BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN
Palazzo del
Sant’Uffizio
00120 Città del Vaticano
Ngày 26 tháng 02 năm 2018
PROT. N.51/2016-63822
Kính gởi Quý Hồng Y và Quý Giám Mục
Chủ tịch Hội Đồng Giám
Mục,
Bộ Giáo Lý Đức Tin đã quyết định công bố Thư gởi các Giám
mục của Hội thánh Công giáo về một vài khía cạnh của Ơn Cứu độ Kitô giáo (x.
Annexe). Việc giới thiệu Tài liệu này sẽ diễn ra tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh
ngày 01 tháng 3 năm 2018 (không được lưu hành trước 12 giờ, giờ Rôma, ngày 01
tháng 3).
Vì những thách đố hiện thời của thuyết Tân Pêlagiô và thuyết Tân Ngộ đạo, Thư này muốn khẳng định lại ý nghĩa của Ơn Cứu độ Kitô giáo, bằng cách chứng minh rằng trọng tâm của Ơn Cứu độ hệ tại sự hợp nhất với Chúa Giêsu. Sự hiệp thông này biến đổi con người và dẫn đưa con người vào tương quan mới mẻ với Thiên Chúa, với đồng loại và với thế giới thụ tạo, theo đó, giải thoát con người khỏi sự dữ để đưa đời sống của con người đến sự viên mãn.
Khi xin quý huynh đệ thông báo Tài liệu này đến các thành
viên trong Hội Đồng Giám Mục của quý huynh đệ, Bộ Giáo Lý Đức Tin rất biết ơn
quý huynh đệ vì đã kêu mời các ngài khuyến khích việc tiếp nhận, học hỏi và phổ
biến lá Thư, cách đặc biệt cho giáo dân, bằng việc lưu tâm sao cho nội dung Thư
trở thành những điểm qui chiếu rõ ràng và chuẩn mực.
Trong tâm tình cám ơn quý huynh đệ về sự cộng tác quý giá,
tôi xin bày tỏ lòng tận tụy của tôi đối với quý huynh đệ trong Đức Kitô.
(đã ấn ký)
+ Luis F. LADARIA, S.J
Tổng Giám mục Hiệu Tòa Thibica
Tổng Trưởng
THƯ PLACUIT DEO
I. Dẫn nhập
1. “Do lòng nhân lành và khôn ngoan, Thiên Chúa đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho biết thiên ý nhiệm mầu (x. Ep 1,9), nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần vào bản tính Thiên Chúa (x. Ep 2,18; 2 P 1,4). Chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về công cuộc cứu độ con người được bày tỏ cho chúng ta trong Chúa Kitô, Đấng vừa là trung gian vừa là sự viên mãn của toàn thể mặc khải”.[1] Giáo huấn về Ơn Cứu độ trong Đức Kitô phải luôn được đào sâu. Kiên định nhìn về Chúa Giêsu, Giáo hội hướng tới mọi người với lòng từ mẫu, để loan báo cho họ ý định Giao ước của Chúa Cha, nhờ Chúa Thánh Thần, “nhằm quy tụ mọi sự trong Đức Kitô, thủ lãnh duy nhất” (Ep 1,10). Trong ánh sáng của truyền thống đức tin vĩ đại, cùng với sự tham chiếu đặc biệt vào những lời giảng dạy của Đức Giáo hoàng Phanxicô, lá thư này muốn làm sáng tỏ một vài khía cạnh của Ơn Cứu độ Kitô giáo có thể khó hiểu trong thời đại hôm nay, vì những biến đổi văn hóa mới mẻ.
