Ủy ban Giáo dân trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam

Ban Nghiên Huấn

THƯỜNG HUẤN GIÁO DÂN THÁNG 11/2025

BÀI I: CÙNG ĐỨC MARIA LÊN ĐƯỜNG LOAN BÁO TIN MỪNG

BÀI II: LINH HOẠT HÓA PHỤNG VỤ ĐỂ TRỞ THÀNH TRUNG TÂM SỐNG ĐỘNG CỦA VIỆC LOAN BÁO TIN MỪNG

BÀI III: ĐỘNG LỰC LOAN BÁO TIN MỪNG: NIỀM VUI TRONG VIỆC CHIA SẺ TIN MỪNG

BÀI IV: THÍCH NGHI TRONG MÔI TRƯỜNG ĐA VĂN HOÁ: LINH HOẠT VÀ THÍCH NGHI


BÀI I: CÙNG ĐỨC MARIA LÊN ĐƯỜNG LOAN BÁO TIN MỪNG

Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng

Người ta không thể cho cái gì mình không có, cho nên muốn rao giảng Lời Chúa đòi buộc mọi người môn đệ Đức Kitô phải có cuộc sống đậm chất Lời Chúa. Kinh thánh chính là nguồn mạch của việc loan báo Tin mừng. Chiêm ngắm Đức Mẹ Maria, chúng ta sẽ khám phá ra Đức Mẹ chính là mẫu gương Loan báo Tin mừng. Đức Maria là người chép Tin mừng đầu tiên, quảng bá Tin mừng, và khai mở những hành trình loan báo Tin mừng. Điểm đặc biệt cần chú ý nơi Đức Maria trong Tin mừng đó là hình ảnh của một người có Tin mừng, nghĩa là con người của niềm vui, biết đón nhận và trao ban niềm vui của Chúa.

I. Đc Maria, con người của niềm vui

Khi nói đến Đức Maria, chúng ta thường nghĩ đến khuôn mặt đau khổ của Đức Mẹ Sầu Bi, bảy sự Thương khó của Đức Bà, Một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn bà … Từ đó, hình thành nên một lối suy gẫm cường điệu hóa về những đau khổ Đức Maria phải gánh chịu. Có đau khổ nào trên thế gian này mà Mẹ đã không trải qua … Mẹ đã đau khổ rất nhiều, nên mẹ hiểu và thông cảm những khổ đau của nhân loại … Đành rằng Mẹ có đau khổ nhưng Mẹ đã can đảm đón nhận đau khổ và vượt qua những đau khổ. Điều đó cho thấy ẩn sâu nơi Mẹ là một niềm tin mạnh mẽ, một niềm lạc quan vui sống mới có thể làm cho Mẹ chịu đựng được như thế. Tin mừng đã minh chứng điều đó khi Đức Mẹ thốt lên bài ca Magnificat (Lc 1, 46 - 55) hàng loạt những từng chữ: hân hoan, nhảy mừng, hoan hỉ, chúc phúc… làm trổi lên một niềm vui, một bầu khí hoan lạc giữa mọi người.

Cuộc đời Kitô hữu là cuộc đời vác thập giá theo Chúa. Đã là thập giá thì chắc chắn là khổ đau. Nếu không có niềm vui và niềm tin thì chắc chắn không vác nổi đâu. Trước khi vác thì phải chạy đến Chúa đón nhận sức mạnh mới vác được. Đức Maria, các Tông đồ và các Thánh Tử đạo là những tấm gương cho chúng ta thấy phải tìm niềm vui trong Chúa là chính, đó mới là sức mạnh thật sự để vác thập giá giữa đời thường. Đức Maria biết chồng hiểu lầm mà vẫn nhẫn nại chịu đựng. Có thể mang tiếng xấu mà vẫn vội vã lên đường thăm viếng, giúp đỡ người thân. Các Thánh Tử đạo biết là chết mà vẫn cam đảm vui nhận, ra pháp trường mà vẫn vang lời ca hát. Phải cùng với Mẹ trở nên con người của niềm vui.

II. Cùng Đc Maria tìm kiếm niềm vui trong Chúa

Đức Maria là con người của niềm vui. Niềm vui trong Chúa là niềm vui nội tâm: Linh hn tôi nhy mng trong Thiên Chúa, Đng cu độ tôi. Chỉ nghĩ về Chúa thôi Mẹ đã nhảy mừng, đã hân hoan và tràn đầy niềm sung sướng hạnh phúc. Chứng tỏ Mẹ là con người sống nội tâm luôn đi tìm và thực thi ý Chúa. Người có đời sống nội tâm không phải là người suy nghĩ nhiều, nghĩ vẩn vơ lung tung mà là người luôn thao thức tìm hiểu ý Chúa, luôn gắn bó và tìm được niềm vui, sự bình an trong Thiên Chúa. Càng tìm thấy niềm vui nơi Thiên Chúa giữa những sóng gió khổ đau của cuộc đời, càng là người có đời sống nội tâm sâu sắc.

