ĐẾN NHÀ THỜ KINH LẠY CHA
Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ
MỤC LỤC
a. Xin chỉ cho chúng con đường đi
b. Xin chỉ cho con thấy Chúa Cha
d. Khung cảnh cho con chiêm ngắm Chúa Cha
c. Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời
4. Chúng ta là anh chị em của nhau
WHĐ (11.03.2021) - Từ cộng
đoàn, chúng tôi đón xe bus chạy vòng qua thung lũng Kít-rôn để lên núi cây Dầu
(The mount of Olives)[1]
hướng phía Đông của thành. Gọi là núi cây Dầu vì nơi đây trồng nhiều loại cây
Ô-liu để lấy dầu ăn hoặc để đốt. Núi này lúc nào cũng đông du khách hành hương
vì có những thánh địa quan trọng liên quan đến Đức Giêsu: Nhà Thờ Chúa lên trời
(The Ascension), Nhà thờ Kinh Lạy Cha (Pater Noster), Vườn Cây Dầu
(Gethsemane), Nhà Thờ Chúa Khóc (Dominus Flevit) để nhớ lại biến cố Đức Giêsu từ
Bê-ta-ni-a băng qua núi Cây Dầu và Ngài khóc thương thành Giêrusalem. Nối liền
những địa danh ấy là con đường Lễ Lá mà ngày xưa Đức Giêsu cưỡi lừa vào thành.
Mạn sườn dốc đối diện với thung lũng Kít-rôn là ngôi làng Bê-ta-ni-a.
Chúng tôi dừng chân viếng nơi
Chúa Lên Trời, sau đó qua Nhà Thờ Kinh Lạy Cha. Tại đây tôi tiếp tục được chiêm
ngắm, lắng nghe và cầu nguyện đặc biệt với lời Kinh mà chính thầy Giêsu dạy cho
các môn đệ: Kinh Lạy Cha (Lc11,1-4 và Mt 6,9-13)[2].
Đây là lời kinh mà bất kỳ người Công giáo nào cũng thuộc lòng, được học trước
tiên. Hôm nay tôi được nghe thầy Giêsu dạy tại địa điểm mà Thầy đã dạy cho các
môn đệ năm xưa, với ơn xin cho tôi được hiểu biết thâm sâu về Thiên Chúa Cha.
Khung cảnh khi Thầy dạy Kinh
Lạy Cha trong Tin Mừng có phần khác nhau. Thánh Mát-thêu kể thầy Giêsu dạy Lời
Kinh này trên ngọn núi thành Caphacnaum[3]
(tâm điểm của Bài Giảng trên núi). Còn ở đây thánh Luca cho thấy thầy Giêsu dạy
các môn đệ cầu nguyện trên núi Cây Dầu. Dù sao ngọn núi hôm nay cho tôi nhiều
tâm tình để lắng nghe thầy Giêsu dạy cầu nguyện với Chúa Cha. Theo thánh Luca
thì trước Kinh Lạy Cha là câu chuyện Thầy trò Đức Giêsu vào nhà chị em Mác-ta để
nghỉ ngơi sau những ngày vất vả dặm trường. Mác-ta tất bật chuẩn bị bữa ăn,
Maria ngồi bên chân Thầy để nghe lời Người dạy. Thầy khen Maria đã chọn phần tốt
nhất. Tôi muốn bắt chước Maria để ngồi bên chân Chúa cùng với các môn đệ nơi
đây vào thời của Ngài, để lắng nghe Thầy dạy cách cầu nguyện với Chúa Cha.
Nhưng nơi đây ngày xưa Chúa
nói bằng tiếng Aram[4]
mà, làm sao tôi và bạn vốn là người Việt Nam hiểu được, chỉ có các môn đệ mới
có thể ngồi nghe Thầy sao? Thầy vỗ vai trấn an tôi yên tâm, vì sau Công Đồng
Vatican II, lời Thầy đã được dịch sang các thứ tiếng. Tôi thấy nơi đây, Kinh Lạy
Cha có tới 175 ngôn ngữ khác nhau, có cả tiếng Việt ở phía trong nhà thờ kia.