II. Tác động của
những biến đổi văn hoá hiện nay trên ý nghĩa của Ơn Cứu độ Kitô giáo
3. Trong giáo huấn thông thường của mình, Đức Giáo hoàng Phanxicô thường nhắc đến hai khuynh hướng được mô tả ở trên. Hai khuynh hướng này giống với một vài khía cạnh của hai lạc thuyết cổ xưa, thuyết Pêlagiô và thuyết Ngộ đạo.[4] Một hình thái mới của thuyết Pêlagiô đang được truyền bá trong thời đại chúng ta, theo đó cá nhân được hiểu là tự quản triệt để, có tham vọng tự cứu lấy chính mình mà không nhận thức rằng, ở tận thẳm sâu nhất của chính mình, cá nhân ấy tùy thuộc vào Thiên Chúa và tha nhân. Theo lối suy tư này, Ơn Cứu độ tùy thuộc vào sức riêng của cá nhân, hoặc vào những cơ cấu thuần túy nhân loại, không có khả năng tiếp nhận tính mới mẻ của Thần Khí Thiên Chúa.[5] Mặt khác, một hình thái mới của thuyết Ngộ đạo trình bày một khuôn mẫu về Ơn Cứu độ thuần túy nội tâm, đóng kín trong thuyết duy chủ thể của riêng mình.[6] Theo khuôn mẫu này, Ơn Cứu độ hệ tại việc tự hoàn thiện bản thân, “nhờ tri thức, có khả năng vượt lên trên thân xác Chúa Giêsu, đạt tới những mầu nhiệm thần tính vô danh.[7] Khuôn mẫu này muốn giải thoát con người khỏi thân xác và vũ trụ vật chất, trong đó những dấu vết bàn tay quan phòng của Đấng Tạo Hóa không còn tìm thấy, nhưng chỉ có một thực tại mất hết ý nghĩa, xa lạ với căn tính nền tảng của con người, và dễ bị thao túng bởi những lợi lộc của con người.[8] Rõ ràng, việc so sánh với những lạc thuyết Pêlagiô và Ngộ đạo chỉ muốn nhắc lại những nét đặc trưng chung và tổng quát, mà không đi vào những đánh giá về bản chất đích thật của những sai lầm thời cổ xưa. Có một sự khác biệt lớn lao giữa xã hội tục hóa hiện đại và bối cảnh xã hội của Kitô giáo buổi ban đầu, trong đó hai lạc thuyết này phát sinh.[9] Tuy nhiên, trong mức độ thuyết Ngộ đạo và thuyết Pêlagiô tiêu biểu cho những nguy hại dai dẳng vì hiểu sai đức tin Kinh Thánh, [chúng ta] có thể tìm thấy những điểm tương đồng giữa những lạc thuyết cổ xưa và những khuynh hướng hiện đại vừa được mô tả.
4. Cả chủ nghĩa cá nhân tân Pêlagiô, lẫn thái độ khinh
thị thân xác tân Ngộ đạo đều gây tổn hại cho việc tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô,
Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát. Làm thế nào Đức Kitô có thể trở nên trung
gian Giao ước của toàn thể gia đình nhân loại, nếu các nhân vị bị tách biệt
thành những cá thể, tự thành toàn bản thân bằng những nỗ lực của riêng mình,
như thuyết tân Pêlagiô đề xướng? Cũng vậy, làm sao Ơn Cứu độ có thể đến với
chúng ta, nhờ việc Nhập Thể của Chúa Giêsu, [nghĩa là] đời sống, cái Chết và sự
Phục Sinh trong thân thể đích thật của Người, nếu hiểu Ơn Cứu độ chỉ là sự giải
thoát thực tại nội tâm của con người khỏi những giới hạn của thân xác và vật
chất, như lối nhìn tân Ngộ đạo mô tả? Đối diện với hai khuynh hướng này, lá thư
hiện hành muốn khẳng định lại rằng Ơn Cứu độ hệ tại việc kết hợp với Đức Kitô,
là Đấng mà nhờ việc Nhập Thể, cái Chết và sự Phục Sinh của Người, đã mang đến
một thể thức tương quan mới mẻ với Chúa Cha và giữa con người với nhau, dẫn
chúng ta vào trong những mối tương quan này, nhờ hồng ân Thánh Thần, để chúng
ta có thể kết hợp với Chúa Cha như những người con trong Người Con, và trở nên
một thân thể trong Đấng là “Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,29).