Ai chẳng sợ khổ, có ai muốn chuốc hoạ vào thân đâu. Cho nên, ngày nay người ta thích đi tìm kiếm niềm vui lắm nhưng là niềm vui xác thịt, những thú vui trần thế giả tạo đầy nguy hại. Người ta thích tìm sự an nhàn và sự bảo đảm nơi tiền tài, danh vọng, quyền lực trần thế. Noi gương bắt chước Đức Maria luôn đi tìm kiếm niềm vui trong Chúa. Gắn bó với Thiên Chúa, tin tưởng vào Thiên Chúa, phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa bằng cầu nguyện nhất là bằng việc sống và thực thi Lời Chúa. Đức Maria đã mau mắn vâng theo Ý Chúa dù biết rằng theo Chúa sẽ là khó khăn thậm chí nguy hiểm đến tính mạng, nhưng hoàn toàn tín thác để rồi đã có được niềm vui và sự bình an trong Chúa, nhờ đó, can đảm lên đường.

III. Cùng Đc Maria lên đưng trao ban nim vui

Mang lại niềm vui cứu độ cho gia đình Giacaria, cho Gioan Tẩy Giả. Thực chất là mang Chúa đến. Đức Maria chào mừng, thì bà Isave được tràn đầy hoan lạc, thốt lên lời hân hoan được Mẹ Chúa đến viếng thăm và hài nhi trong lòng cũng đã nhảy mừng lên. Kitô hữu cũng được mời gọi trao ban niềm vui cho mọi người, một niềm vui của chính Thiên Chúa. Loan báo Tin mừng không đơn giản là nói lời Chúa mà nói bằng chính cuộc sống của mình. Tin mừng hãy hiểu đơn giảm là tin vui, làm niềm vui. Đó chính là nội dung sứ điệp Tin mừng. Thánh Phaolô mời gọi anh em hãy vui lên vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta, giờ cứu rỗi đã đến rồi.

Loan báo Tin mừng mà chỉ mang lại cho người khác khổ đau phiền não thì chắc chắn không phải là Tin mừng. Nhưng khi đến với người khác mang lại cho họ sự bình an, sự cảm thông và an ủi thì đích thực đó là loan báo Tin mừng. Ngày nay xem ra người ta thích làm khổ nhau lắm. Vợ chồng làm khổ nhau, con cái làm khổ cha mẹ, hàng xóm bất hoà; chiến tranh khắp nơi … chúng ta khao khát niềm vui, mong chờ nụ cười lắm. Hãy trao ban cho nhau với tất cả con tim thiện chí của mình. Đời vốn dĩ là bể khổ rồi hãy cùng với Đức Maria, cùng với nhau trong Thiên Chúa làm vơi đi những khổ đau sầu lụy ấy.

Đức Maria đã trở thành người truyền giáo đầu tiên, bởi lẽ Mẹ đã trực tiếp mang Chúa Giêsu đến cho thế giới qua việc sinh ra và nuôi dưỡng Người. Đức Mẹ đã đón nhận Chúa Giêsu nhập thể vào cuộc đời mình, Chúa Giêsu hiện diện trong Mẹ, và hơn nữa, trở thành máu thịt của Mẹ, trở thành một bào thai sống và lớn lên trong lòng Mẹ. Như vậy, trước hết và trên hết, những sứ giả Tin mừng của ngày hôm nay cần phải có một đức tin sống động, được xây dựng trên nền tảng là gặp gỡ Chúa Giêsu, một cuộc gặp gỡ đem lại hiệu quả là bản thân được biến đổi trở nên sứ giả của Chúa Giêsu trong lời nói và việc làm. Trở nên một con người của niềm vui Tin mừng như Đức Me.

* Hồi Tâm

1/ Trong đời sống Đức tin, anh chị em có nhận ra Tin mừng là chính Đức Kitô, nguồn vui đích thực của mình không?

2/ Anh chị em đã và đang tìm kiếm niềm vui nào trong cuộc sống? Có tìm kiếm niềm vui Tin mừng, niềm vui trong Chúa không?

3/ Loan báo Tin mừng đơn giản bằng việc mang lại niềm vui, bình an cho những người chung quanh. Anh chị em đã thực hiện ra sao?

