CẦU NGUYỆN: 10 ĐIỂM BẠN CẦN GHI NHỚ VÀ THỰC HÀNH
Linh mục Trần Mạnh Hùng, STD
Linh mục Dòng Tên, John Polkinghorne, tác giả cuốn sách Belief in God in an Age of Science,[1] khi chia sẻ kinh nghiệm cá nhân của ngài về đời sống cầu nguyện, đã phát biểu như sau: “Trong suốt cuộc đời, tôi đã được trợ giúp bằng việc thực hành cầu nguyện, dù trong tư cách là một nhà Vật lý học, hay một Linh mục, hay trong cuộc sống của một kẻ lữ hành.”[2]
Cảm tưởng ấy đã đánh động tôi rất mạnh, vì đó cũng là niềm xác tín của riêng cá nhân tôi. Cho nên hôm nay, tôi xin mạo muội được phép chia sẻ một vài nguyên tắc căn bản, hầu hy vọng giúp cho anh chị em, mỗi người trong chúng ta thăng tiến đời sống cầu nguyện của chính mình. Tôi xin được đề nghị một cách hết sức ngắn gọn 10 điểm, được coi như là nền tảng căn bản giúp cho việc cầu nguyện có kết quả tốt đẹp.
Tại sao đây là điều kiện tiên quyết trong việc cầu nguyện? Bởi
vì Thiên Chúa muốn chúng ta sống cái giây phút hiện tại, mà cái giây phút hiện
tại ấy chính là trở nên một tông đồ cầu nguyện. Thiên Chúa tạo dựng nên con người
để con người đối thoại với Thiên Chúa, để sống trong sự hiệp thông với ba ngôi
Thiên Chúa. Đây có thể được coi như là một trong những mục đích chính khi Thiên
Chúa tạo dựng nên con người.
Karl Rahner, thần học gia Dòng Tên người Đức, được coi như
là lỗi lạc nhất của thế kỷ 20, đã không ngần ngại nhận định về con người như
sau: “Chúng ta là kẻ lắng nghe Lời.”[3]
Điều mà trong thực tế, Rahner muốn ám chỉ đó chính là: chúng ta được tạo dựng để
đối thoại, để hàn huyên, để ngắm nhìn dung mạo, và để sống trước tôn nhan Thiên
Chúa.
Đi xa hơn một tí nữa, Rahner cho rằng: con người tự bản chất
luôn hướng đến sự hiệp thông và ao ước được kết hiệp với Đấng Siêu Việt. Tư tưởng
này rất phù hợp với suy tư của Thánh Augustinô khi ngài cho rằng: linh hồn con
người được dựng nên là để cho chính Thiên Chúa, lẽ đó mà bao lâu nó chưa được
nghỉ yên trong cung lòng của Thiên Chúa, thì bấy lâu nó vẫn còn khắc khoải.[4] Bao lâu mà chúng ta chưa mật
thiết kết hiệp với Chúa, thì bấy lâu ta vẫn còn khoắc khoải ưu tư.
Vậy đâu là hệ quả của chân lý trên đối với vấn đề cầu nguyện?
Nó đơn giản chỉ là: tất cả những gì chúng ta cần thiết cho việc cầu nguyện đều
đã được ban tặng cho chúng ta. Cầu nguyện sốt sắng, trước tiên, không phải là
việc cố gắng học cho kỳ được một kỷ thuật, nhưng đúng hơn là được bắt đầu bằng
chính với thực tại con người của chúng ta, với tất cả những gì đã được Thiên
Chúa phú bẩm cho con người.
Điểm 2: Có tinh thần
kỷ-cương.
Thánh Thômasô Aquinô, vị tiến sĩ Hội Thánh, lừng danh thời
Trung cổ đã xây dựng nền thần học của chính mình trên quan điểm: “ân sủng được
xây dựng trên nền tảng tự nhiên.”
