NGỪA
THAI VÀ HÔN NHÂN
Lm Luy Nguyễn Anh Tuấn chuyển
ngữ
Những đòi hỏi của Giáo Luật
cho Hôn nhân hoàn hợp
Sau đây là một
vấn đề về đạo đức sinh học mà một độc giả của Zenit đã nêu lên và được các
thành viên của Viện nghiên cứu về Văn hóa Sự Sống (Culture of Life Foundation)
trả lời. Giải đáp sau đây chỉ là một ý kiến thần học để giải thích cho khoản
Giáo luật 1061. Bài dịch được đăng tải không nhằm mục đích trước tiên để tạo
nên bàn tròn thảo luận về một vấn đề chuyên môn cho bằng là vì thấy toát lên
một tư tưởng nhân học thích đáng và hữu ích trong quan niệm hôn nhân kitô giáo.
Tuy nhiên, còn nhiều điểm cần được đào sâu hơn, và bàn thảo với những ý kiến dị
biệt khác nữa.
Câu hỏi: Một
hành động giao hợp sinh lí có ý tránh thai (a contraceptive act of sexual
intercourse) có thỏa những yêu cầu của hôn nhân hoàn hợp (consummation) hay
không? (Độc giả SG. A. –
E. Christian Brugger trả lời như sau:
Trả lời: Cả Giáo
Luật và giáo huấn luân lí của Giáo hội Công Giáo không đưa ra câu trả lời chính
thức cho vấn đề này. Do đó, những ai quan tâm đến vấn đề và muốn tìm câu trả
lời cho lương tâm nên tham khảo những luận cứ liên quan từ cả hai phía của vấn
đề và rút ra kết luận xem ra đối với họ là đúng đắn nhất dưới ánh sáng của
những chân lí đức tin rộng lớn hơn. Suy tư của các nhà thần học công giáo về
vấn đề này rất là hữu ích. Thế nhưng, những người Công giáo không nên “tin”
những gì các nhà thần học này nói xét như
là những chân lí mạc khải của Thiên Chúa hay như là giáo huấn dứt khoát của
Giáo hội Công giáo. Họ cũng không nên xem các ý kiến của các nhà thần học với
cùng thái độ như khi họ “phải kính cẩn tuân phục bằng ý chí và lí trí” Giáo
huấn Công giáo thuộc Huấn Quyền chưa tuyên bố dứt khoát (x. Cđ. Vatican II, Lumen gentium, số 25). Đúng hơn, họ nên
xem xét những gì các nhà thần học nói và tự phán định cho mình những ý kiến ấy
là có đúng đắn hay không. Những gì tôi nói sau đây là lập luận riêng của tôi về
vấn đề hành vi giao hợp sinh lí có ý tránh thai có hoàn hợp (consummates) cuộc
hôn nhân hay không (nghĩa là, nó có phù hợp hay không để tạo nên một sự hiệp
thông thiết yếu để cả hai người nên một xương một thịt hầu có được một cuộc hôn
nhân bất khả phân li). Tôi khởi đi từ việc giải thích bản tính của một con người
(nhân vị) vừa xác thể vừa tinh thần (spiritual-bodily nature) làm cơ sở như thế
nào cho Giáo huấn của Hội thánh Công giáo về bản chất của hôn nhân.
Con người là một
hữu thể thống nhất của xác và hồn. Là hữu thể tinh thần, nhưng con người không
chỉ là hữu thể tinh thần sử dụng một thân xác, giống như một thuyền trưởng lái
con tàu của mình. Con người còn là hữu thể thân xác, nhưng không chỉ là thân
xác thiếu chiều kích phi-vật-thể (như những người theo thuyết duy vật tin
tưởng). Con người được gọi cách chính xác là những “linh hồn nhập thể”. Quan hệ
hôn nhân là diễn tả duy nhất của sự hợp nhất hồn-xác này.
Một số tương
quan, chẳng hạn như quan hệ giữa hai người là bạn, được thiết lập trên cơ sở
chiều kích tinh thần này mà thôi. Nói thế tôi không có ý muốn nói tình bạn
không hề được diễn tả qua thân xác. Dĩ nhiên là có, nó giống như mọi sự gì
thuộc nhân tính. Nhưng tình bạn hiện hữu là nhờ một hành vi tinh thần, một hành
vi của ý muốn, tức là trên cơ sở của sự ưng thuận của hai người thông dự. Và nó
chỉ tồn tại cho tới khi nào những người bạn ấy vẫn còn muốn làm bạn với nhau.
Nếu có một người nào không ưng thuận nữa, mối quan hệ ấy (dẫu còn hay không còn
tình cảm) coi như chấm dứt.
Hôn nhân cũng là
một loại tình bạn đòi hỏi phải có sự ưng thuận (“sự ưng thuận trong hôn nhân”).
