Lời Chúa:
Mc 16, 9-15
Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu
hiện ra trước tiên với bà Maria Mácđala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy
quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã khóc
lóc. Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin.
Sau đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các
ông, khi họ đang trên đường đi về quê. Họ trở về báo tin cho các ông khác,
nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này. Sau cùng, Người tỏ mình ra cho
chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không
tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau
khi Người trỗi dậy. Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên
hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.”
Suy niệm:
Theo các nhà chú giải, sách Tin Mừng Marcô kết thúc ở chương
16, câu 8,
với việc các phụ nữ sợ hãi, chạy
trốn, không dám nói gì với các môn đệ.
Sách này cũng không nói đến việc Đức
Giêsu phục sinh hiện ra gặp các ông.
Kết thúc khác thường này của Marcô
làm chúng ta ngày nay chưng hửng.
Cả các Kitô hữu thế kỷ thứ hai cũng
bị ngỡ ngàng,
vì vào thời đó họ đã có trong tay
các sách Tin Mừng khác.
Các sách này đều kể chuyện các phụ
nữ đã đi gặp các môn đệ,
chuyện Đức Giêsu phục sinh hiện ra
gặp các bà trước tiên;
rồi sau đó, Ngài đã hiện ra với các
môn đệ
và sai các ông đi loan báo Tin Mừng
(Mt 28,19-20; Lc 24, 46-48; Ga 20, 21).
Để giải quyết khó khăn do phần kết của sách Tin Mừng Marcô
đặt ra,
một tác giả được ơn linh hứng đã
viết thêm phần phụ lục (Mc 16, 9-20),
dựa trên các sách Tin Mừng khác và
sách Công vụ Tông đồ.
Năm 1546, phần này đã được Công đồng
Trentô nhìn nhận là Lời Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến thái độ không tin của các
môn đệ.
Đức Giêsu phục sinh hiện ra trước
tiên cho bà Maria Mácđala.
Bà đi báo tin Thầy sống lại cho
những môn đệ đang buồn bã khóc lóc,
nhưng họ không tin (cc. 9-11).
Lần thứ hai, Đức Giêsu tỏ mình cho
hai môn đệ khi họ trên đường về quê.
Khi hai ông này báo tin cho những
môn đệ khác, thì họ cũng không tin (cc. 12-13).
Lần thứ ba, Đức Giêsu đích thân tỏ
mình cho nhóm Mười Một.
Ngài khiển trách họ về tội không tin
những kẻ đã thấy Ngài phục sinh (c. 14).
Xem ra tin Thầy Giêsu phục sinh không phải là chuyện dễ,
ngay cả đối với các môn đệ,
dù họ đã được nghe Thầy báo trước
nhiều lần khi còn sống bên Thầy,
dù có những người trong nhóm làm
chứng mình đã thấy Thầy sống lại.
Ở lại trong nỗi thất vọng, buồn
phiền thì dễ hơn sống lạc quan vui tươi.
Các môn đệ không ra khỏi được nỗi
đau do cái chết của Thầy.
Có những nỗi đau làm con người khép
kín và khoanh tay bất động.
Nhưng Đức Giêsu phục sinh vẫn không
bỏ rơi các học trò cứng cỏi của mình.
Ngài kiên trì chinh phục họ bằng
cách đến với họ và dùng bữa.
Ngài đưa họ ra khỏi thế giới nhỏ bé
của họ và giao cho họ một sứ mạng lớn lao.
“Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ,
loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (c. 15).
Tin Đức Giêsu phục sinh cũng không dễ đối với chúng ta hôm
nay.
Nếu thực sự tin vào sự phục sinh ở
đời sau, chắc chúng ta sẽ sống khác.
Thanh thoát hơn, nhẹ nhàng hơn,
quảng đại hơn, vui tươi hơn...
Nhiều khi chúng ta vẫn loan báo Tin
Mừng với vẻ mặt buồn bã,
vẫn nói về đời sau mà lòng còn quá
nặng với vinh hoa đời này.
Chỉ mong chúng ta được thực sự phục
sinh như Thầy Giêsu,
để làm tròn sứ mạng Thầy trao phó.
Cầu
nguyện:
Lạy
Chúa phục sinh,
vì
Chúa đã phục sinh
nên
con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con được tự do bay cao,
không
bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,
sợ
thất bại, sợ khổ đau,
sợ
nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh
nên
con hiểu cái liều của người kitô hữu
là
cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái
liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái
liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái
liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời
gọi
mang
một sức thu hút mãnh liệt
khiến
con đổi cái nhìn về cuộc đời:
nhìn
tất cả từ trên cao
để
nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự Phục Sinh của Chúa
giúp
con dám sống tận tình hơn
với
Chúa và với mọi người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng
lại được tất cả.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.