5. Cách trực tiếp hoặc gián tiếp, con người nhận biết chính
mình như một mầu nhiệm: “Tôi là ai? Tôi hiện hữu, nhưng không có nguyên lý hiện
hữu của chính mình nơi bản thân”. Mỗi người đều tìm kiếm hạnh phúc theo cách
thức của riêng mình, và cố gắng để đạt được hạnh phúc bằng cách cậy dựa vào
những phương thế sẵn có. Tuy nhiên, niềm khát vọng phổ quát này không nhất
thiết được biểu lộ hay tỏ bày; đúng hơn, niềm khát vọng ấy thường là bí mật và
được ẩn giấu hơn là được tỏ bày, và niềm khát vọng ấy sẵn sàng tỏ hiện chính
mình khi gặp phải những khủng hoảng đặc biệt. Thông thường, niềm khát vọng này
trùng hợp với ước vọng về sức khỏe thể lý; đôi khi, khát vọng mặc lấy hình thức
lo toan cho phúc lợi kinh tế lớn lao hơn; nhưng cách phổ biến, khát vọng ấy tự
biểu lộ như nhu cầu an bình nội tâm và đời sống chung hòa bình với tha nhân.
Mặt khác, công cuộc tìm kiếm Ơn Cứu độ, tự tỏ bày như niềm khát vọng điều thiện
hảo lớn lao hơn, vẫn duy trì nghị lực phản kháng và vượt thắng đau khổ. Đi đôi
với cuộc chiến đấu tìm kiếm sự thiện là cuộc chiến đấu chống lại sự ác: ngu dốt
và lầm lỗi, mong manh và yếu đuối, bệnh tật và chết chóc.
6. Lưu tâm đến những khát vọng này, và bác bỏ mọi tham vọng
tự thành toàn, niềm tin vào Đức Kitô dạy rằng những khát vọng này chỉ có thể
được thành toàn cách trọn vẹn nếu chính Thiên Chúa làm cho chúng nên khả thể,
bằng cách lôi cuốn chúng ta đến với Ngài. Ơn Cứu độ con người toàn vẹn không hệ
tại những gì con người có thể đạt được nhờ sức riêng mình, như tài sản, phúc
lợi vật chất, kiến thức hoặc tài năng, quyền lực hoặc sức ảnh hưởng trên người
khác, thanh danh hoặc sự tự mãn.[10] Chẳng có loài thụ tạo nào có thể làm chúng
ta thỏa mãn trọn vẹn, vì Thiên Chúa đã định phần cho chúng ta được hiệp thông
với Ngài, và lòng chúng ta sẽ chỉ được yên nghỉ khi nghỉ yên trong Ngài.[11]
“Thật vậy, ơn gọi chung cuộc của con người là duy nhất và thần linh”.[12] Như
thế, Mặc Khải không tự giới hạn vào việc loan báo Ơn Cứu độ được hiểu như đáp
số cho bất kỳ ước muốn đặc thù nào của thời đại. “Trái lại, nếu Ơn Cứu độ được
đánh giá hay đo lường theo những nhu cầu hiện sinh của con người, làm sao chúng
ta không thể hoài nghi việc chỉ tạo ra một Thiên Chúa- Đấng Cứu Độ theo những
nhu cầu của chính chúng ta?”[13]
7. Cũng phải khẳng định rằng, theo niềm tin Kinh Thánh,
nguồn gốc của sự ác không tìm thấy được trong thế giới vật chất hữu hình, được
trải nghiệm như một giới hạn hoặc một ngục tù, khiến chúng ta muốn được giải
thoát khỏi thế giới ấy. Trái lại, niềm tin Kinh Thánh công bố rằng toàn thể vũ
trụ đều tốt lành vì đã được Thiên Chúa sáng tạo (x. St 1,31; Kn 1,13-14; 1 Tm
4,4), rằng sự ác nguy hại nhất đối với con người là sự ác xuất phát từ lòng
người (x. Mt 15,18-19; St 3,1-19). Khi phạm tội, con người đã ruồng bỏ nguồn
suối tình yêu, và tự đánh mất bản thân trong những hình thức yêu thương lệch
lạc, nhốt kín con người hơn trong chính bản thân mình. Chính việc xa lìa Thiên
Chúa, Đấng là nguồn suối của sự hiệp thông và sự sống, đã làm mất đi sự hài hoà
giữa con người với nhau và giữa nhân loại với thế giới, dẫn đến tình trạng
thống trị của sự hự mất và sự chết (x. Rm 5,12). Vì thế, Ơn Cứu độ mà đức tin
loan báo cho chúng ta không chỉ liên quan đến thực tại nội tâm của chúng ta,
nhưng toàn vẹn hữu thể chúng ta. Thật vậy, con người toàn vẹn, thân xác và linh
hồn, đã được tình yêu Thiên Chúa tạo dựng, theo hình ảnh và giống như Ngài,
được mời gọi sống hiệp thông với Ngài.