Chúng ta có thể đem điều này áp dụng vào trong thực tế của
việc cầu nguyện và rút ra một nguyên tắc như sau: Đừng chỉ có dựa vào ân sủng của
Chúa mà lãng quên cái bổn phận tự nhiên mà chúng ta cần phải làm. Tôi xin mạn
phép đơn cử một tỷ dụ để làm sáng tỏ vấn đề. Muốn thăng tiến trong đời sống cầu
nguyện mà không bao giờ chịu khó vất vả để ngồi yên tịnh hầu suy gẫm, nhưng cứ
chỉ trông vào ơn thánh của Chúa ban cho ta để có thể nói tiếng lạ ngay lập tức!!!
Làm thế nào để bạn có thể trở thành một tín đồ cầu nguyện sốt
sắng? Và qua đó có thể kết hiệp mật thiết với Chúa?
Xin được đề nghị một nguyên tắc chung: đó là thực hành. Chỉ
có siêng năng thực tập mới giúp ta trở nên hoàn chỉnh. Chúng ta đạt đến mức độ
tuyệt đỉnh của bất kỳ một lãnh vực nào, thì trong đó chỉ có một phần nhờ bởi khả
năng thiên phú, nhưng hầu hết hai phần còn lại, có lẽ quan trọng hơn, là nhờ bởi
sự dày công luyện tập. Do đó, đối với lãnh vực cầu nguyện, ta có thể coi khả
năng thiên phú là ân sủng và việc dày công luyện tập là kỷ cương.
Có rất nhiều người trong anh chị em chúng ta đã không trở
thành một tông đồ cầu nguyện sốt sắng, mặc dù Thiên Chúa đã ban cho họ ơn biết
cầu nguyện, nhưng vì họ đã không chịu khó dành thì giờ để chăm lo luyện tập việc
cầu nguyện của chính mình. Nên ta cần ghi nhớ nguyên tắc căn bản của luật tự
nhiên: chỉ có tập luyện mới trở nên hoàn hảo. Người Việt nam ta có câu: “Văn
ôn, võ luyện”, thiết nghĩ đây là túi khôn của ông bà tổ tiên ta để lại.
Một trong những khó khăn thường hay gặp phải trong việc cầu
nguyện, đó chính là: sự kiên tâm bền chí. Để khắc phục được cái khó khăn này,
chúng ta cần phải thực hành việc cầu nguyện mỗi ngày. Điều quan trọng không hệ
tại ở chỗ, là chúng ta cầu nguyện lâu hay ít, nhưng hệ tại ở chỗ là chúng ta có
trung thành cầu nguyện mỗi ngày hay không. Do đó, giả sử chúng ta quyết định là
mỗi ngày, tôi sẽ để dành ra 10 phút để cầu nguyện với Chúa, thì chúng ta nên cố
gắng giữ đúng như vậy. Dần dà điều ấy sẽ trở thành một thói quen tốt lành. Một
điều khôn ngoan là đừng nên bao giờ đặt ra cho mình một chương trình (hay một đề
án), mà xét về lâu về dài không thể thực hiện được, như vậy chúng ta sẽ bỏ cuộc
dọc đường và sẽ không trau dồi được cái nhân đức kiên trì.
Điểm 3: Học hỏi việc
suy gẫm.
Thánh Phanxicô đệ Salê nói rằng: “Không ai trong chúng ta có thể phát triển đời sống tâm linh mà không cần
đến việc học hỏi Lời Chúa và thực hành việc suy gẫm.” Ngài cũng dạy rằng:
việc suy gẫm rất đơn giản, không phức tạp như chúng ta mường tượng, nó là việc
gợi lên các suy tư về Thiên Chúa trong trí não của chúng ta, hầu hướng lòng hoặc
nâng tâm hồn ta lên với Thiên Chúa.
