BÀI GIẢNG THỨ SÁU TUẦN THÁNH
CỦA VỊ GIẢNG THUYẾT PHỦ GIÁO HOÀNG
NĂM 1996: “MỘT NGƯỜI ĐÃ CHẾT THAY CHO MỌI NGƯỜI”
Đây là bài giảng của Đức Hồng y Raniero Cantalamessa OFM Cap, giảng thuyết Phủ Giáo Hoàng, vào Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1996 với sự hiện diện của Đức Giáo Hoàng và Giáo triều Roma. Mở đầu bài giảng, ngài nói:
Một sử gia Hy lạp thuật chuyện ngày kia vua Damoclès muốn tỏ cho một cận thần thèm muốn địa vị của ông biết một ông vua thực sự sống như thế nào. Ông dọn một bữa tiệc thịnh soạn và cho mời người đó đồng bàn với ông. Cuộc sống cung đình dường như luôn là điều con người thèm khát. Nhưng có một lúc nhà vua mời ông nhìn lên bên trên đầu mình, và người này khi ấy đã trông thấy gì? Một thanh gươm treo lủng lẳng trên đầu ông bằng một sợi lông ngựa, mũi gươm quay xuống dưới. Người cận thần mặt nhợt như tầu lá, cổ họng thắt lại, toàn thân run lẩy bẩy. Damoclès nói: cuộc sống của các vua là như thế, có một thanh gươm ngày đêm đe dọa trên đầu.
Thế nhưng chúng ta có thể thêm: không chỉ có các vua ở trong tình trạng như thế. Một thanh gươm treo trên đầu mỗi người, không trừ ai. Nhưng họ không lưu ý, vì ai nấy đều bận tâm vào công việc và giải trí của mình. Thanh gươm này được gọi là cái chết. Vì yêu thương con người chứ không phải ghét họ, Giáo Hội phải thỉnh thoảng thi hành nhiệm vụ bạc bẽo này là kêu gọi chúng ta ngước mắt lên để thấy thanh gươm treo lủng lẳng trên đầu, để nó không rơi xuống trên đầu ta vào lúc chúng ta không được chuẩn bị.
Nhưng phải chăng ý nghĩ về cái chết của mình không đủ ám ảnh chúng ta sao? Tại sao phải khuấy dao vào vết thương? Quả thực nỗi sợ chết hiện diện trong đáy lòng mỗi người. Theo một nhà tâm lý học có tiếng, nỗi lo về cái chết là “con sâu ở trọng tâm” mọi tư tưởng. Nó là cách diễn tả trực tiếp của bản năng mạnh mẽ nhất nơi con người, bản năng sinh tồn.
Nếu có thể nghe được tiếng kêu thầm lặng phát ra từ toàn thể nhân loại, người ta sẽ nghe thấy tiếng kêu kinh khủng này: “Tôi không muốn chết!”
Vậy tại sao lại mời gọi con người nghĩ tới cái chết, nếu cái chết đã có mặt. Câu trả lời đơn giản thôi. Chính vì chúng ta đã chọn gạt bỏ ra ngoài ý tưởng về cái chết, làm như nó không có, hoặc chỉ là cho người khác, không phải cho chúng ta. Sau chiến tranh, một khu dân cư mới hạng sang xuất hiện trong một thành phố lớn ở Ý. Các nhà xây dựng đã quyết định không nên có nhà thờ ở đây vì việc nghe tiếng chuông báo tử và thấy đám tang có thể khuấy động sự yên tĩnh của dân cư.
Nhưng ý nghĩ về cái chết không thể bị những phương tiện này gạt ra ngoài. Chỉ còn việc là trấn áp ý nghĩ này và đó là điều hầu như tất cả chúng ta đang làm. Thế mà trấn áp ý nghĩ này đòi hỏi những nỗ lực, một sự chú ý thường xuyên, một nỗ lực tâm lý học mãnh liệt, như thể phải giữ chặt chiếc vung đang muốn bật lên. Chúng ta sử dụng một phần quan trọng của năng lực để tránh nghĩ về cái chết. Một số người thậm chí còn thể hiện sự tin tưởng lớn vào điều này và nói rằng họ biết mình phải chết, nhưng không quan tâm quá nhiều về nó. Họ nói mình nghĩ tới sự sống chứ không phải sự chết… Nhưng đây là thái độ của con người trần tục; thực ra đó chỉ là một trong nhiều cách kìm nén sợ hãi.
Thế nên cuối cùng cần phải nói về sự chết và nói cho đúng về nó trong ngày Thứ Sáu Thánh, ngày sự chết đã bị đánh bại. Cần nói về nó, không phải để làm gia tăng nỗi sợ hãi, nhưng để được giải thoát khỏi sợ hãi nhờ một người duy nhất có thể làm điều đó.