-----------------


BÀI II: LINH HOẠT HÓA PHỤNG VỤ ĐỂ TRỞ THÀNH TRUNG TÂM SỐNG ĐỘNG CỦA VIỆC LOAN BÁO TIN MỪNG

Lm. Antôn Hà Văn Minh

Công đồng Vat.II đã minh định:“Phụng vụ là đỉnh cao mà mọi hoạt động của Giáo Hội hướng tới, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo Hội”(SC số 10), bởi Giáo hội là Cộng đoàn được qui tụ để lắng nghe Lời và cử hành Thánh Thể, và từ nguồn mạch này Giáo hội được thúc đẩy thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng.

Thật vậy việc Loan báo Tin mừng được khởi nguồn từ Phụng vụ, vì chính nơi Phụng vụ người tín hữu được tiếp cận với Thiên Chúa qua cuộc gặp gỡ, đối thoại cách thâm sâu và mật thiết với Thiên Chúa. Bởi nơi Phụng vụ, Thiên Chúa hiện diện cách sống động qua Người con chí ái: Đức Giê-su Kitô. Công đồng Vat.II đã minh quyết: “Chúa Giê-su vừa hiện diện cách vô cùng nhiệm lạ dưới hình bánh hình rượu trong bí tích Thánh Thể. Người hiện diện trong các bí tích nhờ quyền năng của Người … Người hiện diện trong lời của Người, vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Giáo Hội” (SC 7). Có thể nói chính nơi Phụng vụ, người tín hữu được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa qua việc lắng nghe Lời được công bố trong Phụng vụ, và được làm sáng tỏ qua lời giảng dạy. Đức Phanxicô đã khẳng quyết: “Việc rao giảng Lời Chúa trong phụng vụ, đặc biệt trong cuộc tụ họp Thánh Thể, không phải là thời gian suy niệm hay huấn giáo cho bằng một cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân của Người, một cuộc đối thoại trong đó các hành vi cứu độ vĩ đại được công bố và các đòi hỏi của giao ước được liên tục nhắc lại”[1], việc dưỡng nuôi đạt tới sự trọn hảo khi người tín hữu tiến tới sự hiệp thông Thánh Thể, vâng, qua Thánh Thể, người tín hữu được hiệp thông cách trọn vẹn với Chúa Giê-su để nhờ đó được trở nên đồng hình đồng dạng với Người.

Chính từ sự hiệp thông này, mỗi người Kitô hữu được thúc đẩy tiếp tục sứ vụ của Chúa Kitô là lên đường loan báo về Nước Trời. Thánh Augustinô đã cất tiếng: chúng ta hãy vui mừng và tạ ơn Chúa, không phải chỉ vì chúng ta trở thành Kitô hữu, nhưng còn vì chúng ta trở thành chính Chúa Kitô”[2] Điều này mang lại cho mỗi người tín hữu niềm xác tín, những gì Chúa Kitô mang trong mình thì chúng ta cũng mang lấy điều đó. Vì thế, có thể khẳng định, chúng ta sẽ không thể loan báo Tin mừng, nếu đời sống Kitô hữu không gắn chặt với việc cử hành Phụng vụ. “Khẳng định này sẽ đạt tới một cường độ mạnh mẽ nếu chúng ta nghĩ đến mầu nhiệm Thánh Thể. Thật vậy, chúng ta không thể chỉ giữ cho riêng mình tình yêu mà chúng ta cử hành trong Bí tích này. Tự bản chất, Bí tích này đòi được thông truyền cho mọi người. Điều mà thế giới cần chính là tình yêu Thiên Chúa, là gặp gỡ Đức Kitô và tin vào Người. Chính vì thế, Thánh Thể không chỉ là nguồn suối và chóp đỉnh đời sống của Hội thánh; Thánh Thể cũng là nguồn suối và chóp đỉnh sứ vụ của Hội thánh: ‘Một Hội thánh thật sự sống Thánh Thể là một Hội thánh truyền giáo’. Chính chúng ta có bổn phận phải nói cho anh chị em chúng ta với niềm xác tín: ‘Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi’(1Ga 1,3).”[3]

Khi nói đến công việc loan báo Tin mừng, Thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã nêu vấn đề: “Phải loan truyền Tin mừng theo những phương pháp nào cho có hiệu quả ?”[4]. Vì Phụng vụ là nguồn động lực của công việc loan báo Tin mừng, nên một trong những phương thế cần nói đến là Linh hoạt hóa Phụng vụ

1. Hiểu như thế nào về linh hoạt hóa Phụng vụ?

Sau khi Công đồng Vat.II ban hành hiến chế về Phụng vụ thánh, Công đồng có nói đến việc canh tân Phụng vụ để giúp cho đời sống Kitô hữu nơi các tín hữu ngày càng tăng triển … đồng thời cũng để phát huy những gì có thể đem lại sự hợp nhất cho tất cả những ai đã tin theo Chúa Kitô, và củng cố những gì hỗ trợ cho việc mời gọi mọi người vào lòng Giáo hội” (SC số1). Việc canh tân Phụng vụ không chỉ giúp người tín hữu tham gia tích cực vào việc cử hành Phụng vụ, mà còn hướng tới việc loan báo Tin mừng.