Tôi bình an và sung sướng nghe Thầy nói.
1. Áb-ba, Cha ơi
Nếu những gì Đức Giêsu nói và
làm để ứng nghiệm lời Cựu ước, thì riêng Kinh Lạy Cha, người ta hoàn toàn không
thấy trong thời trước. Đó hoàn toàn mới đối với các môn đệ, với thời đại của Thầy.
Dân chúng thời ấy không dám gọi tên Gia-Vê, giới tư tế không dám dùng những lời
thân mật với Đức Chúa của họ để xưng hô. Họ chỉ dám xưng với Đức Chúa bằng một
Danh từ cực trọng mà không thể phát âm “YHWH”. Nói chung dân Chúa thời Cựu ước
luôn tâm niệm một điều rằng: “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không tha kẻ dùng danh Người một cách bất
xứng.” (Xh 21,7).
Vậy mà Thầy gọi Đức Chúa là
Cha của Thầy. Một điều dân chúng chưa từng nghe ai nói thế bao giờ. Các môn đệ
trước đây cũng không, vì họ theo đạo Do Thái. Riêng Thầy không chỉ lần này mới
nói “Lạy Cha, Áb-ba hay Cha ơi”, nhưng còn nhiều lần khác nữa. Thầy muốn lặp đi
lặp lại lời nguyện ấy để loan báo cho con người mọi thời Thầy là Con Thiên
Chúa, Thầy đến từ Chúa Cha và Chúa Cha sai Thầy đến để cứu chuộc con người.
Hẳn là lời nguyện này con người
không thể tự mình thốt ra, nhưng chỉ nói lên được nhờ ơn Chúa Thánh Thần, nhờ
Thầy trợ giúp. Bởi thế lúc này tôi thích ngồi nghe Thầy nói, đón lấy sứ điệp Thầy
trao để ước mong mình cũng được kết thân với Cha là Đấng ngự trên trời. Tôi nài
xin Thầy ban cho mình ơn Thần Khí để làm cho tôi nên nghĩa tử, nên con cái
Thiên Chúa, nhờ đó tôi mới có khả năng kêu lên hai tiếng “Áb-ba - Cha ơi” (Rm
8,14-15).
Thốt lên được như thế nghĩa
là tôi được đi vào mối tương quan thần linh giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo, giữa
Thiên Chúa và con người, giữa Cha và con. Nhờ đó, cánh cửa cầu nguyện được mở
toang, được Thiên Chúa ra đón vào, để bắt đầu một hành trình kết thân, một cuộc
đời của người con có Cha, một thành viên trong nhà của Cha.
Tuy nhiên không dễ để tôi có
thể bắt nhịp được mối tương quan Cha-con khi chưa lần nào tôi thấy Chúa Cha. Hoặc
nếu có trong Tin Mừng, đôi lần tôi vẳng nghe tiếng Chúa Cha vọng xuống khi thầy
Giêsu chịu phép rửa tại dòng sông Gio-đan, hay trên núi Tabor khi Chúa biến
hình[5].
Không chỉ tôi hay bạn, các môn đệ cũng gặp khó khăn trong mối tương quan với
Chúa Cha.
Bởi đó, hôm qua trong Nhà Tiệc
Ly, ba câu hỏi được các môn đệ nêu lên cho Thầy:
a. Xin chỉ cho chúng con đường đi
Sau khi Thầy nói: “Trong nhà
Cha có nhiều chỗ ở, Thầy đi dọn chỗ cho anh em và Thầy đi đâu anh em biết đường
rồi”, ông Tô-ma hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao
chúng con biết được đường.” (Ga 14,1-4). Hơn nữa, đường về nhà Cha xa tít mù
khơi, chưa một lần đến chắc là khó khăn cho các môn đệ và cả chúng ta nữa. Thầy
trấn an khẳng định chính Thầy là con đường dẫn đến Chúa Cha. Không ai có thể đến
được với Cha mà không qua Thầy.
