CON NGƯỜI: CÓ HỌC - CÓ GIÁO DỤC DƯỚI NHÃN
QUAN KITÔ GIÁO
Lm. Đaminh Hương
Quất
WHĐ, 27-05-2020 –
Con Người một hữu thể mầu nhiệm có tiềm năng tư duy vượt trội, có thể vươn tới
thực tại Siêu hình và trên hành trình tiến triển, lý trí hầu như không có điểm
dừng; song đồng thời Con Người cũng nhận ra chân
tính của một thân phận yếu đuối, dễ nghiêng chiều theo sự xấu, nổi bật xu
thế kiêu căng - chuyên chế độc quyền, bởi đó luôn cần được giáo dục hoàn thiện,
giúp trí lực phát triển thuận với nhân phẩm thăng tiến. Song thực tế, ‘cái đầu'
(lý trí) không phải lúc nào cũng phục vụ tốt cho đời sống Con Người, nếu không
muốn nói, nhiều lúc càng làm đời sống nguy hiểm hơn.
Lý giải cho Con
Người vừa nhân linh vừa phàm tục ấy,
Mạc khải Kinh Thánh cho biết: Con Người
được dựng nên từ bụi đất giống Hình ảnh Thiên Chúa, nhưng đã bị Nguyên tội
làm tổn thương, mà hệ quả là làm tổn hại nặng nề các tương quan với Thiên Chúa, tha nhân, vũ trụ và mâu thuẫn ngay trong
chính hữu thể mình (St 1-3). Con Người đã được ơn Cứu chuộc trong Đức Kitô,
song vẫn có thể lạm dụng tự do làm điều sai trái, trí năng vẫn có thể quay lại
hủy diệt Con Người. Kitô giáo nhìn Con Người trong nhất thể, do đó không ngừng giáo dục và kêu gọi giáo dục con người phát triển toàn diện.
Giáo dục toàn diện không chỉ nhắm tương quan nhân vị và trên hết hướng đến
tương quan Thiên Vị, nghĩa là tương quan Cứu cánh của đời người.
Để làm nổi bật nhãn quan thần học trên, trước hết bài viết khởi đi từ
cái nhìn nhân bản - xã hội.
I. Trên bình diện Nhân bản - xã hội:
1. Thế nào là con người có Học và con người có
Giáo dục?
Người có học là người qua học tập thủ đắc một số kiến thức nào đó, căn bản hoặc
chuyên sâu, thường trở thành một nhà khoa học, học giả hay chuyên gia. Hiện có
các ngành khoa học cơ bản: kiến thức về khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn
xã hội. Hiểu theo nghĩa trên thì ‘người có học' đã thủ đắc một trình độ kiến thức
bậc cao; thông thường hiểu là người có học thức, có kiến thức, có học vị. Người
có học thiên về cái đầu, nặng về trí
thức. Theo lẽ tự nhiên, ai cũng có thể trở thành người có học vì ai cũng có trí
năng.
Giáo dục cũng nhằm
đến việc cung cấp kiến thức dù không chuyên sâu nhưng giúp cuộc sống có tương
quan tốt hơn, ‘nên người' hơn. Giáo dục
nhắm đến đào tạo nhân bản, con người toàn diện. Người có giáo dục là người ‘biết sống', biết ứng nhân xử thế. Nhà
nho gọi người có Giáo dục là quân tử
hay thành nhân, bình dân gọi là người
có Đức. Như vậy, người có giáo dục là có ‘cái
tâm'. Mọi người phải có bổn phận nên người có giáo dục.
2. So sánh giá trị: Tri thức và Đức hạnh đều
quan trọng, đều cần cho sự phát triển xã hội con người. Tuy nhiên, nếu phải cân
đo, thì người có giáo dục cần thiết hơn người có học. Đức cần hơn tài. Nguyễn
Du đã từng khẳng định: “chữ Tâm kia mới bằng
ba chữ Tài”. Đối với Gandhi, điều đáng sợ nhất là người trí thức độc ác. Thực
tế cho thấy, người có Tài mà thiếu Đức nguy hiểm hơn người có Đức mà thiếu tài.
Lý tưởng là biết hài hòa giữa Đức -
Tài, trong đó Đức làm nền tảng, Tài
là động lực phát triển cho xã hội
thăng tiến. Việc hài hòa Đức - Tài là có thể, bởi tự chúng có tương quan biện
chứng, hỗ trợ nhau chặt chẽ.
