CHÚNG TA LÀ GIÁO HỘI
Xây dựng Giáo Hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ vụ
Lm. JB. Trần Hữu Hạnh, CSF
Thế kỷ 21 là thế kỷ của người
giáo dân, nhưng người giáo dân ở Việt Nam vẫn còn đang im hơi lặng tiếng. Có lẽ
do ảnh hưởng của Nho giáo: tôn kính các đấng các bậc, mà đa số người giáo dân
Việt Nam vẫn sống thụ động, chờ các đấng các bậc bảo gì làm nấy, không có tính
sáng tạo, không tham gia tích cực vào các sinh hoạt chung của Giáo hội. Đây là
một thiếu sót lớn, mà trách nhiệm trước tiên thuộc về hàng giáo sĩ. Bởi vì cũng
do ảnh hưởng của Nho giáo mà hàng giáo sĩ nhiều khi coi thường giáo dân, không
giao trách nhiệm cho họ, không chú tâm đào tạo họ trở thành những người cộng
tác, cùng chia sẻ trách nhiệm với mình.
Trong Giáo Hội, mọi người đều có phẩm giá ngang nhau, dù chức
năng có khác nhau: “Chỉ có một Thiên Chúa, một đức tin, một Phép Rửa, một dân
riêng của Thiên Chúa, cùng chung một phẩm giá của những chi thể đã được tái
sinh trong Đức Kitô, cùng có một ân huệ làm con cái Thiên chúa, một ơn gọi nên
trọn lành, một ơn cứu độ và một niềm hy vọng duy nhất và một đức ái không phân
chia. Vì thế trong Đức Kitô và trong Giáo hội không có sự hơn kém về nguồn gốc
hay dân tộc, vì địa vị xã hội hoặc vì nam nữ.” (LG 32).
“Giáo hội chưa được
thiết lập thực sự, chưa sống đầy đủ, cũng chưa là dấu chỉ tuyệt hảo của Chúa
Ki-tô giữa loài người nếu như chưa có hàng giáo dân đích thực và nếu hàng giáo
dân này chưa cùng làm việc với hàng Giáo phẩm. Thật vậy, Phúc âm không thể
đi sâu vào tinh thần, đời sống và sinh hoạt của một dân tộc nếu không có sự hiện
diện linh hoạt của giáo dân. Do đó, ngay khi thiết lập, Giáo hội phải hết sức
chú tâm đến việc đào tạo một hàng giáo dân Ki-tô giáo trưởng thành.” (AG 21).
Công đồng Vaticanô II còn đề cao vai trò của người giáo dân
trong sứ mệnh loan báo Tin mừng: “Người giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho
Giáo hội hiện diện và hoạt động nơi và trong những hoàn cảnh mà nếu không có họ,
Giáo hội sẽ không trở thành muối của thế gian. Như thế, vì những ân huệ đã lãnh
nhận, mọi giáo dân vừa là chứng nhân vừa là dụng cụ sống động cho chính sứ mệnh
của Giáo hội.” (LG 33) Công đồng khẳng định: “Thánh Linh không chỉ thánh hóa và
hướng dẫn Dân Thiên Chúa bằng các bí tích và các thừa tác vụ, cùng trang bị họ
bằng các nhân đức, nhưng Ngài còn ban phát các ân sủng đặc biệt cho mọi cấp bậc
các tín hữu ‘phân chia ân huệ cho mỗi người theo ý Ngài’ (1Cr 12, 11), khiến
người lãnh nhận các ân sủng ấy có đủ khả năng và sẵn lòng đảm nhận các công việc
và nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Giáo hội.”
(LG 12b).
Tông huấn Giáo hội tại Á Châu cũng nhấn mạnh: “Hơn ai hết, họ
chính là những người được mời gọi biến đổi xã hội, cộng tác với các Giám mục,
linh mục và tu sĩ, bằng cách đưa ‘tinh thần của Chúa Kitô’ vào trong não trạng,
tập quán, luật lệ và cơ chế của thế giới mà trong đó họ đang sống.” (EA
22).