Thế nhưng, nó là cái gì đó còn hơn là một tình bạn thông thường được xây dựng
và gìn giữ chỉ bằng sự ưng thuận của hai người thông dự. Nó còn có một chiều
kích xác thân sâu thẳm – chiều kích “một xương một thịt” được thực hiện qua hành
vi giao hợp đầu tiên (xem St 2,24; Mt 19,5; Ep 5,31). Tính chất “một xương một thịt” này có hiện hữu hay không
là do, như thánh Phaolô giải thích, những người này có kết hôn với nhau hay
không (x. 1Cr 6,16). Nhưng bởi vì
hành động “ăn ở với nhau” (“giao hợp”) nối kết hai người thành chỉ một thân xác
một linh hồn, diễn tả khả năng tình thâm giao sâu nặng (radical human intimacy)
và sinh sản thuộc nhân tính, cho nên hành động ấy phải là duy chỉ thuộc về hôn
nhân. Điều đó có nghĩa là nó phải là một hành động thể hiện và tham dự vào một
mối quan hệ mang tính chất bền vững, độc hữu và phong nhiêu (khả năng sinh
sản).
Nếu hai người
phối ngẫu chưa ưng thuận cùng nhau sống một đời đôi bạn kiểu hôn nhân kéo dài suốt
cuộc đời, hành động giao hợp của họ là vô luân (disordered) bởi lẽ nó tạo nên
một sự kết hợp nên một thân xác nhưng trên cơ sở một quan hệ không trường cửu.
Đức Gioan Phaolô II nói rằng “ngôn ngữ thân xác” mà được biểu lộ qua một quan
hệ ngoài hôn nhân là dối trá. “Bởi lẽ tôi nói qua thân xác tôi rằng em thuộc về
tôi và tôi thuộc về em mãi mãi; nhưng tôi lại chưa ưng thuận một kết hợp kiểu
như thế.”
Thế nên, hôn
nhân là một quan hệ bằng hữu trường tồn nhưng thuộc loại hai-trong-một-thân-xác
được thiết lập trên cơ sở vừa là sự ưng thuận của hai người phối ngẫu vừa qua
một hành động kết hợp hai thân xác thành một thể thống nhất một-xương-một-thịt.
Sự ưng thuận được tỏ bày tại bàn thờ lúc hai người phối ngẫu trao đổi lời thề
hứa. Nếu hai người thực sự có ý tham dự mối quan hệ bằng hữu được phối hôn nên
một-xương-một-thịt bất khả phân li, và không có ngăn trở nào (ví dụ như họ đã
kết hôn), thì sự ưng thuận ấy tạo nên (điều mà Giáo luật nói) một hôn nhân
“thành nhận” (“ratified marriage”), là hôn nhân đích thật, nhưng chưa là hôn
nhân hoàn hợp. Hôn nhân ấy trở nên hoàn hợp khi đôi bạn thực hiện một hành vi
vợ chồng nên một trên thân xác diễn tả sự ưng thuận mà họ tuyên bố tại bàn thờ –
ưng thuận trao hiến hoàn toàn bản thân cho nhau không thể hủy bỏ. Nếu họ chưa
hề hoàn hợp, hành động kết hôn chưa hoàn tất cách trọn vẹn, và tính chất chưa
trọn vẹn của sự kết hôn biểu lộ qua việc dây hôn phối có thể được Giáo hội tháo
gỡ. Nếu hôn nhân đã thành nhận và đã hoàn hợp, thì không gì có thể tháo gỡ sự
liên kết vợ chồng trừ cái chết.
Giáo Luật
Bây giờ chúng ta
trở lại với câu hỏi liệu một hành vi giao hợp có ý tránh mang thai có hoàn hợp
cuộc hôn nhân hay không. Chú giải 1985 về Bộ Giáo Luật của Hiệp Hội Giáo Luật
Hoa Kỳ nói rằng: “Những nhà cố vấn khi bàn thảo các điều khoản Giáo luật này đã
ngã hướng về quan niệm cho rằng sự giao hợp tự nhiên đã là hoàn hợp và việc sử
dụng các phương thế ngừa thai không ngăn trở tính hoàn hợp thật sự của hành
động ấy chừng nào chúng không cản trở hành động giao hợp thể lí” [1].