Hóa ra từ bấy lâu tôi theo Thầy,
nghe lời giáo huấn và đón lấy tình thương của Thầy, nhưng có khi tôi chưa dám
nên đồng hình đồng dạng với Thầy, chưa dám đi trên con đường Thầy đi, để đến được
với Chúa Cha. Ngồi trên tảng đá dưới gốc cây dầu cổ thụ, tôi ngoảnh nhìn xuống
triền dốc, rồi ngước lên Thầy để xin nhận Thầy là con đường, là hướng đi cho cuộc
đời mình.
b. Xin chỉ cho con thấy Chúa Cha
Liền sau câu hỏi của Tô-ma là
lời nài xin của ông Phi-lip-phê: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa
Cha, như thế là con mãn nguyện.” (Ga 14,8). Ông có lý khi hỏi như thế, vì xưa
nay chưa ai thấy Thiên Chúa hay thấy Chúa Cha bao giờ! Cả dân Do Thái vẫn đang
mong đợi Đấng Mêsia, Đức Chúa của họ đến, nhưng họ vẫn chờ rồi lại mong. Đức
Giêsu trả lời bằng một câu hỏi khác: “Thầy ở với anh bấy lâu, thế mà anh
Phi-lip-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.” (Ga 14,9.)
Suốt ba năm làm môn đệ Thầy, suốt hành trình ròng rã theo Thầy trên đường loan
báo Tin Mừng, Phi-lip-phê[6]
là một đại diện của nhóm tông đồ chưa biết hết về Thầy.
Với tôi, đó cũng là điều khó
hiểu, nên tôi cũng hỏi Thầy như ông Phi-lip-phê. Thầy cũng trả lời như thế, vì
Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy, nên Thầy và Chúa Cha là một.
Huyền nhiệm biết bao, chỉ có Thầy mới hiểu về Chúa Cha chính xác để giải nghĩa
cho chúng ta. Bởi Thầy đến từ Chúa Cha, nên Thầy biết Chúa Cha và những gì Chúa
Cha mong ước cho con người. Mở ngoặc nơi đây, tôi tự hỏi liệu những ngôn sứ hoặc
người phàm mắt thịt nói về Chúa Cha có chính xác bằng thầy Giêsu vốn hằng ở với
Chúa Cha không? Bởi đó, tôi tin Thầy, tin lời huyền nhiệm của Thầy vừa nói để từ
đó tiếp tục hành trình kết thân với Thầy và với Chúa Cha.
Xin Thầy cứ tiếp tục giúp tôi
hiểu biết thâm sâu về Thầy, về Chúa Cha và đừng để tôi quên con đường mà chính
Thầy có thể dẫn tôi về đến Quê hương đích thực. Nơi đó có Chúa Cha, có vinh
quang, hạnh phúc và bình an đích thực.
c. Tại sao lại là chúng con?
Biết và yêu mến Chúa Cha
không chỉ quan trọng cho Đức Giêsu mà còn thiết yếu cho tất cả những ai muốn
làm môn đệ Người. Trên ngọn núi Ô-liu sáng sớm nay, sau khi thấy Thầy cầu nguyện
với Chúa Cha xong, các môn đệ xin Thầy chỉ cho cách cầu nguyện và Thầy cho các
ông đọc kinh Lạy Cha. Tương quan với Cha phải được đặt lên hàng đầu. Do đó Thầy
muốn tỏ mọi điều về Thiên Chúa Cha cho các môn đệ. Rồi cũng trong bữa tiệc hôm
qua, Giu-đa không phải là Giu-đa bán Chúa, đã thưa với Thầy: “Tại sao Thầy phải
tỏ mình cho chúng con, mà không tỏ mình cho thế gian?”