3. Tương quan biện chứng giữa ‘có học' và ‘có
giáo dục':
Con Người, một nhất
thể nên tự chất ‘cái đầu' và ‘cái tâm' có tương quan biện chứng, bổ trợ nhau.
Trí thức khai mở, phát triển giúp ta suy tư về hiện hữu, khám phá vũ trụ nhờ đó
biết ‘căn tính' mình hơn. Càng biết mình thì đồng thời càng biết sống tương quan. Trong đời sống xã hội, tương
quan quan trọng và thiết thực là tương quan tha nhân; Trái lại, người có giáo dục
thực sự không thể không quan tâm đến việc trau dồi kiến thức. Kiến thức giúp ‘người
có giáo dục' phong phú hơn. Lương tâm - trách nhiệm của một thành nhân không thể chấp nhận cho sự
ươn lười, thiếu cố gắng trong học tập khi mà có thể. Như vậy, tương quan biện
chứng tự chất giữa ‘có học' - ‘có giáo dục' không chấp nhận lập trường duy tâm
hay duy lý, hoặc phiến diện.
Đối với hiền triết
Socrate (khoản 470-399 tr.cn), không có sự phân biệt, Tri thức và Đức hạnh là một.
Theo ông, biết thiện tức làm thiện, tri
thức là đức hạnh. Khi đồng hóa tri thức- đức hạnh, nhà hiền triết của chúng
ta muốn nói, sở dĩ có cái ác, làm điều xấu là do thiếu vắng tri thức, không ai
làm điều xấu một cách có ý thức[1].
Quan niệm ‘đồng
nhất' trên có tính lý tưởng, thực tế
thì không hẳn vậy. Người có học nhưng không đồng thời là người có đức. Hitler,
Stalin... là những người có tài nhưng đồng thời lại là những điển hình nhất cho
tội ác dã man ở thế kỷ XX, từng bị cả Nghị viện Châu Âu ra nghị quyết liệt vào
tội ác chống nhân loại[2]. Thời
cổ đại, thủ đô Athene được coi là thủ đô triết học, văn minh, trí thức nhất thế
giới, thế mà triết gia Diogenes (sống thế kỷ IV tr.cn) lại thắp đuốc giữa ban
ngày để đi tìm người, bởi trong thành phố phồn vinh này ông chỉ toàn thấy ngợm...
Nói đâu xa, hiện nay nhân loại đang sống trong ‘nền văn minh sự chết' (Đức
Thánh cha Gioan Phaolô II), đầy thấp thỏm lo sợ: chiến tranh, khủng bố.
Tại sao tri thức
- đức hạnh trong nhất thể vốn có tương quan biện chứng mật thiết lại có sự mâu
thuẫn? Để trả lời cho câu hỏi này ta cần phải biết Con Người là gì?
Đã có nhiều quan
niệm về Con Người tuỳ góc nhìn, hướng nghiên cứu, ý thức hệ, nhưng kết quả vẫn
chưa có một ‘định nghĩa' đầy đủ[3]. Điều
này cho thấy, hữu thể Con Người là một thực tại mầu nhiệm, vừa rất cụ thể (vật
lý tính), vừa có khả năng vượt trên chính mình (siêu việt tính); vừa thao thức
cuộc sống (hiện sinh tính), vừa khắc khoải tương lai, khao khát bất tử. Nếu tri
thức hay giáo dục chỉ dừng trên bình diện nhân bản - xã hội tại thế, loại đi sự
sống sau khi chết thì sẽ không bao giờ có một nền giáo dục - tri thức đích thực,
trái lại còn hết sức nguy hiểm, mà hệ quả chỉ là những luẩn quẩn bế tắc, mâu
thuẫn nhau, sống bằng luật rừng (mạnh được yếu thua) để sinh tồn.
Bởi thể, để hiểu
Con Người đúng nghĩa nhất, để thấy được giá trị phẩm giá nhân vị có lý trí - ý
chí, có tự do, có lương tâm, để nền văn minh Con Người không sa lầy vào sự chết,
thì không thể thiếu chiều kích thần học,
tức đặt Con Người trong tương quan với Thiên Chúa, hiểu Con Người dưới ánh sáng
mạc khải của Thiên Chúa.
II. Trên
bình diện thần học:
1. Con Người là gì? Nhờ mạc khải ta biết được
căn tính đích thực: Con Người được Thiên Chúa dựng nên từ bụi đất theo hình ảnh của Ngài
(Imago Dei), được trao quyền làm chủ vũ trụ trong tương quan nhân vị (St 1-2).