Trong Giáo hội Châu Á ngày
nay, Chúa Thánh Thần đang thúc giục những môn đệ của Chúa Kitô sống và làm chứng
về sự hiệp nhất trong Giáo hội địa phương, đặc biệt là tại lãnh vực giáo xứ,
xây dựng một Giáo hội tham gia mà trong đó các Giám mục, linh mục, tu sĩ và
giáo dân cùng hiệp thông, chia sẻ, hợp tác và đồng trách nhiệm trong sứ vụ loan
báo Tin mừng.[1] “Cần phải thay đổi não trạng,
trước hết là cái nhìn về người giáo dân, từ chỗ coi họ là cộng tác
viên của hàng giáo sĩ đến chỗ chấp nhận họ là những người đồng trách
nhiệm thật sự trong việc thể hiện và trong hoạt động của Giáo hội, thúc đẩy
một hàng ngũ giáo dân trưởng thành và nhiệt thành theo chiều hướng này.”[2]
Hợp tác và đồng trách nhiệm ở đây được hiểu là những người
ngang hàng, cùng nhau bàn bạc, cùng nhau thực hiện. Giáo hội tại Á Châu phải là
Giáo hội tham gia (Participatory Church) mà trong đó không ai cảm thấy bị loại
trừ (x. EA 45). Toàn bộ Giáo hội được sai đi để loan báo và phục vụ nước Thiên
Chúa. Tất cả các thành viên của Giáo hội đều có trách nhiệm xây dựng Giáo hội
và chia sẻ toàn bộ sứ vụ của Chúa Kitô. Thật vậy, chúng ta là Giáo hội. Đó là cộng
đoàn con cái Thiên Chúa, cùng là môn đệ của Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Thần. Vì vậy,
sự hiệp thông trong cộng đoàn và sứ vụ phải liên kết và thúc đẩy lẫn nhau.
Vậy, làm thế nào để cho người
giáo dân tham gia tích cực vào các sinh hoạt của Giáo hội? Rút ra từ những kinh
nghiệm của các Giáo hội khác, cách hay nhất là khuyến khích người giáo dân
thành lập các Cộng đoàn Giáo hội cơ bản (Basic Ecclesial Community,
viết tắt: BEC). Trong Giáo hội Việt Nam, thường thì việc gì cũng xuất
phát từ hàng giáo sĩ mới được coi là quan trọng, trong khi ở các Cộng đoàn Giáo
hội cơ bản thì phần chủ động là chính những người giáo dân. Cộng đoàn Giáo hội
cơ bản (CĐGHCB) chính là Một cách thức mới để thể hiện Giáo Hội (A
new way of being Church), một cách thức mới để người giáo dân tham gia tích cực
vào mọi sinh hoạt của Giáo hội. Cộng đoàn Giáo hội cơ bản là một cách hữu hiệu
để đưa đạo vào đời, để thực thi huấn lệnh yêu thương, liên đới và chia sẻ. Nó mời
gọi sự tham gia của mọi thành viên và vận dụng tất cả các kỹ năng và đặc sủng của
mỗi thành viên. Nó cung cấp cho người giáo dân cảm giác thuộc về Giáo hội, khuyến
khích họ tham gia vào các hoạt động của Giáo hội, giúp họ nhận ra sự hoạt động
của Chúa Thánh Thần trong đời sống hằng ngày của họ. Họ tập họp cùng nhau trong
những nhóm nhỏ, cử hành Lời Chúa và Thánh Thể để họ có thể nuôi dưỡng ý thức về
cộng đoàn và tông đồ. Đó chính là chất men làm biến đổi thế giới của chúng ta.[3]
Các Cộng đoàn này đã xuất hiện từ thập niên 60 ở khắp các
châu lục, nhất là tại Mỹ châu La tinh và Á châu với các tên gọi khác nhau, và
nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của hàng giáo phẩm các nơi. Trong Tông huấn Giáo hội
tại Á châu, Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Trong bối cảnh
