếp cận đó để tìm các giải
pháp là một sai lầm. Một cách tiếp cận không tôn trọng trật tự nền tảng sẽ
không bao giờ thực sự giải quyết vấn đề theo quan điểm; cuối cùng, nó chỉ tạo
ra nhiều vấn đề hơn nữa. Truyền thống Hippocrates trong y khoa kêu gọi tất cả các
nhân viên y tế, trước hết và trên hết là “không làm hại ai.” Bất kỳ sự can thiệp
kỹ thuật mà không phù hợp với trật tự nền tảng của nhân vị là sự duy nhất hồn
và xác, bao gồm sự khác nhau về giới tính được ghi khắc trong thân xác, cuối
cùng không giúp được gì, nhưng đúng hơn là gây hại cho con người.
21. Việc chăm sóc đặc thù nên được áp dụng để
bảo vệ cho trẻ em và thanh thiếu niên là những người đang trong giai đoạn trưởng
thành và không có khả năng đưa ra sự đồng ý một cách có hiểu biết. Như Đức
Thánh Cha Phanxicô đã dạy, cụ thể đối với người trẻ
cần được giúp đỡ
để chấp nhận chính thân thể của
chúng như nó được tạo dựng, “vì nghĩ rằng chúng ta hưởng thụ quyền lực tuyệt đối
trên thân thể của chính chúng
ta, thường là một cách tinh tế, biến thành suy nghĩ rằng chúng ta hưởng thụ quyền lực tuyệt đối trên công trình tạo dựng…
Một sự trân quý thân thể của
chúng ta, là nam hay nữ cũng cần thiết cho việc tự nhận thức của chính chúng ta
trong cuộc gặp gỡ với những người khác với chúng ta. Bằng cách này chúng ta có
thể vui tươi đón nhận những món quà đặc biệt của người nam hay người nữ khác,
công trình của Thiên Chúa – Đấng Tạo Hóa, và tìm thấy sự phong phú lẫn nhau.”[35]
22. Công cuộc tìm kiếm những giải pháp đối với
các vấn đề đau khổ nhân loại phải tiếp tục, nhưng điều ấy nên được hướng tới những
giải pháp thực sự thúc đẩy sự triển nở của con người trong sự toàn vẹn thân thể
của người nam và nữ. Khi những cách thức điều trị mới được phát triển, chúng cũng
nên được đánh giá theo những nguyên tắc luân lý chắc chắn được đặt nền tảng
trong thiện ích của con người như là một chủ thể với sự toàn vẹn của riêng mình.
Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe Công Giáo được mời gọi để đưa ra một mẫu thức thăng
tiến sự thiện chân thực của nhân vị. Để hoàn thành nghĩa vụ này, tất cả những
ai cộng tác trong sứ vụ chăm sóc sức khỏe Công Giáo phải cố gắng hết sức, sử dụng
tất cả các phương tiện phù hợp có được, để cung cấp việc chăm sóc y khoa tốt nhất,
cũng như sự đồng hành thương xót của Đức Ki-tô, hướng tới tất cả các bệnh nhân,
bất kể họ là ai hoặc họ đang phải chịu đựng trong tình trạng nào. Sứ mạng của
những dịch vụ chăm sóc sức khỏe Công Giáo không gì khác hơn là thi hành sứ vụ
chữa lành của Chúa Giê-su, đem lại sự chữa lành ở mọi cấp độ, thể lý, tinh thần,
và thiêng liêng.[36]
Bác sĩ Trần Như Ý Lan,
Dòng Đức Bà
và học viên lớp Thần II, Học Viện Dòng Tên
Chuyển ngữ từ: Committee
on Doctrine, United States Conference of Catholic Bishops: “Doctrinal Note on
the Moral Limits to Technological Manipulation of the Human Body”, 20/03/2023, tại
https://www.usccb.org/resources/doctrinal-note-moral-limits-technological-manipulation-human-body
Nguồn: giaophanmytho.net
(06.5.2023)
[1] Công đồng Vatican II, Hiến
chế Mục vụ Gaudium et Spes, s. 36; trong
Decrees of the Ecumenical Councils,
ed. Norman P. Tanner, S.J. (Washington, D.C.: Georgetown University Press,
1990).
[2] Đức Thánh Cha (ĐTC) Benedict
XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (2009),
s. 48 (https://www.vatican.va/ content/benedict-xvi/en/encyclicals/documents/hf_ben-xvi_enc_20090629_caritas-in-veritate.html).
[3] ĐTC Phanxicô, Thông điệp Laudato
Si’ (2015), s. 106 (https://www.vatican.va/content/francesco/en/ encyclicals/documents/papa-francesco_20150524_enciclica-laudato-si.html).
[5] Trong thời Trung cổ và cổ
đại, tư tưởng thuyết nhị nguyên một cách đặc trưng diễn tả với các từ linh hồn
và thân xác (soul and body); trong tư tưởng hiện đại, nó thường được diễn tả
trong các từ tâm trí và thân xác (mind and body).