Trong tiến trình tìm đạt hạnh phúc đích thực, phẩm giá cao quý của con Người hệ
tại nơi ‘hình ảnh Thiên Chúa'. Con Người giống Hình ảnh Thiên Chúa: điều đó lý giải tại sao Con Người có Lý trí - Ý chí,
có Tự do, có khả năng biết Yêu thương, khao khát Chân - Thiện - Mỹ... có thể
đạt đến tầm vóc vô biên.
Trong các yếu
tính thần linh ấy, tự do đích thực là dấu
chỉ cao cả nhất của hình ảnh Thiên Chúa nơi Con Người (x.MV 17). Cũng nhờ mạc
khải ta biết Con Người đã sa ngã khi lạm dụng tự do, muốn tự quyết đời mình
ngoài Thiên Chúa. Nguyên tội (Tội lỗi) dẫu không phá huỷ Hình ảnh Thiên Chúa
nơi Con Người song đã làm tổn thương nặng nề các Tương quan vốn tốt đẹp: với
Chúa - tha nhân - vũ trụ- chính mình. Nó làm Con Người trở nên mong manh, yếu
đuối, luôn phải đấu tranh với chính mình. Kitô giáo dưới ánh sáng mạc khải luôn
nhìn Con Người trong một nhất thể là Hồn - Xác, đồng thời bác bỏ mọi quan niệm
chia rẽ hay xem trọng, khinh thái quá giữa hồn - xác. Con Người thăng tiến là một
Con Người quân bình - nhân vị thống nhất, phát triển hài hòa.
2. Phẩm giá của Trí tuệ và vai trò của Giáo dục
Trí tuệ có một phẩm giá cao quý vì được dự phần Ánh sáng Trí tuệ của Thiên Chúa.
Nhớ có lý trí, thụ tạo Con Người vượt trội vũ trụ vật chất, biết suy tư phản tỉnh, giúp khả năng làm chủ,
khám phá quản lý chúng. Trí tuệ Con Người luôn có nhu cầu vươn đến tầm cao hơn,
không ngừng tìm tòi cái mới, khai phá bí ẩn, thỏa khát chân - thiện- mỹ, tức hướng
về cội nguồn của chính nó là Thiên
Chúa.
Ý thức phẩm giá
có nguồn cội thiêng liêng ấy, Giáo hội luôn đề cao và trân trọng phát triển tri
thức nhân loại. Công đồng Vaticanô II quả quyết: Trí tuệ Con Người được kiện toàn trong hiểu biết và nhờ hiểu biết lôi
kéo, con người tìm kiếm và ái mộ những gì là chân - thiện - mỹ, rồi từ thế giới
hữu hình, Con Người có thể tới thế giới vô hình (MV 15). Như vậy, lý trí chân chính không những giúp đời sống
Con Người thăng tiến trong năng động - phong phú mà còn có thể hiểu biết- yêu mến
Thiên Chúa như là Cứu cánh của đời người.
Thông thường,
khoa học nhân văn coi nhận thức Con Người phát triển qua hai giai đoạn: cảm tính và lý tính. Lý trí được coi như
chiếc cầu giúp nhận thức cảm tính (cảm giác, tri giác...) nhất thời, mau qua, cần
trực tiếp với nhận thức lý tính (trí tuệ) và không ngừng giúp con người lý tính
phát triển khả năng tư duy[4]. Bây
giờ, nhờ mạc khải, ta biết thêm để hoàn thiện thống nhất Con Người không thể
thiếu chiều kích Thần học (nhận thức
thần học). Thần học không hẳn là thần luận như trong các triết gia, tôn giáo tự
nhiên là dùng lý trí tự nhiên suy tư về Thượng đế (Thượng đế học) không cần phải
có tương quan với Ngài, không đòi cần có Đức tin; trái lại thần học dựa trên mạc
khải của Thiên Chúa, có Đức tin soi dẫn nhằm tìm hiểu, đào sâu thêm Đức tin. Người có Thần học là con người có Đức
tin, dùng lý trí để đào sâu đức tin, để kiện toàn đời sống nhân đức (đối thần
và nhân bản) luôn đặt trong tương quan với Thiên Chúa.
Chính nơi Con Người
Thần học, Con Người không chỉ tìm được cội nguồn, cứu cánh của đời người, mà
còn làm động lực phát triển tư duy nhằm thăng tiến Con Người trong đời sống hiện
sinh. Tuy nhiên, như đã nói, tội lỗi làm con người trở nên yếu đuối, dễ hướng
chiều sự dữ nên Trí tuệ nói riêng, và Con Người nói chung luôn cần được giáo dục.