***
Con ngươi đã tìm thấy những câu trả lời nào cho vấn đề sự chết? Các thi sĩ đã là những người chân thành nhất. Tuy không đưa ra những giải pháp, họ giúp chúng ta ít nhất cũng ý thức về tình huống của chúng ta và mủi lòng về số phận của chúng ta và số phận của những người đồng loại. Một trong số họ (G. Ungaretti) đã viết: “Chúng ta giống như những lá cây mùa thu”. Theo một thi sĩ khác, con người giống như một ngọn sóng cuộn tròn và tiến lên tạo bọt trên mặt biển và không ai biết nó sẽ ùa vào bãi biển nào (G. Becquer). Trước bí ẩn của cái chết, một thi sĩ người Ý (G. Pascoli) đã kêu lên: “Mầu nhiệm quá lớn lao trên trái đất bị đè nặng này”.
Bù lại, những triết gia đã cố gắng “cắt nghĩa” cái chết. Một trong số họ, Épicure, đã quả quyết cái chết là một vấn đề hão, vì như ông nói, “Khi tôi ở đó, cái chết chưa ở đó, và khi cái chết ở đó thì tôi không ở đó nữa”.
Ngay cả thuyết mácxít cũng cố gắng gạt bỏ vấn đề về cái chết. Thuyết này cho rằng cái chết là việc của con người và điều đó chứng minh đúng đắn rằng điều đáng kể không phải là cá nhân, nhưng là xã hội, chủng loại, là thứ không chết. Nhưng thuyết mácxít đã biến mất và vấn đề sự chết vẫn tồn tại. Lâu trước cuộc chạy đua vũ trang hay trên các thị trường thế giới, chủ thuyết cộng sản đã thua cuộc trong các tâm hồn. Đối diện với cái chết, nó đã không biết làm gì khác hơn là xây lăng mộ.
Trước Đức Giêsu Kitô, chính Kinh Thánh cũng hầu như giữ thái độ thinh lặng liên quan đến vần đề sự chết. Tác giả sách Giảng viên đã tuyệt vọng mà kết luận: “Phù vân, quả là phù vân, mọi sự đều là phù vân cả!” (Gv 12,8). Người chết được so sánh với một ngọn đèn dầu bị vỡ và tắt ngúm, với một chiếc vò bị bể ở hồ chứa nước, với một cái ròng rọc đứt dây vĩnh viễn làm rơi cái xô xuống đáy giếng (x. Gv 12,1-8). Sách Huấn ca kết luận: “Hỡi tử thần, nhớ đến ngươi thật là cay đắng!” (Hc 41,1)
***
Đức tin Kitô giáo có thể nói gì về vấn đề này? Một chuyện đơn giản nhưng vĩ đại: cái chết hiện hữu, là vấn đề lớn nhất trong các vấn đề của chúng ta, nhưng Đức Kitô đã chiến thắng sự chết! Cái chết của con người không giống như trước đây, một biến cố mang tính quyết định đã xẩy ra. Trong đức tin, người ta nhận thấy một sự mới mẻ không tin nổi mà chỉ chính Thiên Chúa đến mới có thể gây ra. Cái chết đã mất đi ngòi chích của nó, giống như một con rắn mà nọc độc chỉ có thể làm cho nạn nhân ngủ trong vài giờ nhưng không làm người đó tử vong. “Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi?” (1Cr 15,55)
Trong Phúc Âm, viên đại đội đội trưởng Rôma đã cống bố sự mới mẻ của cái chết này; chứng kiến Đức Giêsu hấp hối, ông kêu lên: “Quả thật người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39). Viên đại đội trưởng này biết rõ những người chiến đấu và những cuộc chiến đấu. Ông nhận ra tức khắc tiếng kêu của Đức Giêsu vào lúc tắt thở là tiếng kêu của một người thắng trận chứ không phải của người thua trận.
Nhưng Đức Giêsu đã chiến thắng sự chết như thế nào? Ngài đã không tránh nó, đã không đẩy lui nó như một kẻ thù đang trốn chạy. Ngài đã chiến thắng nó, bằng cách chịu đựng nó, nếm mùi cay đắng của nó. Ngài đã thắng nó từ bên trong, chứ không ở bên ngoài.
Từ đầu, tôi đã nhắc lại những lời của bài đọc thứ hai: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết…” (Dt 5,7) Chúng ta không thật sự có một vị thượng tế không biết động lòng trắc ẩn trước những yếu đuối của chúng ta, nhất là trước nỗi sợ chết. Chúng ta có thể đọc trong Phúc Âm thấy Đức Giêsu đã khóc ba lần, trong đó có hai lần vì nỗi đau buồn do cái chết gây ra.