[6] Giáo lý Hội thánh Công
giáo (GLHTCG), s. 365 (https://www.vatican.va/archive/ENG0015/__P1B.HTM):
“sự duy nhất hồn và xác sâu xa đến độ linh hồn phải được coi là ‘mô thể’ của
thân xác, nghĩa là chính vì linh hồn thiêng liêng mà thân xác, vốn được tạo
thành từ vật chất, trở thành một thân xác nhân linh, sống động; tinh thần và thể
chất, không phải hai bản tính hiệp nhất, nhưng đúng hơn, sự hiệp nhất của chúng
tạo thành một bản tính duy nhất.”
[7] Ủy ban Thần học Quốc tế,
Hiệp thông và tính quản lý: Con người được Tạo dựng theo Hình ảnh của Thiên
Chúa (2002), s. 26 (https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/cti_documents/rc_con_cfaith_doc_20040723_communion-stewardship_en.html).
[8]Những người bị rối loạn
phát triển giới tính không nằm ngoài hai loại nam và nữ, nhưng họ có biểu hiện
mơ hồ hoặc bất thường về sự khác biệt giới tính, do đó giới tính của cơ thể họ
rất khó xác định, mặc dù không phải là không thể đối với y học hiện đại, và các
kỹ thuật di truyền.
[9] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, “Thư gửi các Gia đình” (1994), s. 6 (https://www.vatican.va/content/john-paul-ii/en/letters/1994/documents/hf_jp-ii_let_02021994_families.html). Xem GLHTCG, số 2333.
[11] Bộ Giáo Lý Đức Tin
(GLĐT), Thư về sự hợp tác giữa người nam và người nữ trong Giáo hội và trên
thế giới (2004), số. 8 (https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_20040731_collaboration_en.html);
các trích dẫn từ Bộ Giáo dục Công Giáo, Hướng dẫn giáo dục về tình yêu
thương con người: Đại cương về giáo dục giới tính (1983), số 5 và tương ứng
với số 4.
[12] ĐTC Phanxicô, Tông huấn Amoris
Laetitia (2016), số 56; trích dẫn từ the Relatio Finalis của Thượng
Hội Đồng về Gia Đình (2015), số 8 (https://www.vatican.va/content/francesco/en/apost_exhortations/documents/papa-francesco_esortazione-ap_20160319_amoris-laetitia.html).
[14] ĐTC Piô XII, “Diễn văn gửi các tham dự viên Hôi nghị quốc tế về Mô
bệnh học của hệ thống thần kinh” 14/09/ 1952 (https://www.vatican.va/content/pius-xii/fr/speeches/1952/documents/hf_p-xii_spe_19520914_istopatologia.html). Xem thêm Pius XII “Diễn
văn tại Hội nghị lần thứ 8 của Hiệp hội Y khoa thế giới,” 30/09/1954 (https://www.vatican.va/content/pius-xii/fr/speeches/1954/documents/hf_p-xii_spe_19540930_viii-assemblea-medica.html).
[16] ĐTC Phanxicô, Laudato
Si’, s. 155. Trong cùng đoạn văn, ĐTC Phanxicô trích lại khẳng định của ĐTC
Benedict XVI: “Con người cũng có bản tính tự nhiên mà người ấy buộc phải tôn trọng
và không thể thao túng theo ý muốn” “Thư gửi Quốc hội liên bang Đức (Bundestag)”,
22/09/ 2011 (https://www.vatican.va/content/benedict-xvi/en/speeches/2011/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20110922_reichstag-berlin.html).
[17] Đôi khi kỹ thuật được sử
dụng không phải để mang cơ thể trở lại tình trạng trước đó nhưng là để bù trừ
cho vài thiếu sót của sự phát triển bình thường trong cơ thể.
[18] Sử dụng các phương tiện
ngoại thường là không bao giờ bắt buộc về mặt luân lý. X. ĐTC Piô XII, “Diễn văn của ĐTC
Piô XII trả lời ba câu hỏi về tính
luân lý y khoa liên quan việc hồi sức,” 24/11/ 1957 (https://www.vatican.va/content/pius-xii/fr/speeches/1957/documents/hf_p-xii_spe_19571124_rianimazione.html);
Bộ GLĐT, “Bình luận về việc trả lời một số câu hỏi của Hội đồng Giám mục Hoa kỳ
(USCCB) liên quan đến việc cung cấp dinh
dưỡng và nước bằng đường nhân tạo,”
01/08/ 2007
(https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_20070801_nota-commento_en.html).
[19] USCCB, Chỉ Dẫn Đạo
đức và Tôn giáo cho Việc Chăm sóc Sức khỏe Công giáo, ấn bản thứ
6,
(2018), s. 32 ( https://www.usccb.org/about/doctrine/ethical-and-religious-directives/upload/ethical-religious-directives-catholic-health-service-sixth-edition-2016-06.pdf);
X. s. 56. Xem thêm Bộ GLĐT, “Tuyên ngôn
về Gây chết êm dịu” (1980), Pt. IV (https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_19800505_euthanasia_en.html).