Nhìn thoáng qua, ta thấy điều này rất đơn giản, nhưng đi sâu
vào vấn đề, nó quả thực rất ư phong phú và sâu sắc. Nếu ta để ý và phân tích tư
tưởng sau cùng của định nghĩa trên về việc suy gẫm, do thánh Phanxicô đệ Salê đề
xướng thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng: điều quan trọng của việc suy gẫm hệ tại ở
chỗ là nâng tâm hồn ta lên với Thiên Chúa. Việc suy gẫm còn được giả thiết xây
dựng trên và liên quan đến những cảm xúc của con người. Tất cả những cảm xúc mà
ta cảm nghiệm được - có lúc vui, có lúc buồn - sẽ đánh động chúng ta và giúp
chúng ta nâng hồn mình lên với Chúa và cùng lúc để bày tỏ tâm tình cảm tạ tri
ân hoặc yêu mến Chúa.
Điểm 4: Cần đọc sách
thiêng liêng.
Nếu sự phát triển trong đời sống tâm linh nhờ vào việc học hỏi
Lời Chúa và thực hành việc suy gẫm, và suy gẫm là hành động tập trung các tư tưởng
của chúng ta vào chính Chúa, hầu có thể nâng tâm hồn mình lên với Chúa, trong sự
kết hiệp mật thiết. Do đó, chúng ta cần đến sự giúp đỡ từ các sách thiêng
liêng, với mục đích cung cấp cho chúng ta những tư tưởng để suy gẫm về Thiên
Chúa.
Thánh Têrêsa thành Avila đã thú nhận rằng: trong suốt 14 năm
liền, thánh nữ đã không khi nào, mỗi khi đi vô nhà nguyện, mà không cần dùng đến
sách thiêng liêng. Tôi xin phép được trưng dẫn một đoạn ngắn trong sách tự thuật
của ngài như sau:
“Đọc sách thiêng liêng
rất hữu ích cho việc suy niệm. Trong suốt 14 năm liền, tôi không bao giờ bắt đầu
việc cầu nguyện mà không dùng đến sách thiêng liêng, ngoại trừ sau khi rước mình
thánh Chúa. Tôi luôn cảm thấy khô khan khi tôi không đọc sách thiêng liêng và
thông thường những lần như vậy, tâm hồn tôi cảm thấy bồi hồi xao xuyến, có lắm
khi rối bời... và tư tưởng tôi rất hỗn loạn. Nhưng khi tôi bắt đầu đọc một đoạn
sách thiêng liêng thì tôi có thể cầm lòng, cầm trí lại được, và tôi có thể bắt
đầu suy niệm.”
Điểm 5: Nếu nó hữu
ích đối với bạn, thì bạn hãy thực hiện.
“Thưa cha, con có được phép hút thuốc khi cầu nguyện không?”
Vị linh hướng trả lời:
“Dĩ nhiên là không.”
Sau đó, vị linh mục Dòng Tên cũng vô gặp cha linh hướng.
Ngài hỏi:
“Thưa cha, trong khi hút thuốc con có được phép cầu nguyện
không?”
Vị linh hướng trả lời:
“Dĩ nhiên là được, cái đó còn gì tốt bằng!!!”
Ngang qua câu chuyện dí dỏm của vị linh mục Dòng Tên, chúng
ta có thể tìm thấy câu trả lời như sau: Nếu điều gì hữu ích cho bạn, giúp bạn
có thể nâng tâm hồn lên với Chúa trong lúc cầu nguyện thì bạn hãy làm. Nên nhớ
rằng: Thánh thần Chúa luôn luôn dùng tất cả mọi cách thức và mọi giác quan của
con người chúng ta để giúp ta cầu nguyện. Nếu ta cảm thấy rằng: tôi cầu nguyện
sốt sắng hơn khi quì gối, hoặc khi tôi dạo bộ, thì ta hãy làm như vậy.
Điểm 6: Để việc cầu
nguyện sinh hoa kết trái, cần phải có đời sống liêm chính.