Chính trong vườn Ghếtsêmani mà Đức Giêsu đã sống đến cùng kinh nghiệm của con người trước cái chết. Các sách Phúc Âm đều nói: “Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến”. Hai từ được sử dụng vào lúc này gợi lên ý tưởng về một người đang bị rối loạn sâu xa, cô đơn trong lo sợ, giống như khi người ta cảm thấy mình bị gạt ra ngoài xã hội loài người.
Đức Giêsu đã không sống cái chết như một người có một quân chủ bài có thể sử dụng khi cần. Nếu trong suốt cuộc đời, Đức Giêsu đã nhiều lần cho người ta hiểu rằng Ngài biết mình sẽ sống lại, thì đó là một kiến thức đặc biệt mà Ngài không có khi Ngài muốn và như Ngài muốn. Tiếng kêu trên thập giá “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” chỉ ra rằng vào lúc đó, với tư cách là con người, Ngài không có được sự chắc chắn đó.
Đức Giêsu đã sống cái chết như chúng ta, như khi chúng ta vượt qua ngưỡng cửa lúc tối và không biết có gì ở bên kia nó. Đức Giêsu chỉ được sự phó thác không lay chuyển vào Cha của Ngài nâng đỡ, khiến Ngài thưa lên: “Lậy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha!” (Lc 23,46)
***
Thế nhưng điều gì đã xẩy ra, sau khi Ngài vượt qua ngưỡng cửa trong bóng tối này? Các Giáo Phụ có thói quen sử dụng một hình ảnh để trả lời cho câu hỏi trên. Cái chết giống như một thú dữ cũng đã tấn công Đức Giêsu và nuốt trửng Ngài, nghĩ rằng Ngài đã thuộc về nó như tất cả những gì phải chết. Nhưng con thú đã bị mắc bẫy. Nhân tính của Đức Kitô che giấu nơi mình một quyền năng bất tử, Ngôi Lời Thiên Chúa không thể chết. Cái chết có những chiếc răng bị quyền năng đó bẻ gẫy mãi mãi. Trong một bài giảng cũng dịp Thứ Sáu Thánh này, một giám mục ở thế kỷ II đã tuyên bố: “Cùng với Thần Khí của mình không lụy phục cái chết, Đức Kitô đã giết sự chết, một sự chết đã giết con người[1].”
Đức Giêsu đã chiến thắng sự chết “bằng cách chết”. Mortem nostram moriendo destruxit: chính là tiếng kêu vượt qua ngày nay vẫn đồng loạt vang lên cả trong Giáo Hội Đông phương lẫn Tây phương. Sữ chết không còn là một bức tường mà đứng trước nó mọi sự đều đổ vỡ; đó là một sự vượt qua, tức là một cuộc Vượt Qua. Đó là một loại “cầu Than Thở” (ở thành phố Venetia) nhờ đó người ta đi vào cuộc sống thật không còn phải chết nữa.
Quả thực, lời loan báo Kitô giáo quan trọng nhất là ở đó, Đức Giêsu đã không chết cho Ngài. Ngài không chỉ để lại cho chúng ta gương mẫu về một cái chết oai hùng, như Socrates. Ngài còn làm hơn thế nữa. Thánh Phaolô nói: “Một người đã chết thay cho mọi người” (2Cr 5,14) và: “Đức Giêsu đã phải chết là để cho mọi người được cứu độ” (Dt 2,9). Những quả quyết lạ lùng trên đây không làm chúng ta reo lên vui mừng, chỉ là vì chúng ta không đánh giá cho đủ tầm quan trọng của chúng và theo đúng mặt chữ như chúng ta đáng lẽ phải làm. “Được dìm vào trong cái chết của Đức Kitô” (Rm 6,3), chúng ta đi vào trong một tương quan thực sự, cho dù thần bí, với cái chết này, chúng ta dự phần vào đó, đến độ thánh Tông Đồ đã can đảm công bố trong đức tin: “Anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa.” (Cl 3,3) “Một người đã chết thay cho mọi người, thì mọi người đều chết.” (2Cr 5,14)
Chúng ta hiểu điều đó dễ dàng. Vì từ nay chúng ta thuộc về Đức Giêsu Kitô hơn thuộc về chính chúng ta (x. 1Cr 6,19 tt), kết quả là, ngược lại, những gì thuộc về Đức Kitô thì thuộc về chúng ta hơn là những gì thuộc về chúng ta. Cái chết của Ngài thuộc về chúng ta hơn là cái chết riêng của chúng ta. Phaolô còn nói: “Sự sống, sự chết, hiện tại, tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, vì anh em thuộc về Đức Kitô” (1Cr 3,22 tt). Sự chết là cho chúng ta hơn chúng ta là cho sự chết; nó thuộc về chúng ta hơn là chúng ta thuộc về nó. Trong Đức Kitô, chúng ta cũng đã chiến thắng sự chết.