ấy và dựa trên kinh nghiệm mục vụ của mình, các Nghị Phụ nhấn mạnh tới giá trị
của các Cộng đoàn Giáo hội Cơ bản như một phương thế hữu hiệu để cổ võ mọi người
sống hiệp thông và tham gia trong các giáo xứ và giáo phận, và như một sức mạnh
thật sự cho công cuộc Loan báo Tin Mừng. Những tập thể nhỏ bé ấy sẽ giúp
các tín hữu sống thành những Cộng đoàn Đức Tin, Cầu Nguyện và Yêu Thương như
các Kitô hữu đầu tiên (x. Cv 2, 44-47; 4, 32-35). Các tập thể này còn giúp các
thành viên sống Tin Mừng trong tinh thần yêu thương huynh đệ và phục vụ, từ đó
trở thành điểm khởi hành vững chắc để xây dựng một xã hội mới, biểu hiện một nền
Văn Minh Tình Thương. Cùng với Thượng Hội đồng, tôi khuyến khích Giáo hội tại
Châu Á, chỗ nào có thể được, hãy coi các Cộng đoàn Cơ bản ấy như một nét tích cực
trong công việc Loan báo Tin Mừng của Giáo hội. Nhưng các cộng đoàn ấy chỉ thực
sự hữu hiệu, khi biết hiệp thông với Giáo hội địa phương và Giáo hội toàn cầu,
hiệp thông từ trong tâm hồn với các vị chủ chăn và huấn quyền của Giáo hội, biết
dấn thân cho việc truyền giáo mở rộng, không rơi vào tình trạng cô lập và không
để cho một ý thức hệ nào lợi dụng khai thác” (số 25).
Các giáo xứ chính là các Cộng
đoàn Giáo hội cơ bản, nhưng các giáo xứ đã trở thành quá đông, không cho phép
chúng ta thiết lập và vun xới những mối tương quan hàng ngang để sống tình hiệp
thông đích thực giữa các thành viên trong cộng đoàn giáo xứ, chưa nói đến việc
cùng đảm nhận sứ mạng trong tư cách là một cộng đoàn. Trong các giáo xứ hiện
nay cũng có các đoàn thể, nhưng cũng còn có nhiều người không tham gia vào các
đoàn thể này. Hơn nữa các đoàn thể này không đáp ứng được nhu cầu của một Giáo
hội tham gia. Nguyên tắc là một CĐGHCB phải là một cộng đoàn nhỏ để mọi người
có thể biết nhau, quan tâm đến nhau, có thể gặp gỡ thường xuyên, có thể cùng
nhau cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa và thảo luận về các công việc. Phạm vi hành động
của họ bao trùm toàn bộ cuộc sống. Họ giúp đỡ những người túng thiếu, viếng
thăm và an ủi những người đau yếu già cả, giúp hoà giải các gia đình bất hoà,
cùng đưa ra những sáng kiến để đẩy lùi tệ nạn xã hội, quan tâm đến việc học tập
và giải trí của trẻ em và thanh thiếu niên… Họ có thể chia phiên để phục vụ và
hướng dẫn phụng vụ trong Thánh Lễ. Mỗi CĐGHCB thường có một đại diện trong ban
Mục vụ giáo xứ để nắm bắt những nhu cầu, sinh hoạt của giáo xứ. Nói chung, họ
làm bất cứ gì để Nước Thiên Chúa được tỏ hiện nhiều hơn nơi khu xóm mình.[4]
Tóm lại, mỗi Kitô hữu nhận được một ân sủng của Thánh Thần
vì lợi ích chung (x. 1Cr 12, 7). Những đặc sủng này cần được khơi dậy, cần được
khuyến khích để xây dựng Giáo hội. Chúng ta thường chú trọng đến Giáo hội như
là một cơ cấu phẩm trật, nhưng Giáo hội cũng là một cơ cấu đặc sủng hoặc cơ cấu
Thần khí. Chính Thần khí làm cho Giáo hội sinh động. Giáo hội như một toàn khối
liên kết với nhau và sống động nhờ các đặc sủng.
