Dân Do Thái trong sa mạc, Tintoretto (1518 - 1594), Nhà thờ San Giorgio Maggiore, Venice
CỘT
LỬA TRONG ĐÊM TỐI: XUẤT HÀNH 14
Marc Girard
Giáo sư Chú giải Kinh Thánh
WGPQN
(18.03.2024) – Phụng vụ Lời
Chúa Đêm Vọng Phục Sinh được xen kẽ với một loạt dài các bài đọc Kinh Thánh.
Nhưng nó dựa trên hai trụ cột chính mà chúng ta nhất định phải giữ lại nếu muốn
rút gọn: Trình thuật vượt qua Biển Đỏ vào lúc nửa đêm và câu chuyện về Sự Phục
Sinh của Đức Giêsu khi ánh bình minh đầu tiên xuất hiện. Hai trình thuật đưa
chúng ta vào mầu nhiệm đi từ cái chết đến sự sống.
Trình thuật về cuộc Xuất
hành khỏi Ai Cập là một văn bản không chỉ mang tính nền tảng mà còn là nền tảng,
chắc chắn đối với người Do Thái cũng như đối với các Kitô hữu. Ta có thể và phải
coi cuộc xuất hành khỏi Ai Cập là “lò luyện sắt” (Đnl 4, 20), như điểm khởi đầu
thực sự của lịch sử cứu độ. Trong sách Sáng Thế Ký, các tác giả Kinh thánh đã
thu góp lại các truyền thống truyền khẩu quan trọng về tổ tiên, về ông Abraham
và những người khác, đồng thời cố gắng tái tạo lại câu chuyện về nguồn gốc của
thế giới bằng cách sử dụng những gì đã được lưu truyền ở lưu vực vùng Cận Đông.
Nhưng tất cả những điều này ít nhiều cũng giống như “tiền sử” của sự cứu rỗi.
Cuộc giải phóng vĩ đại vào thời ông Môsê là điểm khởi đầu đã để lại dấu ấn
trong toàn thể truyền thống Israel và sau đó là Kitô giáo.
Một biểu tượng:
Cột mây và lửa
Biến cố thật ngoạn mục:
Bỗng nhiên một khối nước vốn là chướng ngại vật đã tạo ra một lối đi có thể vượt
qua dưới tác động của cơn gió rất mạnh phát ra từ lỗ mũi của Đức Chúa YHWH (Xh
15, 8). Đương nhiên, ở đây là kết quả sự can thiệp phi thường của Thiên
Chúa: Làm sao chúng ta có thể giải thích được, vào ngày hôm đó, sự trùng hợp của
một hiện tượng thời tiết ngoại thường với nhu cầu khẩn thiết của một đám người
đang chạy trốn, bị một đội quân hùng mạnh truy đuổi và phải đối mặt với cái chết
khó tránh khỏi? Chỉ có một nguyên nhân chính đáng: Sự hiện diện mầu nhiệm của
Thiên Chúa. Sự hiện diện mầu nhiệm, khó cảm nhận này được tượng trưng bằng một
cột mây và lửa (Xh 13, 21-22). Phần chân rõ ràng chạm đất và phần đỉnh hầu như
cao tới tận trời. Cây cột này hoàn toàn không cố định, nó không có điểm chung
nào với những cây cột của một ngôi đền hay nền móng của một tòa tháp. Nó năng động
và luôn di chuyển. Nó không dừng lại cả ngày lẫn đêm.
Cột mây ban ngày
và cột lửa ban đêm
Câu chuyện nhấn mạnh
khía cạnh mầu nhiệm của cột mây và lửa. Hai biểu tượng rất tiện lợi cho dân.