Khi là về cái chết, điều quan trọng nhất trong Kitô giáo không phải là chúng ta phải chết, nhưng là sự kiện Đức Kitô đã chết. Kitô giáo không thâm nhập vào lương tâm với nỗi sợ chết, nhưng với cái chết của Đức Kitô. Đức Kitô đến giải thoát con người khỏi nỗi sợ chết, chứ không làm gia tăng nỗi sợ ấy. Con Thiên Chúa đã mặc lấy xác thịt con người, “để kẻ nắm quyền sự chết là ma quỷ phải chịu bất lực, và như thế giải thoát những ai, vì sợ chết, đã phải làm tôi suốt đời” (Dt 12. 14 tt).
Điều có lẽ làm cho chúng ta sợ hãi nhất trong cái chết, là phải đương đầu với sự cô đơn. Một tác giả đã viết: “Không ai có thể chết cho người khác, nhưng mỗi người sẽ phải vật lộn với cái chết. Chúng ta có thể tha hồ hét to vào tai người sẽ ở bên cạnh chúng ta, nhưng vào lúc đó, mỗi người sẽ phải gặp lại chính mình[2].”
Nhưng điều đó không hoàn toàn đúng. “Nếu chúng ta cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ cùng sống lại với Ngài” (2Tm 2,11). Như vậy có thể có hai người cùng chết.
Chúng ta biết sự nghiêm trọng của an tử theo quan điểm Kitô giáo. An tử làm cho cái chết của con người không còn liên hệ với cái chết của Đức Kitô; làm cho cái chết mất đi đặc tính vượt qua của nó; nó đưa cái chết về lại tình trạng trước khi Đức Kitô đến. Cái chết mất đi sự oai nghiêm khắc khổ của nó khi trở thành công việc của con người, quyết định của một sự tự do có giới hạn. Nó hoàn toàn “bị tục hóa”, nghĩa là bị tước bỏ tính chất thánh thiêng của nó.
***
Từ khi có thế giới, con người đã không bao giờ ngừng tìm kiếm các phương dược chống lại cái chết. Một trong những phương dược ấy, có tính chất kiểu mẫu nơi Cựu Ước, là con cái: sống còn qua các con cái của mình. Một phương dược khác là nổi tiếng. Một thi sĩ ngoại đạo đã viết: “Tôi sẽ không chết hoàn toàn (non omnis moriar)”. “Tôi đã dựng lên một công trình kỷ niệm bền vững hơn đồng (aere perennius)” (Horatius).
Ngày nay, người ta ngày càng chạy đến một phương dược giả (pseudo-remède) mới mẻ: học thuyết về sự tái đầu thai. Nhưng có lời chép rằng: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9,27). Chỉ một lần, semel! Học thuyết tái đầu thai không phù hợp với đức tin Kitô giáo. Cách trình bầy ở Tây phương về việc tái đầu thai là kết quả, trong số những kết quả khác, của một sự sai lầm lớn. Ở nguồn gốc, và trong tất cả các tôn giáo tuyên xưng sự tái đầu thai như một điều phải tin, sự tái đầu thai không có nghĩa là một sự bổ sung của cuộc sống, nhưng của đau khổ, nó không phải là nguồn mạch an ủi, nhưng là nguồn mạch lo sợ. Cùng với nó, người ta nói như sau cho con người: Coi chừng, nếu ngươi làm điều xấu, ngươi sẽ phải tái sinh để đền bồi cho việc làm ấy.” Chính là một lời đe dọa và một hình phạt. Giống như nói với một tù nhân trong ngày cuối bị giam giữ là hình phạt đã được tăng gấp đôi và anh ta phải bắt đầu lại từ đầu. Chúng ta có tất cả, chúng ta đã thích nghi tất cả với não trạng Tây phương duy vật và tục hóa. Chúng ta đã biến học thuyết tái đầu thai, được phát minh trước tin mừng Phục sinh của Đức Kitô, thành một cái cớ để thoát khỏi tính nghiêm trọng của cuộc sống và cái chết.