Tôi hiểu đoạn
văn này muốn nói rằng các nhà cố vấn (tức là, các chuyên viên về Giáo luật mà
Vatican đã tham vấn trong khi chuẩn bị cho ra đời Bộ Giáo Luật 1983) cho rằng
nếu một người vợ đang dùng thuốc tránh thai để kiểm soát sinh sản (vốn trái với
giáo huấn luân lí của Hội thánh Công giáo – ND.) trong khi “ăn ở” với nhau lần
đầu tiên, hành động ấy vẫn “tự nó có khả năng dẫn tới sinh sản” (điều 1061)
(nghĩa là, một hành động thuộc “loại” phong nhiêu (procreative) cho dẫu thực tế
không thể sinh con (not actually a fertile act)). Sỡ dĩ thế không phải là vì
các nhà cố vấn đã cho rằng viên thuốc ngừa thai là hợp luân lí đạo đức (dù một
số người có lẽ vẫn tin như thế), nhưng vì một hành vi tránh thai bằng cách dùng
dược phẩm không ngăn trở người chồng phóng tinh vào âm đạo người vợ, đây là điều
mà hầu hết các nhà Giáo luật cho là cốt yếu của sự hoàn hợp.
Nếu luận cứ này
là đúng (như tôi đã nói, đây không phải là giáo huấn của Giáo hội nhưng chỉ là
kết luận của các nhà thần học), nó sẽ có những hệ luận cho việc chuẩn bị hôn
nhân. Nếu một cặp có ý định thực hành ngừa thai trong những năm đầu hôn nhân để
tránh có con cái như nhiều cặp đã làm, thì cho dù họ đã kí kết một hôn ước hợp
pháp thành nhận (ratified) trên bàn thờ, họ còn chưa hoàn hợp cuộc hôn nhân của
mình cho đến khi họ chọn một hành động “ăn ở vợ chồng” mà tôn trọng cả hai thiện
hảo của hôn nhân. Điều này có nghĩa là họ chưa kết hợp nên một xương một thịt
cho tới lúc ấy; họ chưa đón nhận ân sủng xuống trên cuộc hôn nhân của đôi vợ
chồng xét như là một xương một thịt; hôn nhân của họ vẫn còn có thể tháo gỡ
được. Điều đó cũng có nghĩa là họ bước vào cuộc hôn nhân của họ trong khi
thường xuyên chọn một hành vi xấu nghiêm trọng, không tốt cho cuộc hôn nhân của
mình. Sau 40 năm nuốt những viên thuốc đắng đót này, giờ đây các đôi bạn cần
được các vị mục tử trong Giáo hội nói thẳng thắn rõ ràng: ngừa thai cản trở
thiện hảo của một cuộc hôn nhân, nó chống lại hôn nhân, là một virus luân lí
trong mối quan hệ.
Tôi tin rằng một
linh mục mà biết một cặp vợ chồng có ý thực hành ngừa thai sau khi họ cưới nhau
sẽ hết sức thuyết phục họ làm cách khác. Ngài cố gắng thuyết phục họ không đơn
giản chỉ nói với họ rằng họ đang làm điều sai trái. Ngài nên giải thích rõ ràng
hết sức những lí do khiến sự giao hợp ngừa thai là sai trái; và làm thế với
lòng bác ái và kiên nhẫn, vì nhận thấy nhiều người, kể cả nhiều người Công
giáo, rất khó thấy tính chất sai trái của sự ngừa thai. Sau cùng, nếu như họ từ
bỏ giáo huấn của Giáo huấn Công giáo, các ngài nên từ khước việc kết hôn của
họ. Cũng như, phong chức linh mục cho một người bỏ Giáo huấn của Hội thánh về
đức khiết tịnh của giáo sĩ đối với tôi là một sai lầm mục vụ nghiêm trọng, cũng
thế, đối với việc kết hôn những người từ bỏ giaó huấn của Giáo hội Công giáo về
đức khiết tịnh hôn nhân.
Mặc dù chọn theo
hay không ý kiến của tôi ở đây, các vị cũng cố gắng trao đổi với các cặp cách
rõ ràng hết sức rằng tội ngừa thai không phải là một chuyện nhỏ không nguy hại
gì cho cuộc hôn nhân của họ, dù việc thực hành mục vụ trong Hội thánh công giáo
đã tiến hành điều đó với cách thức này từ nhiều thập niên rồi.
––––––––––––––––––––––––––––––––––––
[1]
Chú giải điều khoản 1061 (1985, Hiệp Hội Giáo Luật Hoa Kỳ), tr.745.
*
* *
E.
Christian Brugger là một thành viên cao cấp về Đạo Đức học (Ethics) tại Viện
nghiên cứu Văn Hóa Sự Sống và là một phó giáo sư thần học luân lí tại Chủng
Viện Thần học St. John Vianney ở Denver, Colorado. Ông nhận bằng Tiến sĩ Triết
học từ
William
E. May là một thành viên cao cấp tại Viện nghiên cứu Văn Hóa Sự Sống và giáo sư
về hưu Michael J. McGivney về Thần học Luân lí tại Học Viện Gioan Phaolô II
nghiên cứu về Hôn Nhân và Gia Đình tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ (CUA), D.C.
(Theo
http://Zenit.org/article-30025?l=english)