Khi trời sáng, sự hiện diện của Thiên Chúa trở nên râm mát như trong một đám
mây, khi trời tối, ngược lại, nó phát sáng ra như ngọn hải đăng trong đêm. Do
đó, dân Chúa đang tiến đi sẽ không bao giờ ngừng được hướng dẫn, nhưng sự hiện
diện giải cứu của YHWH (= Chúa “hiện diện”, Chúa “ở phía trước”) phần lớn thoát
khỏi tầm hiểu biết của những kẻ đang chạy trốn. Cảm nhận về Chúa luôn bao gồm đồng
thời cả ánh sáng lẫn bóng tối, sương mù và quang đãng. Tại sa mạc Sinai, ông
Môsê khánh thành Nhà Tạm di động – nguyên văn là “Lều Hội Ngộ” – một đám mây
che phủ nó, một lần nữa đây là biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa (Xh 40,
14-15). Rất lâu sau này, khi Salômôn, thực hiện ước nguyện của thân phụ quá cố
là Đavít, đã khánh thành ngôi đền thờ nổi tiếng ở Giêrusalem, hiện tượng này lại
xảy ra: “Có đám mây toả đầy Đền Thờ Đức Chúa” (1V 8, 10).
Chúng ta có thể xem biểu
tượng này như một dụ ngôn về trọn đời sống tâm linh, ngày nay cũng như ngày
xưa. Ngay cả khi chúng ta có đức tin, ví như đi vào ban ngày và là “con cái của
ánh sáng” (Ga 12, 36), chúng ta thậm chí vẫn có lúc lái xe vào trong sương mù
dày đặc làm hạn chế tầm nhìn trước kính chắn gió: Do đó cần phải luôn cẩn thận,
cảnh giác. Trái lại, khi chúng ta trải qua những thử thách về đức tin và cảm thấy
mình trong đêm tối, chúng ta luôn luôn kết thúc bằng cách nhận ra một chút ánh
sáng mà nếu chúng ta chăm chú vào nó, nó sẽ thu hút chúng ta cách khó cưỡng, miễn
là chúng ta mở mắt ra và chú ý, hơi giống con muỗi bị mê hoặc bởi ánh đèn pin
nhỏ nhất vào lúc nửa đêm. Có thể nói một cách đúng đắn về ánh sáng – bóng tối đức
tin của chúng ta như thế.
Sự chuyển đổi từ
đêm sang ngày
Chúng ta hãy quay lại
với việc vượt biển. Trong bản văn nguyên ngữ, Kinh Thánh gọi đây Biển Lau Sậy
(mer des Roseaux). Nhưng các dịch giả tiếng Hy Lạp đã viết là Biển Đỏ (mer
Rouge), mặc dù Biển Đỏ thực sự ở nơi khác. Lỗi địa lý chăng? Có thể. Tuy nhiên
đây là một sự thật ngoại thường xét từ quan điểm biểu tượng vì, trong tất cả
các hệ thống biểu tượng, màu đỏ tương đương với ngọn lửa nuốt chửng và hủy diệt,
biểu tượng của sự dữ và cái chết, ít nhất là ở giá trị tiêu cực của nó.
Đối với người Do Thái
và lãnh đạo của họ là ông Môsê, hành trình đầy nguy hiểm được thực hiện vào ban
đêm, “trên lối đi khô ráo ngay giữa lòng biển”. Nhưng có cột lửa đồng hành cùng
họ, soi sáng và bảo vệ họ (Xh 14, 19-20). Trước khi màn đêm kết thúc, gió của Đức
Chúa YHWH ngừng thổi và “vào lúc tảng sáng” biển trở lại trạng thái bình thường:
Quân Ai Cập truy đuổi dân Israel bị vùi lấp đó và bỏ mạng (Xh 14, 27) . Cuối
cùng cũng đã được cứu thoát! Được cứu khỏi kẻ thù là những con người, đã hẳn rồi!
Nhưng cũng được cứu thoát khỏi vùng nước giam cầm mà trong tất cả các hệ thống
biểu tượng đều tượng trưng cho sự hỗn loạn, sự dữ và sự chết.