Là môn đệ theo thầy Giêsu,
các ông được ân huệ là Thầy ưu tiên nói về Thiên Chúa Cha. Và những ai tin yêu
Thầy cũng nhận cùng một ân huệ ấy. Hoa quả của ân huệ ấy là ai yêu mến Thầy thì
sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ ở lại với
người ấy (Ga 14,23). Đó đơn giản là tình yêu mà Thầy muốn dành cho các môn đệ,
vì yêu nên Thầy tỏ lộ cho các ông. Ước mong không chỉ chúng ta, mà còn nhiều
người nữa cũng được Thầy yêu thương mời gọi đến với Thầy, với Chúa Cha.
d. Khung cảnh cho con chiêm ngắm Chúa Cha
Trong lúc vò đầu bối rối về
Thiên Chúa Cha, tôi được mời gọi đi vào khung cảnh mà thánh I-nhã hướng dẫn cầu
nguyện trong sách Linh Thao. Nơi đó Ba Ngôi đang nhìn xuống xem mặt địa cầu,
hay sự bao la của toàn thế giới đầy người thế nào, và thấy mọi người đang sa xuống
hỏa ngục ra sao, Ba Ngôi quyết định từ thuở đời đời của mình rằng Ngôi Hai sẽ
làm người để cứu chuộc nhân loại. Và thế là thầy Giêsu hạ sinh trong kiếp con
người. Năm tháng trên dương thế Thầy lúc nào cũng hướng về Cha, cầu nguyện với
Cha và luôn chu toàn thánh ý của Cha.
Rồi tôi nhìn ngắm việc Ba
Ngôi đang làm để cứu độ con người. Nhìn ngắm thầy Giêsu đang lao tác trên con
đường sứ mạng để cho nhân loại nhận biết vinh quang của Cha, nhận biết Nước trời
đang đến gần, tôi thấy Chúa Cha gần hơn, sống động hơn. Cha dõi theo từng bước
đường Thầy đi. Từ lúc Giáng sinh đến khi chết trên thập giá, Cha không rời Thầy
nửa bước. Ba Ngôi hằng hữu và sống động cho tất cả mọi người. Tôi xin được cảm
nghiệm thâm sâu về Chúa Cha, để hạnh phúc nói tiếng “Ábba- Cha ơi.”
2. Lời nài xin với Cha
Khi đi vào tương quan kết
thân với Thầy và với Chúa Cha là Đấng ngự trên trời, con người có thể trải qua
những giờ cầu nguyện sốt sáng với nhiều an ủi thiêng liêng. Hay nói như thánh
Têrêsa Hài Đồng Giêsu: “Cầu nguyện là dịp vươn lên của trái tim, nó đơn giản là
cái nhìn hướng về trời.” Thực vậy, “cầu nguyện không khác gì một cuộc đối thoại
với một người bạn mà ta thích gặp riêng tư với nhau, để nói với nhau vì bạn yêu
ta.” (Thánh Têrêxa Avila.) Trong sự liên kết sống động ấy, chúng ta “Xin làm
cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất
cũng như trên trời.” (Mt6, 9-10). Tôi giơ tay hỏi Thầy: “Phải chăng những điều ấy
Thầy đang thực hiện, nhất là sắp tới giờ Thầy chịu chết để chu toàn ý Cha?”
Vậy Thầy chỉ cho tôi ba điều
liên quan trực tiếp đến Chúa Cha:
a. Xin cho danh Cha vinh hiển
“Bằng cách nào đây?” Tôi hỏi
thầy Giêsu, rồi chiêm ngắm cả cuộc đời Thầy sống, cả hành động Ngài làm, cả
phép lạ Ngài thực hiện để duy nhất giúp con người biết Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.