IV. Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ và Ơn Cứu Độ
8. Chẳng một phút giây nào trong dòng lịch sử, Thiên Chúa lại ngừng ban Ơn Cứu độ cho con cháu Ađam (x. St 3,15), nhờ việc thiết lập giao ước của Ngài với toàn thể nhân loại qua ông Nôe (x. St 9,9), và sau đó, với Abraham và dòng dõi của ông (x. St 15,18). Vì thế, Ơn Cứu độ của Thiên Chúa mặc lấy trật tự thụ tạo vốn được toàn thể nhân loại chia sẻ, và Ơn Cứu độ ấy đồng hành cùng lộ trình cụ thể của nhân loại trong lịch sử. Bằng việc chọn một dân tộc và ban cho họ các phương tiện để chống lại tội lỗi và đến gần với Ngài, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho việc ngự đến của “một Vị Cứu Tinh quyền thế, từ nhà Đavít, tôi tớ Ngài” (Lc 1,69). Khi thời gian đến hồi viên mãn, Chúa Cha đã sai Người Con của Ngài đến thế gian; Người Con ấy đã loan báo Nước Thiên Chúa, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền (x. Mt 4,3). Những việc chữa lành mà Chúa Giêsu thực hiện, qua đó Người làm tỏ rạng sự quan phòng của Thiên Chúa, là dấu chỉ qui hướng về chính bản thân Người, Đấng được mặc khải trọn vẹn như là Chúa của sự sống và sự chết trong biến cố Vượt Qua của Người. Theo Tin Mừng, Ơn Cứu độ cho toàn thể nhân loại bắt đầu bằng việc đón nhận Chúa Giêsu: “Hôm nay Ơn Cứu độ đã đến cho nhà này” (Lc 19,9). Tin Mừng cứu độ có một tên gọi và một khuôn mặt: Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ. “Trở nên Kitô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa đạo đức hay một ý tưởng cao cả, nhưng là kết quả của cuộc gặp gỡ với một biến cố, một con người, cuộc gặp gỡ trao tặng cho đời sống một chân trời mới và một định hướng dứt khoát”.[14]
9. Qua dòng lịch sử hằng bao thế kỷ, với nhiều diện mạo, đức
tin Kitô giáo đã làm tỏ rạng công trình Cứu độ của Người Con Nhập Thể. Công
trình Cứu độ ấy được thực hiện mà không hề có sự tách biệt giữa chiều kích chữa
lành của ơn Cứu độ, nhờ đó Chúa Kitô cứu chúng ta khỏi tội lỗi, với chiều kích
vinh thăng, nhờ đó Chúa Kitô làm cho chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa,
bằng việc thông phần bản thể thần linh của Người (x. 2 Pr 1,4). Khi nhìn viễn
cảnh cứu độ theo hướng từ trên xuống, nghĩa là khởi sự từ Thiên Chúa, Đấng đến
cứu độ con người, Chúa Giêsu là Đấng soi sáng và mặc khải, cứu chuộc và giải
thoát, thần linh hóa và công chính hóa con người. Theo cái nhìn từ dưới lên,
nghĩa là khởi sự từ con người qui hướng lên Chúa, Chúa Kitô là vị Thượng Tế của
Giao Ước Mới, dâng lên Chúa Cha việc thờ phượng hoàn hảo, nhân danh toàn thể
nhân loại: Người tự hiến, đền tội và hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta. Bằng
cách này, một sự hợp nhất lạ lùng giữa hành động thần linh và nhân loại tỏ hiện
trong đời sống của Đức Giêsu, một sự hợp nhất chỉ cho thấy rõ lối nhìn cá nhân
chủ nghĩa là không có nền tảng. Cái nhìn từ trên xuống làm chứng cho tính trổi