THÀNH LẬP CỘNG ĐOÀN GIÁO HỘI CƠ BẢN
Người Việt Nam rất quý trọng tình làng nghĩa xóm, nên khi sống
xa quê hương họ thường lập ra những hội đồng hương để đáp ứng nhu cầu tình cảm
này. Con người ai cũng muốn được người khác coi trọng, được quan tâm, được chia
sẻ, được góp phần vào công việc chung. Hơn nữa, đối với người Công giáo, nhu cầu
này càng thúc bách hơn. Qua thực tế tại các giáo xứ, chúng ta thấy rằng phần
đông người giáo dân chỉ gặp gỡ nhau mỗi tuần một lần tại nhà thờ. Nhưng những
cuộc gặp gỡ này thường chỉ là ngồi gần nhau, chứ không ai quan tâm đến ai. Lễ
xong, ai lại về nhà nấy. Người ta sống cô đơn, lẻ loi, vô danh ngay giữa đám
đông. Các Cộng đoàn Giáo hội Cơ bản (CĐGHCB) chính là nơi đáp ứng những nhu cầu
này của con người.
I. Mục đích của Một Cộng
Đoàn Giáo Hội Cơ Bản
1. Tổ chức các cuộc họp mặt luân
phiên tại các gia đình
Mỗi CĐGHCB bao gồm khoảng 20- 30 gia đình (có thể ít hơn).
Những gia đình này sống gần gũi nhau. Nhưng họ cũng có thể sống rải rác trong một
khu xóm hay khu phố, xen lẫn với các gia đình ngoại giáo. Sống giữa những người
ngoại giáo, các CĐGHCB mới thấy rõ mình là men trong bột, là muối cho đời. Họ gặp
nhau mỗi tháng một hoặc hai lần (hoặc có thể nhiều hơn, tùy nheo nhu cầu của mỗi
nhóm). Họ thay phiên giữ vai trò tổ chức buổi họp mặt.
2. Chia sẻ Lời Chúa và Thánh Thể
Chính Lời Chúa qui tụ họ lại với nhau, chứ không phải vì
thích nhau hay hợp gu với nhau. Do đó, đời sống của một CĐGHCB được đặt nền tảng
trên Lời Chúa. Họ thường xuyên chia sẻ Lời Chúa, nhất là theo Phương Pháp 7 bước
hay Phương Pháp Xem-Xét-Làm. Qua việc suy tư và chia sẻ Lời Chúa, họ cảm nghiệm
được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình, thắt chặt thêm mối dây huynh đệ.
Họ cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau nhìn lại đời sống và nêu quyết tâm thực hành
cụ thể hàng tháng dưới ánh sáng Lời Chúa (nên hướng việc chia sẻ Lời Chúa và việc
thảo luận trong các buổi họp mặt này về những quan tâm đến đời sống hàng ngày ở
gia đình, khu xóm, khu phố, chứ không chỉ quanh quẩn ở các việc đạo đức truyền
thống mà thôi). Họ cùng nhau qui tụ cử hành Thánh Thể để nuôi dưỡng đời sống đức
tin, sự hiệp thông và hoạt động tông đồ của cộng đoàn. Đối với họ, “thể hiện
Giáo Hội” không chỉ là đọc kinh, tham dự Thánh lễ, mà trước hết là biểu lộ đức
tin trong cuộc sống hằng ngày.
3. Cùng phục vụ nhau và cùng nhau
phục vụ
Đây là đặc điểm hành động của một CĐGHCB. Đức tin không việc
làm là đức tin chết. Đức tin phải được thể hiện qua cuộc sống. Việc chia sẻ Lời
Chúa thúc đẩy các thành viên đến một quyết tâm hành động cụ thể, như thái độ
đáp trả đối với sứ điệp Lời Chúa trong môi trường mình đang sống. Họ phục vụ
tùy theo kinh nghiệm sống đức tin của Nhóm và ơn đoàn sủng mà mỗi người lãnh nhận
được. Họ liên đới và giúp đỡ lẫn nhau trong tinh thần đồng trách nhiệm. Họ giúp
đỡ những người nghèo, an ủi những người sầu khổ, viếng thăm những người đau yếu
già cả trong khu xóm mình, góp phần vào việc giáo dục thanh thiếu niên, cùng
nhau dọn dẹp vệ sinh môi trường, cùng nhau xây dựng khu xóm mình ngày càng tốt
đẹp hơn, …
4. Liên kết với giáo xứ, giáo phận,
và Giáo hội phổ quát
Để khỏi bị cô lập hóa và bị các ý thức hệ lèo lái, cũng
như để bảo toàn tính cách giáo hội của mình, các CĐGHCB cần phải
duy trì mối giây hiệp thông với các chủ chăn trong Hội Thánh. Một trong
các phương tiện hết sức hiệu lực để củng cố niềm hiệp thông ấy là việc huấn
luyện liên tục cho những người lãnh đạo trong các cộng đoàn (x.
