ĐIỀU GÌ XẢY RA VỚI VIỆC CẦU NGUYỆN CỦA BẠN KHI TUYỆT VỌNG?
Tác giả: Jeannie
Ewing
“Lạy
Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu,
xin
thương tình đáp lại.
Nghĩ về
Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan.
Lạy
Chúa, con tìm thánh nhan Ngài,
Xin Ngài
đừng ẩn mặt.
Tôi tớ
Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy,
chính
Ngài là Đấng phù trợ con.
Xin chớ
bỏ rơi, xin đừng xua đuổi,
lạy
Thiên Chúa, Đấng cứu độ con.
Dầu cha
mẹ có bỏ con đi nữa,
thì hãy
còn có Chúa đón nhận con.
Xin dạy
con đường nẻo Ngài, lạy Chúa,
dẫn con
đi trên lối phẳng phiu,
vì có những
người đang rình rập.
Xin đừng
phó mặc con cho kẻ thù hung hãn,
vì lũ chứng
gian đứng dậy tố con,
giương bộ
mặt hằm hằm sát khí.
Tôi vững
vàng tin tưởng
sẽ được
thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống.
Hãy cậy
trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!
Hãy cậy
trông vào Chúa” (Thánh vịnh 27: 7 – 14).
Điều gì xảy ra với việc cầu nguyện của bạn khi
tuyệt vọng? Khi bạn kiệt sức, mất ngủ, tàn tạ? Cách đây không lâu đã có một khoảng
thời gian khi tôi không còn sức làm được gì hơn ngoài việc kêu lên: “Xin hãy
giúp con, Chúa ơi”. Theo đúng nghĩa đen, không có gì khác hơn xuất hiện trong
tâm trí tôi. Những năm trước, tôi đã có thể cất lên những lời nói hùng hồn, những
tràng hoa ngát thơm dâng lên Thiên Chúa. Tôi hài lòng với nỗ lực của mình và
tôi nghĩ Chúa cũng hài lòng như vậy.
Vào lúc đó, tôi chắc chắn là Ngài hài lòng với
nỗ lực của tôi. Nhưng khi tôi bước vào tuổi trung niên, bấy giờ tôi thấy rằng lời
cầu nguyện trong tuyệt vọng mới là cuộc trò chuyện thực sự, bởi vì hy vọng
không phải là hy vọng nếu không có thất vọng. GK Chesterton đã viết, “Chừng nào các vấn đề còn thực sự có hy vọng,
thì hy vọng chỉ là sự tâng bốc xu nịnh hoặc sự vô vị nhàm chán; Chỉ khi mọi thứ
trở nên vô vọng thì niềm hy vọng mới bắt đầu trở thành sức mạnh. Giống như tất
cả các nhân đức của Kitô giáo, đức cậy trông hy vọng càng phi lý bao nhiêu thì
nó lại càng không thể thiếu được bấy nhiêu”.
Trong Thánh vịnh 27, chúng ta biết rằng cậy
trông hy vọng và chờ đợi có thể thay thế cho nhau. Trên thực tế, một số bản dịch
thay thế từ này bằng từ khác. Trong câu 14, chúng ta có thể đọc trong một phiên
bản, “Hãy chờ đợi Chúa, hãy can đảm,”[1]
hoặc trong một phiên bản khác, “Hãy cậy
trông vào Chúa, hãy can đảm.”[2]
Có vẻ như sự cậy trông không có thực khi mọi thứ đều ổn thỏa. Niềm cậy trông chỉ
trở nên sâu sắc hơn qua các thử thách vốn dĩ kiểm tra xem chúng ta có còn mang
theo ngọn đuốc - hay thậm chí chỉ là một cục than hồng – chiếu tỏa ánh sáng nội
tâm để giúp chúng ta tiến về phía Đấng là Ánh sáng của Thế trần hay không.
Có lẽ đó là lý do tại sao cách nói ẩn dụ ví
Chúa Giêsu như là ánh sáng có sức mạnh rất lớn đối với những người trong chúng
ta đang nản lòng và hầu như tuyệt vọng. Có lẽ, đó là lý do tại sao Thánh vịnh
27 là một lời khích lệ như vậy. Trong vài năm qua có những thời điểm, khi tôi bị
trầm cảm nặng sau sinh, thậm chí đọc những lời đầy hy vọng như thế này cũng
không có một tác động gì đến suy nghĩ hay cảm xúc của tôi.
Khi đó, niềm cậy trông đang bộc lộ ra và khiến
vòng tay của chúng ta dang rộng ra cho Thiên Chúa, đặc biệt là khi chúng ta
không thể tìm ra được lý do gì để tin rằng cuộc sống sẽ được cải thiện. Chính đức
trông cậy đã nâng đỡ chúng ta, duy trì niềm tin vững chắc của chúng ta rằng “Tôi vững
vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống”
(Tv 27: 13). Đây không phải là một tình cảm ngọt ngào hời hợt bên ngoài, mà là
một sự hiểu biết chắc chắn vốn dĩ thay thế cho những gì có thể nhìn thấy bằng mắt
hoặc nghe được bằng tai.