Điểm này được thánh Inhaxiô thành Loyola, vị sáng lập dòng
Tên, nhấn mạnh trong phương pháp linh thao của ngài. Thánh nhân trả lời các vấn
nạn của việc tâm hồn tự cảm thấy nguội lạnh và không sinh hoa kết trái trong đời
sống cầu nguyện của chính mình.
Một trong những điều mà thánh nhân hay thường đặt câu hỏi,
đó chính là: “Liệu bạn có trung thành với giới răn của Chúa không?” Hay “Bạn đã
trở nên thờ ơ lãnh đạm với việc yêu mến thánh ý Chúa?” Vậy trước khi ta đặt vấn
đề, tại sao tôi không cảm thấy sự hiện diện của Chúa trong giờ cầu nguyện, ta cần
nên hỏi chính mình trước hết là tôi đã yêu mến và sẵn sàng đón nhận thánh ý
Chúa chưa?
Thiên Chúa mà chúng ta tìm kiếm qua việc cầu nguyện, chính là Thiên Chúa đấng dựng nên con người và vũ trụ. Khác với con người, nơi Thiên Chúa không có sự phân biệt giữa việc Thiên Chúa hiện hữu và điều Thiên Chúa muốn. Từ đó ta có thể suy tư rằng: Điều Thiên Chúa muốn là Bản chất của ngài. Cả hai là một, được quyện lẫn với nhau trong thực tại bản thể của Thiên Chúa. Bởi lẽ đó, việc ta sống hiệp thông và kết hiệp với Chúa thì cũng chính là chu toàn thánh ý Chúa. Cố Hồng Y Leo Suenens, tổng giám mục giáo phận Malines-Bruxelles, Bỉ, trong tác phẩm Le Roi Baudouin: Une Vie Qui Nous Parle, đã viết như sau: “Cầu nguyện là ở trong Chúa và tất cả ý muốn của Thiên Chúa trở thành tâm nguyện của chúng ta, và tâm nguyện của chính chúng ta cũng sẽ trở thành thánh ý Thiên Chúa.”[5]
Để có thể sống trong sự hiệp thông, rồi dẫn đến hiệp nhất, ta cần sự thật. Chỉ có sự thật mới có thể xây dựng đời sống kết hiệp mật thiết. Mới có được một tương quan lành mạnh trong sự liên đới. Không có sự thật thì chỉ gây nên chia rẽ và đi đến thất bại. Một gia đình, một cộng đoàn, một xứ đạo, một quốc gia sẽ không có sự hiệp nhất, nếu mỗi người trong chúng ta, ai cũng nói dối, và bóp méo sự thật. Vì điều này sẽ giết chết đời sống hiệp thông và đời sống cộng thể. Lẽ đó, đời sống tâm linh và đời sống luân lý phải đi đôi với nhau.[6] Cho nên, ta có thể đưa ra một nguyên tắc như sau: Đời sống cầu nguyện sẽ sinh hoa kết trái bằng việc sống liêm chính, và để múc lấy nghị lực cho đời sống thanh liêm chính trực cần có đời sống cầu nguyện.
Điểm 7: Đừng lượng giá việc cầu nguyện bằng
cảm xúc.
Một trong những cám dỗ rất mạnh mẽ và thường hay xảy ra cho
chúng ta trong đời sống cầu nguyện đó chính là: ta hay thường xuyên đánh giá việc
thành công hay thất bại trong tiến trình cầu nguyện của chính mình bằng các cảm
xúc có được.
Một điều ta cần để ý là mục đích duy nhất của việc cầu nguyện
tựu trung ở chỗ “kết hiệp” với Chúa. Kết hiệp với Chúa qua việc cầu nguyện, có
thể có hoặc không tạo nên cho ta những cảm giác sảng khoái.