Linh hoạt hóa Phụng vụ là vận dụng những cách thế mà Giáo hội cho phép để Phụng vụ thực sự phù hợp với tâm thức của từng dân tộc, Công đồng nhấn mạnh: “Giáo hội không muốn áp đặt một dạng thức đồng loạt cứng nhắc, kể cả trong Phụng vụ, nhưng đúng hơn, Giáo hội muốn tôn trọng và phát huy những nét đẹp tinh thần, những tính cách đặc thù của mỗi dân tộc; trong tập tục của các dân tộc, bất cứ những gì không tuyệt đối gắn liền với những điều dị đoan và lầm lạc, đều được Giáo hội thẩm định với nhiều thiện cảm, và nếu có thể, vẫn được gìn giữ toàn vẹn và vững chắc, hơn nữa, đôi khi còn được đưa vào trong Phụng vụ, miễn sao hợp với những nguyên tắc của tinh thần phụng vụ đích thực và chân chính” (SC số 37). Đức Hồng y Ratzinger đã nhận định: Phụng vụ luôn mang trong mình dấu ấn của mọi thế hệ loài người thay đổi qua các thế kỷ, chịu ảnh hưởng của bối cảnh văn hóa xã hội. Cử hành Phụng vụ không đơn thuần diễn tả lại một biến cố trong quá khứ xa xưa, nhưng đó là một cuộc hiện tại hóa công trình cứu chuộc nhân loại của Chúa Kitô. Do đó, Phụng vụ không phải là một cái gì khô cứng, nhưng Phụng vụ luôn sống động trong quá trình lịch sử. Nhờ đó, ta có thể đưa vào những cái mới, đó cũng là bản chất của truyền thống Phụng vụ[5].

Trong ý hướng này, có nhiều đề xuất canh tân sao cho Phụng vụ thực sự có sức hấp dẫn, goi là linh hoạt hóa Phụng vụ. Linh hoạt hóa phụng vụ để Phụng vụ không phải là một “nghi lễ xa lạ”, mà là lời cầu nguyện của Dân Chúa cách sống động. Điều đó cũng có nghĩa là làm sao để việc cử hành bằng một ngôn ngữ gần gũi với văn hóa và tâm thức của tín hữu địa phương. Người ta nói đến việc hội nhập văn hóa, việc linh hoạt hoá này được gọi là hội nhập văn hóa. Huấn thị của Thánh bộ Phụng tự nhấn mạnh: “Phụng vụ của Giáo hội không được xa lạ với bất kỳ quốc gia, dân tộc hay cá nhân nào, đồng thời cũng phải vượt lên trên đặc thù của chủng tộc và quốc gia. Nó phải có khả năng diễn tả trong mọi nền văn hóa nhân loại, nhưng đồng thời phải giữ được căn tính của mình nhờ trung thành với truyền thống bắt nguồn từ Chúa.”[6] Vì thế việc hội nhập văn hóa trong phụng vụ là sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ, âm nhạc, nghệ thuật, phong tục… của từng dân tộc phải trung thành với bản chất và quy luật phụng vụ của Giáo hội nhằm diễn tả cách chân thực về mầu nhiệm Đức Kitô và đức tin Công giáo.