Trên thực tế, còn có một
chi tiết quan trọng, dân Israel đi theo cùng một hành trình như mặt trời đi bên
dưới trái đất trong hành trình về đêm của nó: Nó đi từ Ai Cập đến sa mạc Sinai,
vì thế, về mặt địa lý, từ Tây sang Đông. Sự áp bức ở Ai Cập, nơi mặt trời lặn,
tương ứng với giai đoạn ban đêm; việc đến đầu biển bên kia trùng với buổi sáng,
nơi mặt trời mọc. Khi ánh sáng xuất hiện, họ được tự do. Tuy nhiên, trong tất cả
các hệ thống biểu tượng, giống như mặt trời mọc, ánh sáng gợi lên sự cứu rỗi,
hay đơn giản hơn là sự sống.
Từ vượt biển đến
Lễ Vượt Qua của Đức Giêsu
Tôi thường mô tả toàn
bộ Kinh thánh như một cột sống có ba đốt. Mọi thứ còn lại là thịt, dây thần
kinh, cơ bắp và lớp da bao bọc. Những đốt sống nào gánh đỡ mọi thứ? Ba cuộc xuất
hành: Xuất hành khỏi Ai Cập vào thế kỷ XIII trước Công nguyên, chấm dứt thời kỳ
nô lệ kéo dài; cuộc di cư khỏi Babylon vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên vào
cuối thời kỳ lưu đày kéo dài; và sự đi ra khỏi ngôi mộ của Đức Giêsu vào thế kỷ
thứ I sau Công nguyên khi kết thúc một bản án. Trong cả ba trường hợp, đó là sự
giải phóng: Giải phóng khỏi một sự dữ chính trị-xã hội (sự đàn áp của Ai Cập và
Babylon), và triệt để hơn trong trường hợp của Đức Giêsu, sự giải thoát khỏi sự
dữ tận cùng là cái chết. Nói cách khác, trong cả ba trường hợp đều là sự chuyển
từ bóng tối sang ánh sáng. Việc rời khỏi Ai Cập tương đương với sự khai sinh của
một dân tộc, điều mà tôi thích gọi là sự đi ra khỏi quả trứng hay nói một cách
tương tự là sự đi ra khỏi lòng biển mẹ. Sau này, việc trở về từ nơi lưu đày ở
Babylon tương đương với sự tái sinh của cùng một dân tộc này, điều mà một ngôn
sứ diễn tả cách tượng trưng như việc làm trỗi dậy một đội quân xương khô, nói
cách khác là sự phục sinh của một quốc gia (Ed 37, 1-14). Đốt sống thứ ba thuộc
vào hạng duy nhất và đẹp đẽ ở chỗ khi rời khỏi ngôi mộ, Đức Giêsu không phải là
người duy nhất được hưởng lợi từ việc quay trở lại cuộc sống, hay đúng hơn là từ
việc chuyển sang điều mà tôi thích gọi là “còn hơn cả sự sống nữa”
(plus-que-vie); Ngài kéo theo mình một đội quân đông đảo các tín hữu hay tiềm
năng là toàn thể nhân loại (1 Cr 15, 20-21) nếu không muốn nói là toàn bộ vũ trụ
(Rm 8, 19-22). Ta sẽ không có ý tưởng nào để cử hành Đêm Vọng Phục Sinh vào ban
ngày. Nó dìm chúng ta hoàn toàn vào trong mầu nhiệm của một cuộc vượt qua mang
nhiều mặt liên quan đến tất cả chúng ta: Cuộc vượt qua từ bóng tối đến ánh
sáng, từ biển đến đất khô ráo, từ cái chết đến sự sống, từ quần áo vấy bẩn tội
lỗi đến bộ y phục trắng tinh tuyền, từ không tin hoặc đức tin dao động đến niềm
tin đầy nhiệt huyết và dấn thân.
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
Chuyển ngữ từ: Parabole, Mars 2018, Vol XXXIV, No 1, tr. 9-10
Nguồn: gpquinhon.org