Bằng con đường thập giá, thầy Giêsu đang tôn vinh Cha. Làm sáng danh Cha nghĩa
là sống theo những gì thầy Giêsu chỉ dạy, làm cho nhiều người nhận biết Thiên
Chúa là Cha giàu lòng thương xót, và tự do mở lòng để vinh quang Cha chiếu tỏa
nơi cuộc sống của người môn đệ.
b. Triều Đại Cha mau đến
Đó là Nước của Cha sẽ đến với
con người. Một Vương Quốc không thuộc thế gian này, nhưng khi theo Đức Giêsu
trong đau khổ thì cũng được ở với Ngài trong vinh quang, trong triều đại Nước
Trời. Tôi ước mong xin với Thầy cho mình tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa
trước, xin Nước Cha sớm thống trị mặt địa cầu. Nhờ đó con người hưởng hạnh phúc
bình an viên mãn.
c.
Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời
Con hỏi Thầy, ý Cha là gì? Thầy
trả lời: Là muốn cứu độ con người, để đưa con người vào hưởng vinh quang Thiên
Quốc. Ý của Cha cũng là ý của Thầy, vì Thầy hiểu rõ ý định ngàn đời của Cha,
nên tôi muốn thực thi ý Thầy. Tất cả những gì Tin Mừng nói đó là Lời, là ý của Thầy vốn Thầy nghe được
từ Chúa Cha. Hãy để Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước. Tôi nghe Thầy nhắn
nhủ. Tôi tin rằng một khi loài người cùng nhau sống chu toàn thánh ý Cha, trái
đất sẽ không còn chiến tranh, mọi người trở nên anh chị em cùng nhau vâng theo
ý Cha nơi trần thế.
3. Xin của ăn hằng ngày
Đây là điều thiết yếu và thực
tế của con người. Chuyện ăn uống là nhu cầu con người phải vất vả kiếm tìm. Suy
cho cùng thì mọi bôn ba của con người đều chăm lo cho có miếng cơm manh áo. “Có
thực mới vực được đạo” cách nào đó cũng hợp lý trong mọi thời. Thầy Giêsu hiểu
được nhu cầu này nên dạy các môn đệ hãy xin với Chúa Cha. Câu chuyện lương thực
này gợi nhớ đến chuyện xưa khi dân đi trong sa mạc. Hằng ngày Thiên Chúa cho
Man-na từ trời rơi xuống, mỗi người chỉ lượm vừa đủ phần ăn cho ngày hôm ấy (Xh
16,16-20).
Tuy vậy, Thầy cũng từng nhắc
các môn đệ đừng chăm chú quá mức vào chuyện ăn uống. Người ta sống không chỉ nhờ
cơm bánh. Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không tích vào
kho, thế mà Cha chúng ta ở trên trời vẫn nuôi chúng đấy thôi.
Nói thế không phải Thầy muốn
dạy các môn đệ cứ ngồi chơi xơi nước. Nhiều người còn nhạo báng người tin vào
Chúa: “Mày cứ ngồi đó mà cầu xin Chúa xem Người có gửi cơm áo, gạo tiền đến cho
mày không!” Thực ra Thầy không dạy tôi lười biếng[7],
ngồi chờ sung rụng. Thiên Chúa dựng nên con người để canh tác đất đai (St 1-2).
Thầy nhắc con người phải đổ mồ hôi mới có cái ăn (St 3,17-19). Chúa dựng nên
con người có khối óc, có bàn tay, cho đất nước và thiên nhiên để làm ra lương
thực hằng ngày.
Tôi thầm tạ ơn Thầy đã cho
tôi chìa khóa để mở ra đời sống sung túc hơn. Thầy bảo tôi phải tiên vàn tìm kiếm
Nước Thiên Chúa trước đã, những thứ khác đương nhiên Người sẽ ban cho. Tìm kiếm
Nước Cha, tức là xin ơn để thực thi những điều Thầy dạy: làm danh Cha cả sáng,
Nước Cha trị đến, ý cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
4. Chúng ta là anh chị em của nhau
Khi cùng nhau gọi Thiên Chúa
là Cha, thì tương quan giữa chúng ta đương nhiên trở nên anh chị em với nhau.