[20] USCCB, Chỉ Dẫn Đạo
đức và Tôn giáo, s. 32: “…không ai bị đòi buộc phải theo cách thức chữa trị mà người ấy, với một
lương tâm tự do và có đủ thông tin, thấy rằng có quá nhiều rủi ro và gánh nặng
hoặc chi phí quá tốn kém cho gia đình và cộng đoàn trong khi chỉ có được ít hy
vọng về lợi ích mang lại”.
[21] ĐTC Piô XII, “Diễn văn gửi các tham dự viên tại Hội nghị Quốc
gia của Hội Phẫu thuật Tạo hình của nước Ý” 04/10/1958, III (https://www.vatican.va/content/pius-xii/it/speeches/1958/documents/hf_p-xii_spe_19581004_chirurgia-plastica.html).
[24] ĐTC Piô XII đưa ra vài ví dụ về ý hướng sai trái, như là gia
tăng sức quyến rũ của người đó, hay bảo vệ một tội phạm khỏi bị bắt. Ngài cũng
cho ví dụ về can thiệp thẩm mỹ không hợp luân lý khi điều này có thể gây tổn hại
cho chức năng bình thường của các cơ quan thân thể” (“Diễn văn,” 4 /10/1958, III).
[25] Đức Piô XI, Thông điệp Casti Connubii (1930), số 71 (https://www.vatican.va/content/pius-xi/en/encyclicals/documents/hf_p-xi_enc_19301231_casti-connubii.html).
[26] ĐTC Piô XII, “Diễn Văn gửi các Tham dự viên tại Hội nghị lần thứ
26 tổ chức bới Hội Niệu khoa của nước Ý,” 8/10/1953, I (https://www.vatican.va/content/pius-xii/fr/speeches/1953/documents/hf_p-xii_spe_19531008_congresso-urologia.html).
Xem Thomas Aquinas, Summa theologiae II-II, câu hỏi. 65, a. 1; I-II, câu hỏi.
90, a. 2.
[28] Bộ GLĐT, Huấn thị về một số vấn đề đạo đức sinh học
(Dignitas Personae), (2008), số 26 (https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_20081208_dignitas-personae_en.html).
Bộ còn nêu thêm các điều kiện là không được đặt bệnh nhân vào tình huống
“những rủi ro đối với sức khỏe hoặc sự toàn vẹn thể lý của họ cách quá mức
hoặc không tương xứng với mức độ nghiêm trọng của bệnh lý cần được chữa trị” và
phải có sự đồng ý của bệnh nhân hoặc người đại diện hợp pháp của họ.
[31] Một số người thậm chí
còn nghĩ tới việc chuyển những gì họ hình dung là bản chất của con người từ bộ
não sang máy tính, theo cách ấy họ có thể hoàn toàn bỏ qua sự tồn tại của cơ thể.
[32] Từ ngữ “chán ghét giới tính” (gender dysphoria) được giới thiệu năm 2013 trong sách Cẩm Nang
Chẩn đoán và thống kê về các Rối loạn
Tâm thần, ấn bản thứ 5, (Arlington, VA:
Hiệp hội Tâm Thần Hoa Kỳ, 2013), tr. 452-53. Từ ngữ “giới tính không phù hợp” (gender
incongruence) được giới thiệu năm 2022 trong Bảng Phân loại Quốc tế các loại bệnh,
chỉnh sửa lần thứ 11 phát hành bởi Tổ Chức Y tế thế giới WHO (https://icd.who.int/browse11/l-m/en#/http%3a%2f%2fid.who.int%2ficd%2fentity%2f411470068).
[33] Với vài tiến trình trong
phạm vi này, sự cắt bỏ cơ quan được nhắm đến trực tiếp để cho phép sự thay thế
nó bằng một sự mô phỏng của cơ quan tương ứng của giới tính ngược lại; trong
vài quy trính khác, sự cắt bỏ cơ quan được ước muốn trực tiếp bởi vì sự vắng mặt
của cơ quan đó là một đặc tính của giới tính ngược lại. Còn nữa, sự tái cấu
trúc hình dạng của cơ quan được nhắm đến
cách trực tiếp để làm cho cơ quan đó giống càng nhiều càng tốt cơ quan tương ứng
của giới tính ngược lại.
[34] Đối với những người xác
định là chuyển giới (transgender) hoặc chưa xác định giới tính (non-binary), có
nhiều vấn đề mục vụ cần được bàn thảo, nhưng điều đó không được nói đến trong
tài liệu này.
[36] X. USCCB, Những Hướng
dẫn Đạo Đức và Tôn Giáo dành cho các Dịch vụ Chăm sóc Sức khỏe Công Giáo,
Giới thiệu chung.