vượt tuyệt đối của những hành động nhưng không của Thiên Chúa; vượt trước mọi hành
động của chúng ta, sự khiêm nhường là điều thiết yếu để đáp lại tình yêu cứu độ
của Thiên Chúa và là điều kiện cần thiết để lãnh nhận quà tặng của Ngài. Đồng
thời, cái nhìn hướng lên nhắc nhớ rằng, nhờ những hành động hoàn toàn nhân loại
của Người Con của Ngài, Chúa Cha muốn đổi mới hành động của chúng ta, để một
khi nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, chúng ta có thể thực hiện “những công
trình tốt đẹp mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2,10).
10. Hơn nữa, rõ ràng Ơn Cứu độ Chúa Giêsu mang đến nơi bản
thân Người không xảy ra theo cách thức thuần túy nội tại. Quả thực, Người Con
đã mặc lấy xác phàm, để chia sẻ cho mọi người sự hiệp thông cứu độ với Thiên
Chúa (x. Ga 1,14). Bằng việc mặc lấy xác phàm (x. Rm 8,3; Dt 2,14; Ga 4,2), và
sinh ra bởi người nữ (x. Gl 4,4), “Con Thiên Chúa đã trở nên con loài
người”[15] và nên anh em của chúng ta (x. Dt 2,14). Như thế, vì đã trở nên
thành phần của gia đình nhân loại, “Người đã liên kết với hết mọi người cách
nào đó”[16] và đã thiết lập một thể thức tương quan mới mẻ với Thiên Chúa, Cha
của Người, và với toàn thể nhân loại; chúng ta có thể được tháp nhập vào thể
thức tương quan mới mẻ này và thông phần vào chính sự sống của Con Thiên Chúa.
Bởi thế, việc mặc lấy xác phàm chẳng những không giới hạn hành động cứu độ, mà
còn cho phép Đức Kitô trở nên trung gian Ơn Cứu độ của Thiên Chúa cho toàn thể
con cái A-đam.
V. Ơn Cứu độ trong Giáo hội, Thân Mình của Đức Kitô
12. Giáo hội là nơi chúng ta được đón nhận Ơn Cứu độ do Chúa
Giêsu thiết lập, đây là một cộng đồng gồm những người đã được kết hợp trong mối
tương quan mới do Đức Kitô khởi xướng (x. Rm 8,9). Việc hiểu được tính trung
gian Cứu độ của Giáo hội là một trợ lực thiết yếu để vượt thắng mọi khuynh
hướng của giản lược thuyết. Ơn Cứu độ Thiên Chúa ban cho chúng ta không đạt
được bằng những nỗ lực riêng của từng người chúng ta như thuyết tân Pêlagiô
chủ trương. Đúng ra, Ơn Cứu độ có trong các mối tương quan nảy sinh từ Con
Thiên Chúa nhập thể và các mối tương quan này tạo nên sự hiệp thông của Giáo
hội. Giáo hội là một cộng đồng hữu hình bởi vì ân sủng Đức Kitô ban cho chúng
ta không chỉ là Ơn Cứu độ nội tại như quan niệm tân Ngộ đạo đòi hỏi, song còn
bởi vì ân sủng dẫn đưa chúng ta vào các mối tương quan cụ thể mà chính Người đã
sống. Trong mầu nhiệm Giáo hội chúng ta được chạm đến các chi thể của Chúa Giêsu,
đặc biệt nơi các anh chị em nghèo nhất và đau khổ nhất. Vì thế, tính trung gian
cứu độ của Giáo hội, “Bí tích phổ quát về Ơn Cứu độ”,[19] bảo đảm cho chúng ta
rằng, Ơn Cứu độ không hệ tại việc tự mình thực hiện đơn lẻ, cũng không hệ tại
việc liên kết bên trong giữa cá nhân với thần thánh. Đúng hơn, Ơn Cứu độ hệ tại
việc được kết hợp vào sự thông hiệp của những người cùng tham gia vào sự hiệp
thông của Ba Ngôi Thiên Chúa.