Evangelii nuntiandi, 58). Mọi CĐGHCB đều được nối kết với các CĐGHCB khác,
với giáo xứ, giáo phận và Giáo Hội phổ quát. Các CĐGHCB của cùng một giáo xứ
thường xuyên thăm viếng nhau, không ngừng hỗ trợ và củng cố nhau. Họ có thể
chia phiên để chuẩn bị và hướng dẫn phụng vụ trong Thánh Lễ Chúa Nhật. Thỉnh
thoảng họ qui tụ nhau để cùng chia sẻ kinh nghiệm. Mỗi CĐGHCB thường có một đại
diện trong ban mục vụ giáo xứ. Những người làm công tác mục vụ toàn thời gian
thường xuyên thăm viếng các CĐGHCB, để những cộng đoàn này có thể thắt chặt mối
liên kết của họ với giáo xứ và với toàn thể Giáo Hội. Những khoá huấn luyện, những
khoá tĩnh tâm cũng là cơ hội tốt cho việc củng cố mối liên kết này.
II. Thành Lập Các
CĐGHCB
1. Chuẩn bị
– Người phụ trách (cán sự, người lãnh đạo) CĐGHCB đóng một
vai trò hết sức quan trọng. Người phụ trách thúc đẩy sự cởi mở chia sẻ, khả
năng đối thoại, và thái độ quan tâm của các thành viên. Người phụ trách đóng
vai trò điều phối và bảo đảm CĐGHCB của mình luôn ở trong mối hiệp thông mật
thiết với giáo xứ, giáo phận và Giáo Hội phổ quát.
– Linh mục chính xứ có tầm quan trọng đặc biệt trong việc
khai sinh các CĐGHCB. Không có sự điều phối của linh mục chính xứ, các CĐGHCB
khó phát triển khởi sắc được. Các chuyên viên, các cán sự, các tu sĩ không thể
thay thế được vai trò của linh mục chính xứ. Linh mục chính xứ cần hiện diện cụ
thể trong các cuộc họp mặt của các CĐGHCB, nhất là vào giai đoạn mới hình
thành.
– CĐGHCB nhắm đến các mối tương quan, không quá chú trọng đến
các hoạt động. Vì thế, không nên tổ chức các hoạt động chỉ để cho có hoạt động.
Các hoạt động phải nhằm đáp ứng các nhu cầu và hoàn cảnh thực tế của cộng đoàn.
– Thành lập Ban Cán sự giáo xứ đặc trách việc hỗ trợ xây dựng
các CĐGHCB. Những vị này có khả năng lãnh đạo, có khả năng vận động quần chúng,
có thể tham dự khoá học tập dành cho nhóm cán sự ở giáo xứ, và có thể tổ chức
khoá học tập cho việc chuẩn bị thành lập các CĐGHCB.
2. Tiến trình hình thành Các
CĐGHCB
Có hai cách để thành lập các CĐGHCB:
Cách 1: Thành lập một số CĐGHCB mẫu trước. Sự thành công của
một số CĐGHCB mẫu này sẽ tạo điều kiện và khích lệ việc thành lập các CĐGHCB
khác.
Cách 2: Thành lập đồng loạt các CĐGHCB trong toàn giáo xứ.
Những giáo xứ có đông người Công Giáo tương đối tập trung, không có cách biệt lớn
về địa dư, có thể thực hiện theo cách này.