Khi chúng ta cầu nguyện là chúng ta tìm kiếm Chúa, Đấng ngự
trị đằng sau và vượt lên trên tất cả các cảm xúc của con người. Nếu chúng ta chỉ
chủ trương tìm kiếm và đặt trọng tâm của việc cầu nguyện nơi các cảm xúc thanh
thản, nhẹ nhàng và sảng khoái, thì có lẽ ta đã đặt sai mục đích của việc cầu
nguyện. Vì Thiên Chúa trổi vượt hơn tất cả những điều ấy. Cho nên, một trong những
nguyên tắc tối cần thiết là chúng cần phải phân biệt giữa việc kết hiệp với
Chúa và các trạng thái cảm xúc của mình. Điều trước tiên, ta nên am tường là
Thiên Chúa có thể ban cho ta những cảm giác tích cực và tiêu cực trong khi ta cầu
nguyện. Cả hai trạng thái này đều có thể đem lại kết quả mỹ mãn cho ta, thể
theo như thánh ý Chúa muốn. Tôi xin đơn cử một vài ví dụ để hy vọng làm sáng tỏ
vấn đề.
Một bà mẹ cầu nguyện để có đủ nghị lực và lòng kiên nhẫn hầu
may ra có thể can tâm chịu đựng sự ngỗ nghịch và bất tuân của đứa con trai
hoang đàng của bà. Bà ta có thể được Chúa ban cho những cảm giác bình an và
thanh thản trong tâm hồn, sau khi cầu nguyện. Điều này được coi như là một cảm
giác tích cực. Nhưng ngược lại, một người chồng phạm tội ngoại tình, khi cầu
nguyện thì chỉ cảm thấy sự bất an trong tâm hồn và ông ta cảm thấy lòng mình
như bị rối bời... Điều này là một cảm giác tiêu cực, nhưng cái cảm giác tiêu cực
ấy đã giúp ông ta ăn năn hối lỗi và đã cải tà qui chánh. Sau này, ông ta đã hồi
tâm quay trở về với vợ con và lo lắng cho gia đình.
Cho nên, ta thấy rằng, cả hai trạng thái cảm xúc khác nhau,
Thiên Chúa đều hiện diện, và Ngài đã dùng những cảm giác ấy để lôi kéo và hướng
dẫn chúng ta quay trở về với đường ngay nẻo chánh, theo như thánh ý của Ngài.
Vậy thì làm sao chúng ta có thể phán đoán và định giá kết quả
của việc cầu nguyện. Chúa Giêsu trong Phúc Âm của Thánh Luca 6: 43-45 đã trả lời
một cách cụ thể như sau: “Cây tốt thì không thể sinh trái xấu, ngược lại cây xấu
không thể sinh trái tốt, thật vậy xem quả thì biết cây ...”
Điểm 8: Đừng quá kỳ vọng.
Sống trong thế giới hiện đại và đầy dẫy những phát minh mới
lạ về khoa học kỹ thuật. Con người ngày nay thường xuyên bị ảnh hưởng bởi những
trào lưu cổ võ cho việc phát triển không ngừng. Lẽ đó, một cách rất tự nhiên
ngay cả trong đời sống cầu nguyện, ta luôn kỳ vọng ở nơi sự thăng tiến liên tục
của chính mình. Nhưng có điều là trong đời sống tâm linh và cầu nguyện, mực thước
đo lường của việc phát triển thì dường như không có. Định giá đời sống cầu nguyện
thì được ví như ta đang đứng và ngắm nhìn sự phát triển của một cây kiểng. Nếu
như ta muốn, ta có thể làm cái công việc ấy, nhưng tôi xin bảo đảm với quí vị
là nó sẽ không mang lại một kết quả tích cực nào hết.
Điểm 9: Cầu nguyện là
công việc của Đức Kitô và của Giáo Hội hơn là công việc của mỗi cá nhân.
Chúng ta thông thường nghĩ rằng: cầu nguyện là việc làm của
mỗi người, do đó nó mang tính chất cá nhân. Nhưng trong thực tế, việc cầu nguyện
thì nó vượt lên trên lãnh vực chiều kích cá nhân và mang tính chất hiệp thông
và có tính cách phổ quát.