13. Cả hai quan niệm “duy cá nhân” và “thuần túy nội tại” về
Ơn Cứu độ đều trái ngược với nhiệm cục bí tích, qua đó Thiên Chúa muốn cứu độ
con người. Sự thông phần vào thể thức mới trong các mối tương quan do Chúa Giêsu
khởi xướng, diễn ra trong Giáo hội nhờ vào các bí tích, trong đó Bí tích Thánh
Tẩy là cửa vào,[20] và Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh [21]. Trong
đó, chúng ta có thể nhận ra sự thiếu vững chắc của các chủ trương về tự thân
cứu độ, vốn chỉ dựa hoàn toàn vào những nỗ lực của con người. Đức tin tuyên
xưng rằng, chúng ta được cứu độ nhờ Bí tích Thánh Tẩy, bí tích này đóng ấn vào
chúng ta một dấu không thể phai nhạt là thuộc về Đức Kitô và Giáo hội. Sự
chuyển đổi cách sống các mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, với con
người, và với tạo thành phát sinh từ Bí tích Thánh Tẩy (x. Mt 28,19). Quả vậy,
được thanh tẩy khỏi tội Nguyên tổ và mọi tội lỗi khác, chúng ta được mời gọi
vào sự sống mới đồng hình đồng dạng với Đức Kitô (x. Rm 6,4). Nhờ ân sủng của
bảy bí tích, các tín hữu tiếp tục tăng trưởng và được canh tân về đời sống
thiêng liêng, đặc biệt khi hành trình tâm linh trở nên khó khăn hơn. Khi từ bỏ
tình yêu của mình đối với Đức Kitô bằng cách phạm tội, các tín hữu lại có thể
được dẫn nhập vào các mối tương quan do Đức Kitô đã khởi sự trong Bí tích Hòa
Giải, cho phép họ lại bước đi trên con đường Người đã đi (x. 1Ga 2,6). Bằng
cách này, chúng ta hy vọng hướng tới Cuộc Phán xét cuối, trong đó mỗi người sẽ
được phân xử theo độ chân thực của tình yêu mình đã thể hiện (Rm 13,8-10), cách
đặc biệt là đối với những người yếu đuối nhất (x. Mt 25,31-46).
14. Nhiệm cục Cứu độ cũng đối nghịch với những khuynh hướng
đề xướng một sự cứu độ thuần túy nội tâm. Thật vậy, thuyết Ngộ đạo tự liên kết
với quan điểm tiêu cực về trật tự đuợc tạo dựng, trật tự này bị hiểu là sự giới
hạn tự do tuyệt đối của tinh thần nhân loại. Vì thế, Ơn Cứu độ bị hiểu là sự
giải thoát khỏi thể xác và các mối tương quan cụ thể mà con người đang sống. Ơn
Cứu độ đích thực, trái nghịch với tình trạng giải thoát khỏi thân xác, còn bao
gồm cả việc thánh hóa thân xác (x. Rm 12,1) đến mức chúng ta được cứu độ nhờ
“việc hiến dâng thân mình làm lễ tế của Đức Kitô Giêsu” (Dt 10,10; x. Cl 1,22).