Không thể cùng nhau chúc tụng Cha trên trời lại bỏ đi tương quan này. Nhớ lại
chuyện người con cả trong dụ ngôn người Cha Nhân Hậu, chính anh ta tự cách mối
dây liên kết huynh đệ với người em chung một mái nhà. Tuy nhiên, thực tế họ vẫn
là anh em của nhau, có cùng một người Cha giàu lòng thương xót.
Trong khuôn viên nhà thờ Kinh
Lạy Cha, tôi thích thú nghe câu chuyện cha hướng dẫn kể cho chúng tôi về một
gia đình, Ngài nói:
Bỗng một ngày mình thấy bụng
mẹ lớn dần lên. Hôm đó từ bệnh viện về, mẹ bế em bé nhỏ xíu vào nhà và đặt nó
trong chiếc nôi. Mẹ vời tôi lại và nói đây là em của con. Tôi không hiểu, ngơ
ngác và không chịu đứa bé này. Sau vài tháng tôi nhận thấy rõ hơn mối nguy hiểm
từ em bé kia. Mẹ lúc nào cũng dành nhiều giờ cho nó, dành đồ chơi, búp bê cho
nó, thế là cuộc sống của tôi bị san sẻ. Tôi nói với mẹ hãy đưa em bé này trả về
bệnh viện đi. Mẹ hỏi tại sao, vì nó là em của con mà. Tôi nói với mẹ: “Tuy thấy
nó dễ thương, nhưng con lại phải chia chác nhiều thứ cho nó.”
Thỉnh thoảng chúng tôi lại
giành nhau đồ chơi, khóc la vì những cuộc tranh giành ấy. Ba mẹ vỗ về cả hai đứa
và nói các con là anh em với nhau, cùng có cha mẹ đây, nên không được gây gổ.
Thế là trong bàn cơm chúng tôi lại làm hòa, và cứ thế chúng tôi lớn dần trong sự
dạy bảo của cha mẹ. Dần dần tôi cũng nhận ra đứa bé ngày nào thực sự là em của
mình. Tự nhiên trong chúng tôi có tình yêu thương lẫn nhau, vì đơn giản chúng
tôi là anh em với nhau.
Chắc thầy Giêsu cười thích
thú khi tôi kể lại câu chuyện ấy. Cười vì đó là chuyện thường tình mà ai ai
cũng hiểu, cũng biết và phổ biến trong các gia đình. Tiếc là thực tế không thiếu
cảnh huynh đệ tương tàn, cảnh Cain giết em mình là Abel vì những chuyện ganh
đua (St 4,1-16). Đó là câu chuyện ngoài địa đàng, của thế lực sự dữ cứ muốn
chia rẽ con người. Đau lòng! Tôi tiếp tục lắng nghe Thầy để tìm câu trả lời.
Bạn tưởng tượng bỗng một ngày
tôi và bạn cùng thốt lên “Ábba-Cha ơi”, lúc đó chúng ta là anh em của nhau. Là
anh chị em của nhau, chúng ta dễ dàng tha thứ cho nhau, vì ta có chung một Cha
là Đấng Ngự trên trời hằng tha thứ cho mỗi người con. Trong gia đình, trong
Giáo hội cũng thế, lời mời gọi của Thầy là anh em hãy yêu thương nhau vì ta có
một Cha ở trên trời.
Có lần người thông luật hỏi
Thầy giới răn nào trọng nhất. Thầy trả lời: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên
Chúa của người hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Điều răn thứ hai
cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Mt
22,34-40). Vì người thân cận là anh chị em của ta, chung mối dây liên kết thần
linh đến từ Chúa Cha, nên đương nhiên và là bổn phận phải yêu thương nhau.