Truyện kể lại, có một chàng thanh niên nghiện ngập ma túy và
đã mắc phải chứng bệnh liệt kháng (hay còn gọi là bệnh AIDS). Vào thời điểm gần
cuối của cuộc đời, trước khi anh giã từ cuộc sống ở trần gian, anh ta được các
cô y tá và các người làm việc thiện nguyện tắm rửa, thay áo quần, lo cho ăn uống...
nói chung họ săn sóc cho những nhu cầu của anh thật chu đáo. Anh hết sức cảm động
trước tấm lòng tốt và quảng đại của họ. Cho nên, anh ta đã bày tỏ ước nguyện của
mình: là anh ta rất muốn làm một nghĩa cử nào đó để đền đáp phần nào cho cân xứng
tấm lòng ưu ái của họ. Anh ta không thể tự mình di chuyển và ra khỏi giường được
nữa, nên một nữ tu đã đề nghị với anh ta: là bạn hãy cầu nguyện cho những người
này, như một cách thức để đền đáp công ơn họ. Trước đề nghị như vậy, anh ta đã
ôn tồn trả lời rằng: tôi xin lỗi, không biết ma sơ có tin rằng, Chúa sẽ nhận lời
cầu khẩn của một kẻ tội lỗi như tôi, vì suốt cả cuộc đời, tôi luôn lang thang sống
trên các vỉa hè phố.
Vị nữ tu điềm nhiên trả lời: vậy anh đã được rửa tội chưa?
Thưa có.
Vậy thì Thiên Chúa Cha không thể tách biệt lời cầu nguyện của
anh và của Chúa Giêsu, con chí ái của Ngài. Vì khi anh cầu nguyện, Chúa Cha chỉ
nghe có giọng Chúa Giêsu.
Mầu nhiệm của bí tích thanh tẩy là chúng ta được tháp nhập
vào trong thân thể nhiệm mầu của Đức Giêsu Kitô. Cho nên trở thành người Kitô hữu
là trở nên một Chúa Kitô khác. Một khi đã lãnh nhận bí tích thanh tẩy, bạn cầu
nguyện là Chúa Giêsu cầu nguyện. Cho nên thánh Phaolô đã khẳng định rằng: mỗi
khi ta cầu nguyện là ta dâng lời cầu nguyện với Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu và
nhờ Chúa Giêsu. Cho nên, khi Chúa Cha nhìn Chúa Giêsu, Ngài thấy trong Chúa
Giêsu tất cả chúng ta. Vậy mỗi khi cầu nguyện, ta hãy nhớ kết thúc bằng câu: nhờ
Đức Kitô con Chúa, Chúa chúng con, như Giáo hội vẫn dạy.
Điểm 10: Cầu nguyện
là chiêm ngắm.
Người ta kể lại một câu truyện như sau: có một ông lão kia,
mỗi buổi trưa ông đều đi đến một ngôi thánh đường nọ, và luôn luôn ngồi ở dãy
ghế sau cùng. Sau một thời gian lâu dài, mọi người đều quan tâm để ý đến ông. Họ
không biết rõ gốc tích và lai lịch của ông lắm, nhưng họ rất đỗi ngạc nhiên và
thắc mắc: “không biết ông lão kia đã làm
gì trong suốt khoảng thời gian ông ta ngồi cầu nguyện ở phía cuối nhà thờ?”
Rồi một ngày kia, một người trong đám họ, bèn mạnh dạn hỏi thăm ông lão: “Xin ông vui lòng nói cho chúng tôi biết,
ông đã làm gì mỗi khi ông cầu nguyện?”