Gần đây, tôi đã đọc lại dòng này, bởi vì tôi
thường xuyên xem lại Thánh vịnh 27 khi tôi cảm thấy bị nuốt chửng trong bóng tối
chán nản. Đột nhiên, tôi nhận ra rằng sự tin tưởng của Tác giả thánh vịnh 27 là
ông biết rằng Thiên Chúa sẽ bày tỏ lòng tốt và sự thương xót của Ngài cho dân
Ngài khi họ còn ở trên trần thế, chứ không chỉ sau khi họ chết. Đó là một niềm
tin lạ thường, thậm chí căn bản.
Một lần nữa, Chesterton đã viết về niềm cậy
trông: “Đúng vào lúc niềm cậy trông không
còn phù hợp với lý trí nữa thì nó bắt đầu hữu ích.” Niềm cậy trông không phải
là tìm kiếm hoặc dựa vào các dấu hiệu và tín hiệu từ thiên đàng, như thể chúng
ta mong đợi Chúa hoạt động trong cuộc sống của chúng ta thông qua các dấu hiệu
và tín hiệu đó. Niềm cậy trông không phải là nói, “Thấy không? Tôi đã nhìn thấy một bông hồng, vì vậy tôi biết tôi sẽ đạt
được những gì tôi đã cầu nguyện!” Niềm cậy trông cũng không phải là nói, “Chúa thật tốt lành, bởi vì tôi đã có được
những gì tôi đã cầu nguyện!”
Thiên Chúa luôn luôn tốt lành, cho dù kết quả
của những lời cầu nguyện của chúng ta có phải là điều chúng ta mong muốn hay
mong đợi hay không. Trong những ngày đen tối nhất của chính mình, tôi không có
gì để mong đợi. Không có gì có ý nghĩa. Mọi thứ thật ảm đạm, và tôi không thể
nhìn thấy con đường nào khác bên ngoài sự ảm đạm đó.
Trong một nghịch lý kỳ lạ, chính trong giai đoạn
này của cuộc đời thì tôi nhận ra rằng niềm niềm cậy trông là thứ đã đưa tôi vượt
qua tất cả. Không phải sự sung sướng. Không phải những lời sáo rỗng. Không phải
những dấu hiệu. Không phải những nụ cười hay sự an ủi. Chỉ là niềm cậy trông
thuần túy - vào thiên đàng, phần lớn là như thế.
Niềm cậy trông của tôi đã trở nên hữu ích theo
nghĩa là nó đã giữ cho tôi còn sống, khiến tôi luôn hướng tới “điều gì đó vĩ đại
hơn” và “điều gì đó hơn thế nữa” mà tôi biết rằng Thiên Chúa dành sẵn cho tôi,
cho tất cả chúng ta. Lẽ nào niềm cậy trông của tôi chỉ là niềm cậy trông vào
thiên đàng? Đúng như vậy. Nhưng niềm cậy trông còn là việc tôi biết rằng tôi thấy
được những điều tốt đẹp xảy ra suốt trong cuộc đời của mình. Tôi không cần phải
biết những điều tốt đẹp ấy là gì để có thể nhận ra rằng, trong khi tôi chờ đợi
Thiên Chúa, thì việc ấn định thời gian của Ngài (như thế nào là tùy ý Ngài) sẽ
lôi kéo tôi vượt qua sự căng thẳng, nỗi sợ hãi, của khoảng thời gian tạm ngừng
hoặc gián đoạn lâu dài đó.
Niềm cậy trông đẩy một tâm hồn đến giới hạn tột
cùng của nó, đến bờ vực của sự tuyệt vọng. Là một trải nghiệm đáng sợ khi đối đầu
với bóng tối khủng khiếp của một con người, nhưng lại là một trải nghiệm còn
tuyệt vời hơn khi khám phá ra ân sủng vô hình đã bảo vệ tâm hồn đó từ đầu cho đến
cuối.
Phêrô Phạm
Văn Trung
Chuyển ngữ từ: catholicexchange.com
Chú thích của người dịch:
[1] Wait for the Lord, take
courage; be stouthearted, wait
for the Lord! (New American Bible (Revised Edition) (NABRE)
[2] Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ:
“14 Hãy cậy trông vào CHÚA, mạnh
bạo lên, can đảm lên nào!
Hãy
cậy trông vào CHÚA”,
hoặc bản tiếng Pháp Bible de
Jerusalem: “Psaume 27, 14: Espère en Yahvé, prends coeur et
prends courage, espère en Yahvé”