Nhờ giáo dục, phẩm giá trí tuệ được gọt giũa, nhào nặn trở nên tinh tuyền hơn,
giúp ta biết biện phân điều hay lẽ phải, tích cực nâng cao phẩm giá lương tâm,
cũng như thấy rõ hơn sự cao cả của tự do (x. MV 16-17).
Vai trò của giáo dục: Với vai trò khai trí giúp Con Người nhận ra và sống
đúng phẩm giá cao quý của mình, giáo dục có vai trò vô cùng quan trọng (ngày
nay càng khẩn cấp). Quyền được hưởng một nền giáo dục xứng hợp là quyền căn bản của tất cả mọi người. Nền giáo dục xứng hợp là nền giáo dục phát huy
chân lý và Đức ái (x.GD. 0-1). Ý thức mình có nhiệm vụ săn sóc toàn diện đời
sống Con Người, kể cả đời sống trần tục, trong mức độ liên hệ với lời mời gọi của
Thiên Chúa, Giáo hội đã - đang và luôn tích cực mở mang và phát huy nền giáo dục
chân chính. Nhờ nền giáo dục xứng hợp mà
các nhân đức luân lý tự nhiên vốn tốt được tăng trưởng (CG 1839t).
Rõ ràng, qua giáo
dục các tính năng của một thụ tạo giống Hình ảnh Thiên Chúa được thể hiện, là
đang sống theo ý Chúa. Hẳn nhiên, không như kiến thức, đến một lúc nào đó (hay
thủ đắc được một trình độ nào đó) Con Người có quyền thôi học nhưng với giáo dục
thì gắn bó theo con người cho đến hơi thở cuối cùng, bởi nó không chỉ góp phần
làm nên tư cách - nhân đức và luôn cần hiện diện giúp ta ý thức sống tốt, sống
ra người hơn. Nhân đức ‘thủ đắc' nhờ quá trình luyện tập thường xuyên, vẫn có
khả năng biến chất, bị mất, chính vì thế người có giáo dục đích thực là người ý
thức tự giáo dục cao.
Nhà thần học Dòng
Tên thời Danh K. Rahner coi người có giáo dục, tức những người tốt sống theo lẽ
lương tâm, theo chân lý phổ quát là ‘Kitô
hữu vô danh' (chưa được Phúc âm hóa nhưng vẫn được công chính bởi ân sủng Đức
Kitô)[5]. Tuy
nhiên, sống theo tự nhiên trong thân phận yếu đuối bởi tội chắc chắn còn nhiều
hạn chế, nhất là trong một thế giới tục hóa có thể dẫn đến những sai lầm trong
hành động, do đó Con Người phải cần đến mạc khải của Thiên Chúa (CG 2244). Nói
cách khác, cần đến nền giáo dục Kitô giáo.
3. Nền giáo dục Kitô giáo - nền giáo dục toàn diện
hướng đến đời sống mới:
Giáo dục Kitô
giáo nhằm phát triển toàn diện Con Người từ thân xác trí tuệ đến những khả năng
tâm linh dựa theo những chuẩn mực của lý trí và mạc khải, cũng như nhờ sự trợ
giúp của Ơn thánh, để chuẩn bị cho ta có thể một đời hạnh phúc và hữu ích trên
trần gian này, đồng thời hướng đến đời sống vĩnh cửu thiên đàng mai sau[6]. Bởi
Con
người là Hồn - Xác hợp nhất, bất khả phân ly, nên nền giáo dục toàn diện
không thể chấp nhận lối giáo dục thiên lệch (nặng về kiến thức, nhẹ về đạo đức
hay ngược lại), hoặc một nền giáo dục độc quyền, đầy ý thức hệ, không tôn trọng
chân lý phổ quát, trái với tự nhiên (x.GD 6).
Không chỉ dừng lại
ở nền giáo dục đầy đủ nhằm đào tạo nên
người hơn, giáo dục Kitô giáo như một
con đường của sự thánh hóa (CG. 902). Đối với Kitô hữu, nền giáo dục chính
đáng nhắm đến một Đức tin trưởng thành, hướng đến đời sống mới trong Đức Kitô.
Quả thế, nơi Con
Người cũ, tội lỗi dẫu không phá huỷ bản tính tốt đẹp của tạo dựng nhưng không
thể làm con người tự hoàn thiện nếu không có ơn Chúa, không có mạc khải soi dẫn.