Chúng ta cùng cầu xin với cùng một Cha, chẳng lẽ chúng ta lại ghét bỏ nhau trước
mặt Cha. Hơn nữa, có lần Thầy còn đòi hỏi người môn đệ mức độ khó hơn là hãy
yêu cả kẻ thù của mình nữa, vì chẳng phải Thiên Chúa cho mưa trên cả người tốt
lẫn người xấu đó sao.
Nhớ lại thời đạo Công giáo mới
vào Việt Nam khoảng thế kỷ 17 (năm 1615), con dân Đất Việt không biết gọi tôn
giáo mới này là gì. Họ chỉ thấy những ai theo đạo Công giáo đều rất yêu thương
nhau. Do đó họ gọi đạo này là đạo yêu thương! Phải chăng khi người ta chịu phép
rửa tội, đón nhận Cha là Đấng ngự trên trời, lúc ấy họ nên anh chị em trong một
gia đình. Ước sao giáo dân Công giáo không chỉ yêu thương nhau trong giáo xứ,
nơi giáo hội mà còn mở rộng tình thương ấy đến với mọi người.
Mặt trời đã lặn dần, đoàn người
hành hương mỗi lúc một thưa. Tôi chợt nhìn lại mối tương quan của mình với tha
nhân. Chạnh lòng để xin Thầy giúp tôi mở rộng trái tim để yêu thương anh chị em
của mình nhiều hơn. Được như thế, tôi tin rằng lời Kinh mà Thầy dạy cho tôi hôm
nay sẽ sinh nhiều hoa trái.
Tôi đứng lên, vào phía trong
nhà thờ đọc bản kinh Lạy Cha bằng tiếng Việt phía bên phải gần gian cung thánh.
Và xin thầy Giêsu, xin Thiên Chúa Cha hằng ở cùng tôi, giúp tôi sống những điều
ước nguyện vừa thưa với Chúa Cha.
Kỳ tới:
Bài trước:
1. Tại sao người ta đến Giêrusalem?
2. Câu chuyện bức tường thành
Giêrusalem
3. Dinh Tổng Trấn Philatô, nơi xét xử Đức Giêsu
[1]Tiên tri Ê-dê-ki-en mô tả Núi Ô-liu như là một nơi Chúa dừng
chân: “Vinh quang Đức Chúa đi lên khỏi thành và dừng chân lại trên núi ở phía
đông của thành.” Ed12, 23.
[2] Ông Téctulianô (thế kỉ II) coi Kinh Lạy Cha là “kinh tóm
tắt toàn bộ Tin Mừng”. Thánh Tôma Aquinô (thế kỷ XIII) gọi là Kinh hoàn hảo nhất
trong mọi Kinh.
[3] Chúng ta không biết chính xác ngọn núi nào. Tuy nhiên hiện
nay có hai địa điểm truyền thống cho rằng Chúa giảng Bài Giảng trên núi. Một là
ngọn núi đối diện với nơi Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều ở Tabgha (The
church of the Primacy). Hai là, Nhà thờ Tám mối phúc thật cũng gần đó.
[4] Đức Giêsu sống dưới thời đế quốc Rôma trị vì. Ngôn ngữ
chung là tiếng Hy Lạp. Tuy nhiên tại Palestina, tiếng Aram được dùng trong sinh
hoạt hằng ngày, tiếng Híp-ri chỉ dùng trong phụng vụ
[5] “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các
ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài
lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là Con Ta, Người
đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).
[6] Ông Phi-lip-phê là người cùng quê với An-rê và Phê-rô ở Bết-xai-đa gần Ca-phác-na-um. Ông là một trong những môn đệ đầu tiên được chính Đức Giêsu gọi.
[7]“Hỡi người biếng nhác, ngươi còn nằm đó tới bao giờ? Chừng
nào ngươi mới ngủ dậy? Ngủ một chút, chợp mắt một chút, khoanh tay nằm một
chút, là cái nghèo sẽ đến như tên du thủ du thực, cảnh bần cùng sẽ đột nhập như
người có vũ trang.” (Cn 6,9-11).