Phương dược thật sự là phương dược được Giáo Hội nhớ đến ngày hôm nay: “Một ngươi đã chết thay cho mọi người” “Đức Kitô đã trải nghiệm cái chết vì lợi ích của mọi người!” Để bảo vệ mình trước cái chết, chúng ta không được làm gì khác ngoài việc gần gũi hơn với Ngài. Chúng ta phải thả neo vào Đức Giêsu Kitô bằng đức tin, như chiếc neo người ta cắm xuống đáy biển để con tầu có thể chịu được cơn bão đang đe dọa.
Ngày xưa người ta dạy nhiều cách dọn mình chết. Cách chính là năng nghĩ về nó, hình dung về nó trong những chi tiết bệnh hoạn nhất. Điều quan trọng không phải thật sự nhìn tới cái chết của chúng ta, nhưng đúng hơn là nhìn tới cái chết của Đức Giêsu Kitô, không phải chiếc sọ biểu tượng cho cái chết, nhưng là Đấng bị đóng đinh trên thập giá. Cường độ kết hợp với Ngài sẽ đáp ứng với cường độ tự tin của chúng ta trước cái chết.
Chúng ta phải làm thế nào để sự gắn bó của chúng ta với Đức Kitô mạnh hơn sự gắn bó của chúng ta với những sự vật, với công việc, với người thân yêu, với mọi sự, sao cho không gì có thể giữ chúng ta lại khi “đến giờ phải ra đi” (2Tm 4,6).
Khi sắp qua đời, Phanxicô Assisi, người đã thực hiện ở mức hoàn hảo sự kết hợp với Đức Kitô, đã thêm một đoạn vào trong bài ca vạn vật: “Lạy Chúa, Chúa đáng ca ngợi vì chị Chết của chúng con, mà không người còn sống nào có thể thoát khỏi.” Và khi người ta cho hay là ngài sắp lìa đời, ngài đã kêu lên: “Chào mừng bà chị Chết của tôi!” Cái chết đã thay đổi bộ mặt: đã trở nên một người chị.
Phanxicô Assisi đã không phải là người duy nhất. Sau Thế chiến II, một cuốn sách nhan đề Những lá thư cuối cùng từ Stalingrad đã được xuất bản. Đó là một tập thư của các người lính Đức thuộc một đoàn quân xa cuối cùng mắc bẫy ở Stalingrad trước cuộc tấn công của quân đội sô viết, và tất cả đều chết. Nơi một trong những lá thư trên, một người lính trẻ đã viết cho cha mẹ như sau: “Con không sợ chết. Đức tin đã cho con sự tin chắc sâu xa này!”
***
Trước khi chết, Đức Giêsu đã lập phép Thánh Thể và như vậy đã lường trước hạn cái chết của Ngài; Ngài đã loại bỏ nó khỏi tình cờ, những biến cố và những giải thích ngẫu nhiên. Ngài đã cho nó một ý nghĩa, ý nghĩa do chính Ngài ban chứ không phải ý nghĩa do kẻ thù gán cho: biến nó thành việc tưởng niệm của Giao Ước mới, đền bồi tội lỗi, lễ dâng tối cao của tình yêu cho Chúa Cha vì loài người. Ngài nói: “Hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con”.
Trong mỗi Thánh lễ, Ngài cũng cho chúng ta cơ hội tuyệt vời này là ban trước một ý nghĩa cho cái chết của chúng ta, là kết hợp chúng ta với Ngài để làm cho Thánh lễ trở thành một món quà sống động trong Đức Kitô, một sự đổ máu làm lễ tế, như thánh Phaolô nói (x. 2Tm 4,6).
Một hôm, vào lúc xế chiều, trên bờ hồ Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia đi!” (Mc 4,35) Một ngày hay một buổi chiều nào đó, Ngài cũng sẽ nói với chúng ta những lời trên: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia đi.” Phúc cho những ai giống như các môn đệ sẵn sàng đưa Ngài lên thuyền và nhổ neo với Ngài trong đức tin.
Trong ngày hôm nay, một lời tạ ơn sâu sắc mạnh mẽ vọt lên từ trái tim người tín hữu và từ toàn thể nhân loại:
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn thay cho người biết và người không biết Chúa vì Chúa đã chết cho họ.
Chúng con tạ ơn vì mồ hôi máu Chúa, vì sự lo âu của Chúa và tiếng kêu chiến thắng của Chúa trên thập giá.
Xin Chúa ở kề bên những ai sắp ly trần và lặp lại cho họ điều Chúa đã nói cho người trộm lành trên thập giá: “Ngày hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi!”
Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con vì trời đã tối và cuộc sống đã đến hồi tàn tạ…
[1] Méliton de Sardes, Sur la Paque, 66
[2] Luther, WA 10, 3 1tt.