Ông lão vui vẻ và điềm nhiên trả lời: “Đôi khi tôi đến đây và tôi ngồi để nói chuyện với Chúa Giêsu. Dịp
khác, tôi chỉ ngồi và ‘ngắm nhìn’ Chúa Giêsu. Nhưng phần nhiều là tôi chỉ ngồi
để chiêm ngắm Ngài.”
Như chúng ta đã nói với nhau là mục đích của việc cầu nguyện
tựu trung ở chỗ là gặp gỡ và kết hiệp mật thiết với Chúa. Chúng ta muốn hiện diện
trước tôn nhan Chúa và chúng ta biết rằng: khi chúng ta cầu nguyện là chúng ta
đặt mình trước mặt Chúa và Chúa đang hiện diện với chúng ta. Chúng ta mong ước
được Thiên Chúa tuôn đổ tràn đầy trong tâm hồn chúng ta những tâm tình yêu mến,
và chúng ta cũng khao khát được trở nên một với Chúa, ngang qua việc kết hiệp mật
thiết với Ngài.
Thiên Chúa luôn nhìn ngắm chúng ta bằng ánh mắt đầy lòng yêu
mến, và ta đáp lại bằng ánh mắt tâm hồn rực tràn lửa yêu thương. Và trong giây
phút như vậy, ngôn ngữ loài người trở nên vô hiệu lực. Trong bối cảnh như vậy,
theo truyền thống Kitô Giáo, thì sự kiện như thế được gọi là chiêm niệm, cho
nên lời nói và hành động cần được nhường chỗ cho việc chiêm ngắm. Sự chiêm ngắm
này được ví như thể “cái nhìn” say đắm của hai tình nhân đang yêu nhau. Và đối
với họ việc có mặt bên nhau hầu như đã nói lên tất cả. Chiêm niệm, hẳn nhiên
không phải là công việc dễ dàng đạt được, tuy nhiên tất cả đều là khả thể đối với
Thiên Chúa.
Chúc các bạn thành công và thăng tiến luôn mãi trong đời sống
CẦU NGUYỆN.
Nguồn: Website của Ủy
ban giới trẻ / HĐGMVN, ymagazine.net
[1] John Polkinghorne, S.J., Belief
in God in an Age of Science (United States: Yale University, 1998). Cha
Polkinghorne đã được The John Templeton Foundation trao giải thưởng năm 1999,
vì tác phẩm này được coi như là một trong những kiệt tác về Thần Học và Khoa Học
Tự Nhiên.
[2] Ngài viết “Throughout my life, whether as a Physicist or as a
Priest and all the time as a human being, I have been sustained by the practice
of prayer.” Xem tác phẩm Spiritual
Evolution (1998), được soạn thảo bởi John Mark Templeton and Kenneth Seeman
Giniger.
[4] “You have made us for Yourself, and our hearts are restless
until they rest in You.” Xem The
Confession of St. Augustine,
Revision of the Translation of Rev. J. M. Lelen, Ph.D. (New Jersey: Catholic
Book Publishing Co., 1997), Chương thứ I, trang 19.
[5] Xem bản Việt Ngữ do G.S. Nguyễn Đăng Trúc chuyển dịch, Âm Hưởng Một Cuộc Đời (France: Định Hướng
Tùng Thư Xuất Bản, 1998), trang 102.
[6] Đây cũng chính là một đề tài hấp dẫn mà hiện nay, một số các thần
học gia luân lý đang tìm cách đẩy mạnh và phổ biến qua việc viết lách và giảng
dạy. Xem Dennis Billy, C.Ss.R and Donna L. Orsuto, (eds.) Spirituality and Morality: Integrating Prayer & Action (New York:
Paulist Press, 1996). Also Marciano Vidal, C.Ss.R. Morale e Spiritualità: della separazione alla convergenza (Assisi:
Cittadella Editrice, 1998). Đặc biệt hơn cả là tác phẩm của thần học gia luân
lý Richard M. Gula, S.S., The Good Life:
Where Morality and Spirituality Converge (New York: Paulist Press, 1999).