Mà Ân sủng - mạc khải của Thiên Chúa
chính là Đức Kitô - Giêsu, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (Cl 1,15).
Ngài mới là Con Người đích thực, là hình ảnh Thiên Chúa đúng nghĩa mà thụ tạo
giống Hình ảnh Thiên Chúa quy chiếu, nhờ Người và trong Người được viên mãn.
Thánh Phaolô nhìn Đức Kitô chính là Ađam mới đem lại sự sống, ân sủng của Thiên
Chúa, đối lại Ađam cũ bởi bất tuân, đem đến sự chết nhằm làm nổi bật Ân sủng
tình yêu nhưng không của Thiên Chúa trước tội lỗi (Rm 1,12-21; 1Cr 15,21t).
Kitô hữu trong Ađam mới đã thực sự được tái sinh nhờ Đức tin khi chịu phép
Thánh Tẩy, đã thực sự có đời sống mới nhưng vẫn mang thân phận của Ađam cũ -
qua truyền sinh, nghĩa là ta vẫn mang trong mình bản tính với tất cả những yếu
đuối, dễ nghiêng chiều tội lỗi. Trong đời sống mới nhờ sức mạnh Thánh Thần của
Đức Kitô, bổn phận của mỗi người Kitô hữu không ngừng ‘gột bỏ' (thanh luyện)
con người cũ để mặc lấy con người mới là Chúa Giêsu (Ep 4,17-32; Cl 3,9t)[7].
Như thế, hướng đến Đời sống mới trong Đức Kitô,
giáo dục Kitô giáo muốn đưa Con Người đạt mức kiện toàn. Chỉ trong Đức Kitô
hình ảnh Thiên Chúa nơi Con Người mới đạt thành trọn vẹn, người có học và người
có giáo dục theo tự nhiên mới tìm được ý nghĩa - cứu cánh đích thực của mình.
Trong đời sống mới, đời người không chỉ tìm thấy sức sống, hạnh phúc ý nghĩa ở
đời này mà còn đảm bảo cho đời sống viên mãn mai sau. Hy vọng đời sống đời sau
càng thôi thúc Kitô hữu cải thiện đời sống, sống
hết mình với hiện sinh, tích cực góp tay xây dựng một nền văn minh thấm đẫm
tính văn hóa sự sống, nên hòa bình thịnh trị trong tương quan anh em có chung một
người Cha.
Tóm lại: Trong nhãn quan
Kitô giáo, trí tuệ có phẩm giá cao đẹp phản ảnh hình ảnh Thiên Chúa nơi Con Người.
Người có học là người góp phần triển nở sự khôn ngoan của Thiên Chúa nơi trí tuệ
Con Người. Bởi con người đã sa ngã, nên trí tuệ có nguy cơ mất phẩm giá nên
luôn cần được giáo dục để sống có nhân bản hơn. Người có giáo dục, trên bình diện
đầy đủ hơn, là người đã biết sống giá trị làm người. Nền giáo dục đích thực hay
người có giáo dục đúng nghĩa đồng thời là người quan tâm phát triển trí tuệ, bởi
hơn ai hết họ biết nhờ sự phát triển này ‘cái tâm' của họ sẽ được triển nở cùng
với lý trí. Như thế người có học hay người có giáo dục là người đang thể hiện
hình ảnh Thiên Chúa đã được Ngài khắc ghi ngay từ thuở đầu tạo dựng, đặc thù
(có học) và toàn diện (có giáo dục).
Trong nhất thể, sự
biện phân người có học, người có giáo
dục để thấy rõ hơn giá trị đặc thù chứ không được biệt lập và không thể có việc tách rời. Nói theo ngôn ngữ triết học,
‘có giáo dục' đào luyện Con Người tăng tiến cái Là, làm nên bản thể người;
‘có học' giúp con người phát triển cái Có,
là những tuỳ thể, giúp bản thể phong
phú, triển vọng hơn. Nói chung, tất cả đều cần thiết giúp con phát triển, đều
là ‘dung môi' cần thiết để Con Người
đón nhận Đấng là Đường là Sự Thật và là Sự
Sống (Ga 14,6).
* Thay
lời kết:
Dưới nhãn quan
Kitô giáo, Con Người là một tuyệt tác của Đấng Tạo Hóa khi Ngài trực tiếp tạo dựng
Con Người theo Hình ảnh của Mình, một hữu thể mầu nhiệm, luôn mở với thao thức
vô biên.
