CÓ HAY KHÔNG MỘT CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC CÔNG GIÁO?
Tác giả: Jimmy Akin
Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
Từ: catholic.com
WGPQN (11.7.2021) - Bạn đã từng
nghe về chủ nghĩa đế quốc Công giáo (Catholic imperialism) chưa? Đó là một huyền
thoại phổ biến chống Công giáo đại loại như thế này: Các nhà truyền giáo Công giáo là những tay đế quốc đã nô lệ hóa và bần
cùng hóa các dân tộc bản địa!
Nhưng như tất cả các huyền thoại chống Công giáo khác, đây
là câu chuyện không đúng. Và đây mới là chuyện đúng và thật!
Vào Thời đại Khám phá (Age of Exploration), giữa thế kỷ XV
và XVI, đã tạo nên một tình trạng chưa từng có cho Giáo Hội. Với việc khám phá
những miền đất mới rộng lớn, người ta nhận ra rằng có biết bao nhiêu triệu người
chưa từng biết đến sứ điệp của Đức Giêsu Kitô.
Chính Đức Giêsu đã nói khi ủy nhiệm sứ mệnh truyền giáo: “Hãy đi và làm cho các dân tộc trở thành môn
đệ, giảng dạy cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều
thầy đã truyền dạy cho các con” (Mt. 28,19-20).
Vì thế các nhà truyền giáo bắt đầu chấp nhận những khó khăn
và nguy hiểm của những chuyến du hành khắp thế giới vào thời ấy. Họ đi khắp
hoàn cầu, theo chân các nhà khám phá và mang sứ điệp Đức Kitô đến với mọi người
ở khắp mọi nơi.
Nhưng có một vấn đề: các
thế lực đế quốc khác nhau – chủ yếu là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, Pháp, Anh, và
Hà Lan – họ đã khám ra những miền đất mới và bận rộn tranh giành với nhau để
thiết lập nên những thuộc địa. Mỗi quốc gia tìm kiếm lợi ích của riêng mình và
không muốn rơi lại phía sau những quốc gia khác.
Điều này có nghĩa là những thế lực này cũng tranh giành và
trong nhiều trường hợp đã khai thác các dân tộc bản xứ của những miền đất này.
Tệ hơn nữa, nhiều nhà khai thác còn nhân danh đức tin Kitô giáo của mình để biện
minh cho sự chinh phục, bóc lột và nô lệ hóa những người dân bản xứ.
Các nhà truyền giáo đã làm gì? Những người Công giáo đã phàn
nàn với Đức giáo hoàng về điều mà những kẻ xâm chiếm và những người khác đang
làm, và năm 1537, Đức Phaolô III đã ban hành đoản sắc Pastorale Officium, trong đó ngài nhắc lại
rằng hoàng đế Charles V, vị hoàng đế thánh thiện của Rôma, đã cấm các thần dân
của mình nô dịch hóa hay cướp bóc dân bản xứ trong những miền đất truyền giáo.
Rồi Đức thánh cha thêm vào đấy hình phạt cao nhất của Giáo Hội là dứt phép thông
công (penalty of excommunication):
Vì thế, chúng tôi cảnh
báo rằng những người dân bản xứ này, mặc dù ở ngoài Giáo Hội, họ vẫn không thiếu
hay bị tước đoạt quyền tự do hay quyền sở hữu tài sản của mình, vì họ là những
con người và do đó họ có khả năng đức tin và ơn cứu rỗi, nên họ không phải bị
tiêu diệt bằng sự nô lệ hóa mà đúng ra phải được mời gọi đến sự sống qua sự rao
giảng và gương mẫu. Thêm vào đó, chúng tôi muốn ngăn chặn những hành vi đáng
kinh tởm của những kẻ vô đạo đức và bảo đảm rằng những người bản xứ không quá cứng
lòng để đón nhận đức tin vào Đức Kitô … chúng tôi đòi buộc rằng … hãy hết sức cẩn
trọng hầu tránh được sự nghiêm khắc … của hình phạt dứt phép thông công … bất cứ
ai ở bất cứ cấp bậc nào biến những người bản xứ nói trên thành nô lệ dưới bất kỳ
hình thức nào hoặc cướp bóc tài sản của họ dưới bất kỳ hình thức nào.
Đây là một trong những văn kiện của các đức giáo hoàng vào
thời kỳ ấy đã đứng về phía dân bản xứ chống lại những người tìm cách áp bức họ.
Các ngài nói rằng họ là những con người (nghĩa là có nhân quyền) và họ có thể
quay mặt với Tin Mừng vì bị đối xử tệ. Điều này đặc biệt quan trọng bởi vì Giáo
Hội luôn luôn cấm cải đạo cưỡng bách. Như giải thích của sách Giáo lý Giáo Hội Công giáo, số 160, Tin Mừng phải được đón nhận cách tự
nguyện: “Để là một hành vi của con người,
"đức tin mà con người đáp lại Thiên Chúa phải là tự nguyện. Do đó, không
ai bị cưỡng bức phải chấp nhận đức tin trái với ý muốn. Thật vậy, tự bản chất đức
tin là một hành vi tự ý".
Như vậy Giáo Hội nhìn
nhận dân bản xứ như là những con người, họ đáng được tôn trọng và có linh hồn cần được Đức Giêsu cứu
rỗi. Giống như những người Âu châu, Đức Kitô đã chết cho họ, và họ phải được đối
xử như mọi người khác. Như thế, Giáo Hội tìm cách giúp các dân tộc bản xứ và bảo
vệ họ khỏi bị khai thác.
Mặc dù điều này cũng có hiệu quả, song rủi thay nó không có
nghĩa là tất cả mọi sự khai thác đều dừng lại. Như đức giáo hoàng ngày nay
không thể sai khiến các chính trị gia Công giáo đưa giáo huấn Giáo hội về các vấn
đề như phá thai vào chính sách công, các giáo hoàng của thời đại ấy cũng đã có ảnh
hưởng hạn chế trên các thế quyền.
Kết quả là một thời đại có cả ánh sáng lẫn bóng tối, có sự
khai thác lẫn sự phát triển của Tin Mừng. Như trong mỗi thời đại, người trong
thời đại ấy phải được nhìn cách đúng với thực tế. Không có gì hoàn toàn tốt, chẳng
có gì xấu hoàn toàn. Giống như chúng ta, họ là những cá nhân phức tạp.
Các giáo hoàng gần đây đã nhìn nhận điều đó, gồm cả Đức
Phanxicô, người đã khẳng định rằng: “Tôi
nói điều này với sự tiếc nuối: chúng ta đã phạm phải nhiều trọng tội với các
dân tộc bản xứ của châu Mỹ nhân danh Thiên Chúa … Giống như Đức Gioan Phaolô
II, tôi xin Giáo Hội – tôi lập lại điều tôi đã từng nói – là hãy quỳ gối trước
Thiên Chúa và xin tha thứ vì những tội lỗi của các con cái mình trong quá khứ
và hiện tại”.
Rồi ngài tiếp tục, “Cùng với lời cầu xin tha thứ này, và để được công bằng, tôi cũng muốn chúng ta hãy tưởng nhớ đến hàng ngàn linh mục và giám mục với quyền năng của thập giá đã mạnh mẽ chống lại lý lẽ của lưỡi gươm”.
Nguồn: gpquinhon.org