Thân xác con người được Thiên Chúa nặn hình, Ngài khắc vào đó một ngôn ngữ mời
gọi con người nhận biết các tặng ân của Đấng Tạo Dựng và sống thông hiệp với
anh chị em của mình [22]. Đấng Cứu Độ tái lập và canh tân ngôn ngữ nguyên thủy
này qua Mầu nhiệm Nhập Thể và Phục Sinh của Người, đồng thời thông truyền mầu
nhiệm ấy trong nhiệm cục các bí tích. Nhờ có các bí tích, các Kitô hữu mới có
thể sống trung thành với máu thịt Đức Kitô và nhờ đó, trung thực với thể thức
tương giao mà Người đã ban cho. Thể thức tương giao này, đặc biệt đòi hỏi phải
chăm sóc hết thảy nhân loại khổ đau bằng các công việc của lòng thương xót về
phương diện tinh thần cũng như thể xác [23].
Lá thư này được Phiên họp khoáng đại của Bộ Giáo Lý Đức Tin
thông qua ngày 24-01-2018, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chuẩn y vào ngày
16-02-2018, và ban lệnh phát hành thư.
Văn phòng Bộ Giáo Lý Đức Tin,
Rô-ma, ngày 22-02-2018, dịp lễ kính Ngai Tòa Thánh Phê-rô
(đã ấn ký)
+ Luis F. Ladaria, S.J.
Tổng Giám Mục Hiệu Tòa Thibica,
Tổng trưởng
(đã ký)
+ Giacomo Morandi
Tổng Giám Mục Hiệu Tòa Cerveteri,
Thư ký
Bản dịch của Ủy Ban Giáo lý Đức tin
---------------------------------------------
[1] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Mặc Khải Thiên
Chúa Dei Verbum, 2.
[2] X. Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tuyên ngôn Dominus Iesus (06-8-2000),
5-8: AAS 92 (2000), 745-749.
[3] X. Đức Giáo hoàng Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium
(24-11-2013), 67: AAS 105 (2013), 1048.
[4] X. Id., Thông điệp Lumen fidei (29-6-2013), 47: AAS 105
(2013), 586-587; Tông huấn Evangelii gaudium, 93-94: AAS (2013), 1059; Diễn văn
gởi các tham dự viên Công Nghị Lần Thứ Năm Của Giáo hội Ý (10-11-2015),
Florence: AAS 107 (2015), 1287.
[5] X. Id., Diễn văn gởi các tham dự viên Công Nghị Lần Thứ
Năm Của Giáo hội Ý (10-11-2015), Florence: AAS 107 (2015), 1288.
[6] X. Id., Tông huấn Evangelii gaudium, 94: AAS 105 (2013),
1059: “sự hấp dẫn của thuyết Ngộ đạo, một đức tin hoàn toàn chủ quan, chỉ bận
tâm đến kinh nghiệm nào đó hoặc một tập hợp các ý tưởng và những mẩu kiến thức
được cho là có khả năng an ủi và soi sáng, nhưng chung cuộc chỉ giam hãm con
người trong những tư tưởng và tình cảm của riêng mình”; Hội đồng Giáo Hoàng về
Văn Hoá - Hội đồng Giáo Hoàng về Đối Thoại Liên Tôn, Đức Giêsu Kitô Đấng mang
nước hằng sống. Một suy tư Kitô giáo về trào lưu “Thời Đại Mới” (tháng 01 năm
2003), Thành phố Vatican, 2003.
[7] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Thông điệp Lumen fidei, 47: AAS
105 (2013), 586-587.
[8] X. Id., Diễn văn gởi các tham dự viên cuộc hành hương
của Giáo phận Brescia (22-6-2013): AAS 95 (2013), 627: “trong thế giới này, nơi
người ta chối bỏ con người, nơi người ta thích đi theo đường lối của Ngộ đạo,
[...] của “không thân xác” – một Thiên Chúa đã không mặc lấy xác phàm [...]”.