Công trình tạo dựng
của Thiên Chúa, kể cả Con Người đang trong tiến trình hoàn thiện. Con Người và
vũ trụ vẫn đang lớn lên, kiện toàn trong sự Quan phòng của Thiên Chúa. Trong tiến
trình ấy, với tư cách làm chủ, lý trí
- ý chí con người trong tình yêu liên vị góp phần đắc lực đưa công trình Tạo dựng
đạt đến điểm Omega[8]. Để
làm được điều đó, con người không chỉ là người
có học mà quan trọng hơn phải là người
có giáo dục. Chính trong con người thứ hai này mới diễn tả rõ hơn căn tính
người, biết mình có phẩm giá cao quý, có tương quan với Thượng Đế (hữu thể tôn
giáo) sống đời này nhưng tin và hướng về đời sau vĩnh hằng. Con người có giáo dục
dễ đón nhận và sống mạc khải của Thiên Chúa là chính Chúa Giêsu.
Đức Kitô- Giêsu,
mặc khải của Thiên Chúa, trong Người và chỉ trong Người nhân loại mới đạt thỏa
mọi vấn nạn, khát vọng, giải tỏa mọi bế tắc. Đấy là điều mà Giáo hội, nhờ giáo
dục muốn giúp Con Người, cách riêng Kitô hữu đạt thành. (Tháng Năm- 2010)
* Ký Hiệu Văn Kiện Trích Dẫn:
MV - Hiến Chế Mục
vụ về Giáo hội trong Thế giới ngày nay (Gaudium et Spes).
GD - Tuyên ngôn về
Giáo dục Kitô giáo (Gravissimum
Educationis).
CG - Giáo Lý Công
Giáo, 1992.
* Tài Liệu Tham Khảo Chính:
1/ Sách giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, 1992.
Bản dịch của UBGLĐT, trực thuộc HĐGM.VN, 2010.
2/ Thánh Công Đồng Chung Vaticanô II, Giáo
Hoàng Học Viện PIO X- Đà Lạt, 1972.
3/ Phan Tấn
Thành, Đời Sống Tâm Linh, tập 8, Roma
2009.
4/ Luis
F.Ladaria, Nhập Môn Nhân Học Hướng Thượng,
người dịch Lâm Văn Sĩ, O.P, 2009.
5/ Georg
Langemeyer, Nhân Văn Luận Thần Học Qua
Các Tác Giả.
6/ Jean Mauroux, Quan Niệm Kitô Giáo Về Con Người, biên dịch
Trần Thái Đỉnh- Nguyễn Bình Tĩnh, ĐCV Huế, 1997.
7/ Marcel Neusch
- Bruno Chenu, Tham Quan Xứ Sở Thần Học,
phiên dịch L.m Nguyễn Hồng Giáo, OFM.
8/ Lm. Phêrô Lê
Văn Chính, Nhân Học Kitô Giáo, ĐCV
Thánh Giuse, 2005.
9/ Samuel Enoch Stumpf, Lịch Sử Triết Học Và Các Luận Đề, biên dịch Đỗ Văn Thuấn, Lưu Văn Hy, Lao Động, 2007.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGMVN Số 116 (tháng 1 & 2, năm 2020)
__________
[1] x. Samuel Enoch Stumpt, Lịch Sử Triết Học Và Các Luận Đề, tr.41t.
[2] Nghị viện Châu âu (PACE) cuối tháng 01-2006 đã nhất trí ra Nghị quyết số 1481 lên án Hitler, Stalin là tội ác chống nhân loại (BBC), https://assembly.coe.int/nw/xml/XRef/Xref-XML2HTML-en.asp?fileid=17403&lang=en (truy cập 5/2020).
[3] x. Phan Tấn Thành, Đời Sống Tâm Linh,
T8, tr.44t.
[4] x. Phan Tấn Thành, sđd 77t.
[5] x Marcel Neusch- Bruno Chenu, Tham Quan Xứ Sở Thần Học. tr 138.
[6] x. Từ
Điển Công Giáo Phổ Thông, mục từ Giáo
dục Kitô giáo.
[7] x. Điển
Ngữ thần học Kinh Thánh, từ Ađam. II- Ađam mới
[8] Theo nhãn quan của cha Dòng Tên Teilhard de Chardin, được Công đồng Vat. 2 chuẩn nhận: Đức Kitô là Alpha và Omega.