– Khi vận động, cần chú tâm vào nhu cầu xây dựng một cộng
đoàn (gặp gỡ nhau, thăm hỏi lẫn nhau, củng cố đời sống đức tin, quan tâm, chia
sẻ trong tình huynh đệ), không nhắm trước hết đến những hoạt động. Khi mọi người
đã có ý thức tương đối về nhu cầu xây dựng một cộng đoàn, mời họ tham dự một
khoá học tập về định hướng CĐGHCB do nhóm cán sự của giáo xứ tổ chức. Chỉ những
ai tham dự khoá này (ít nhất là đại diện của gia đình) mới trở thành thành viên
của CĐGHCB. Khoá định hướng nói trên sẽ kết thúc với việc bầu chọn ban lãnh đạo
CĐGHCB: người phụ trách, phó phụ trách, người đặc trách phụng vụ, thủ quĩ…
Không nên bầu chọn quá nhiều chức danh để tránh cồng kềnh. Về sau, sẽ bầu chọn
thêm cho các chức vụ khác khi thực sự có nhu cầu.
– Bước khởi đầu của các nhóm CĐGHCB sẽ là các buổi họp mặt đều
đặn (ví dụ, mỗi tháng một lần), mỗi lần khoảng 60- 90 phút, để cử hành Thánh Thể,
chia sẻ Lời Chúa và để cùng nhau định hướng sống. Các thành viên được khích lệ
cởi mở đối thoại và quan tâm tới nhau. Người phụ trách mời và thông báo cho các
thành viên về thời gian và địa điểm họp mặt. Linh mục chính xứ và cán sự của
giáo xứ (được phân bổ) sẽ hiện diện trong buổi họp mặt đầu tiên này.
– Sau mỗi 3 tháng, tổ chức những buổi hội thảo rút kinh nghiệm
thực tế và những khoá bồi dưỡng nhằm: điều phối kịp thời những gì cần thiết để
định hướng xây dựng CĐGHCB được rõ nét hơn; từng bước nâng cao hiểu biết Thánh
Kinh và hoàn thiện phương pháp chia sẻ Lời Chúa; hun đúc tinh thần và vun xới
khả năng lãnh đạo nơi những người phụ trách các CĐGHCB.
– Tổ chức những khoá bồi dưỡng định kỳ cho Ban Lãnh đạo các
CĐGHCB và, nếu được, cho tất cả các thành viên cộng đoàn. Nội dung những khoá
này được phác hoạ theo kinh nghiệm rút ra từ chính tiến trình.
Nói tóm lại, các Cộng đoàn Giáo hội cơ bản xuất hiện là kết
quả của một quá trình trở về nguồn của Kitô giáo (làm sống lại Cộng đoàn của Đức
Giêsu với các môn đệ trong Phúc Âm và Cộng đoàn tín hữu đầu tiên ở Giêrusalem
trong Sách Tông đồ Công vụ) dưới tác động của Thánh Thần và của luồng gió đổi mới
của Công đồng Vatican II. Là “một cách thức mới để thể hiện Giáo Hội,”
các cộng đoàn này đại diện giáo xứ tại khu vực của mình và thể hiện sự sống động
của Giáo Hội nơi sự sống động của mình. CĐGHCB mời gọi sự tham gia của mọi
thành viên và vận dụng tất cả các kỹ năng và đặc sủng của mỗi thành viên.
Nó là một cách hữu hiệu để đưa đạo vào đời, để sống cụ thể huấn lệnh yêu
thương, liên đới và chia sẻ.
Tài Liệu Tham Khảo
– Giêrônimô Nguyễn Văn Nội, Giáo dân Xây dựng Cộng đoàn Giáo
hội Cơ bản, 2004 (sách Lưu hành nội bộ).
– FABC, Franz-Josef Eilers, ed., For All the People of
Asia, Vol 1, 3 (Quezon City: Claretian Publications, 2002).
– Lm Giuse Lê Công Đức, http://dunglac.org
Nguồn: dongthanhgiavn.net
[1] X. UCAN News, Ucan Commentary – The Role
of Religious amid the Asian Crisis, http://www.ucanews.com/html/uca/index.html
[3] X. FABC, Franz-Josef Eilers,
ed., For All the People of
Asia, Vol 3 (Quezon City: Claretian Publications, 2002), tr. 3,
4, 36, 91, 108, 115.
[4] Nguyễn Văn Nội, www.thanhlinh.net