[9] Theo lạc thuyết Pêlagiô, được phát triển vào thế kỷ V,
để chu toàn những giới luật của Thiên Chúa và để được cứu độ, con người chỉ cần
đến ân sủng như một sự trợ giúp từ bên ngoài cho tự do của mình (như ánh sáng,
sức mạnh chẳng hạn), chứ không như một sự chữa lành và tái tạo tận căn tự do,
không cần công trạng đi trước, cho đến khi con người có thể làm điều thiện và
đạt đến sự sống vĩnh cửu. Nổi lên vào thế kỷ I và II, phong trào Ngộ đạo còn
phức tạp hơn với những hình thức khác nhau. Cách chung, những người theo thuyết
Ngộ đạo tin rằng Ơn Cứu độ đạt được nhờ một tri thức bí nhiệm hoặc sự ngộ đạo.
Sự ngộ đạo này tỏ lộ cho người Ngộ đạo biết được bản thể đích thật của họ, nói
cách khác, một tia sáng của Thần Khí Thiên Chúa cư ngụ ở nội tâm họ. Tia sáng
này phải được giải thoát khỏi thân xác, vốn xa lạ với nhân tính chân thật của
họ. Duy chỉ bằng cách này, người Ngộ đạo trở về với hữu thể nguyên tuyền của họ
trong Thiên Chúa, Đấng họ đã lìa xa vì sự sa ngã nguyên thủy.
[10] X. Tôma Aquinô, Summa theologiae, I-II, q.2.
[11] X. Augustiô, Tự thuật, I, 1: Corpus Christianorum, 27,
1.
[12] Vaticanô II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới
ngày nay Gaudium et spes, 22.
[13] Uỷ Ban Thần Học Quốc Tế, Những câu hỏi chọn lọc liên
quan đến thần học về Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ (1995), 2.
[14] Bênêđictô XVI, Thông điệp Deus caritas est
(25/12/2005), 1: AAS 98 (2006), 217; x. Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium, 3: AAS 105 (2013), 1020.
[15] Irênê, Adversus haereses, III, 19,1: Sources
Chrétiennes, 211, 374.
[16] Vaticanô II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới
ngày nay Gaudium et spes, 22.
[17] X. Augustinô, Tractatus in Ioannem, 13,4: Corpus
Christianorum, 36,132: “‘Thầy là đường là sự thật và là sự sống’ (Ga 14,6). Nếu
bạn tìm kiếm sự thật ấy, hãy đi theo con đường ấy, vì con đường ấy cũng chính
là sự thật ấy. Đích bạn nhắm và con đường bạn đi là một. Bạn không thể đến đích
bằng việc đi con đường khác, bạn cũng không thể đến với Chúa Kitô qua một con
con đường khác. Bạn chỉ có thể đến với Chúa Kitô qua Chúa Kitô. Đến với Chúa Kitô
qua Chúa Kitô có nghĩa là gì? Bạn đến với Chúa Kitô là Thiên Chúa qua Chúa Kitô
là con người. Qua Ngôi Lời làm người, bạn đến được với Ngôi Lời mà ngay từ khởi
nguyên là Thiên Chúa và ở với Thiên Chúa.”
[18] Tôma Aquinô, Quaestio de veritate, q. 29, a. 5, co.
[19] LG, số 48.
[20] X. Tôma Aquinô, Summa theologiae, III, q. 63, a. 3.
[21] X. LG, số 11; SC, số 10.
[22] X. Laudato si’, số 155: AAS 107 (2015), 909-910.
[23] X. Tông thư Misericordia et misera (20-11-2016), 20:
AAS 108 (2016), 1325-1326.
[24] Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris missio
(7-12-1990), 40: AAS 83 (1991), 287-288; Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium,
9-13: AAS 105 (2013), 1022-1025..
[25] Vaticanô II, Gaudium et spes, 22.