Tuy nhiên vì quá nhấn mạnh đến chiều kích hội nhập văn hóa, người ta đánh mất sự thánh thiêng của Phụng vụ, Hồng y Joseph Ratzinger đã nhận định: Trong khi canh tân, người ta đã vội vã và thiếu thận trọng khi đưa vào Phụng vụ những yếu tố không phù hợp với nguyên tắc của tinh thần Phụng vụ chân thực và chân chính. Ngài cho rằng “trong việc cải cách phụng vụ, có một khuynh hướng sai lầm tìm cách thực hành ‘hội nhập văn hóa’ của phụng vụ trong thế giới hiện đại …. Khi đó, về cơ bản, người ta không còn biết đến điều chính yếu của phụng vụ và các lễ phụng vụ”[7]. Vì thế Thánh Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích đã nhắc nhở: “Để chuẩn bị cho việc hội nhập phụng vụ, các Hội đồng Giám mục cần mời gọi những người am tường cả về truyền thống phụng vụ Nghi lễ Rôma lẫn việc thẩm định các giá trị văn hóa địa phương. Cần có những nghiên cứu sơ khởi về lịch sử, nhân học, chú giải và thần học. Nhưng các nghiên cứu này phải được xem xét dưới ánh sáng kinh nghiệm mục vụ của hàng giáo sĩ bản xứ, đặc biệt là những người sinh trưởng tại đất nước. Lời khuyên của những “người khôn ngoan” trong dân tộc, vốn có sự khôn ngoan nhân loại được soi sáng bởi Tin mừng, cũng rất quý giá. Hội nhập phụng vụ cần cố gắng đáp ứng các nhu cầu của văn hóa truyền thống, đồng thời lưu tâm đến nhu cầu của những người chịu ảnh hưởng của nền văn hóa đô thị và công nghiệp”[8].

2. Những thích nghi có thể thực hiện trong việc linh hoạt hóa Phụng vụ

nhằm hướng tới việc loan báo Tin mừng

Thánh Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích trong “HuấnThị Thứ Tư về Việc Áp Dụng Đúng Đắn Hiến Chế Công Đồng về Phụng Vụ 1994 ” đã đưa ra hướng dẫn:

- Ngôn ngữ là phương tiện truyền thông giữa con người. Do đó, ngôn ngữ luôn phải diễn tả, cùng với chân lý đức tin, vẻ cao cả và thánh thiêng của các mầu nhiệm đang được cử hành. “Vì vậy, cần cân nhắc kỹ lưỡng để xác định những yếu tố nào trong ngôn ngữ bản địa có thể được đưa vào cử hành phụng vụ cách thích đáng, và đặc biệt xem có nên hay không sử dụng những cách diễn đạt xuất phát từ các tôn giáo không Kitô giáo. Đồng thời, cũng quan trọng không kém là lưu ý đến các thể loại văn chương khác nhau trong phụng vụ: bản văn Kinh thánh, lời nguyện chủ sự, thánh vịnh, tung hô, điệp ca, đối đáp, thánh thi và kinh cầu” (số 39).

- Âm nhạc và ca hát, vốn diễn tả linh hồn của một dân tộc, giữ vị trí ưu tiên trong phụng vụ. Vì thế, cần cổ võ việc hát, trước hết là hát bản văn phụng vụ, để chính tiếng hát của tín hữu vang lên trong hành vi phụng vụ. Và nhất là quan tâm tới âm nhạc mang tính truyền thống dân tộc, những giai điệu đóng vai trò lớn trong đời sống tôn giáo và xã hội của họ. Vì thế, cần dành tầm quan trọng xứng hợp cho âm nhạc của họ và cho nó vị trí thích đáng, không chỉ để hình thành thái độ tôn giáo, mà còn để thích nghi việc thờ phượng với thiên tư bản địa( số 40). Thánh Bộ còn lưu ý thêm: Các hình thức, giai điệu và nhạc cụ có thể được dùng trong việc thờ phượng, miễn là chúng thích hợp, hoặc có thể làm cho thích hợp, cho việc thánh; và còn phải phù hợp với phẩm giá nơi thờ phượng, thực sự giúp nâng tâm hồn tín hữu (số 40).

- Phụng vụ là hành động, nên cử chỉtư thế đặc biệt quan trọng. Những cử chỉ và tư thế thuộc các nghi thức cốt yếu của các bí tích và cần thiết cho hiệu lực của chúng phải được giữ như đã được thẩm quyền tối cao của Giáo hội phê chuẩn hay ấn định: a) Cử chỉ và tư thế của linh mục chủ tế phải diễn tả chức năng đặc biệt của ngài: ngài chủ sự cộng đoàn trong con người của Đức Kitô, b) Cử chỉ và tư thế của cộng đoàn là dấu chỉ hiệp nhất, diễn tả sự tham dự tích cực và nuôi dưỡng tâm tình nội tâm của người tham dự. Mỗi nền văn hóa sẽ chọn những cử chỉ và tư thế thân thể diễn tả thái độ của con người trước mặt Thiên Chúa, ban cho chúng ý nghĩa Kitô giáo và trong một góc độ nào đó, các cử chỉ đó có liên hệ với cử chỉ và tư thế trong Kinh thánh. (số 41)

- Vỗ tay, đung đưa nhịp nhàng hoặc động tác vũ của cộng đoàn. Thánh Bộ cũng cho phép ở một số dân tộc, việc ca hát tự nhiên cố đi kèm với một số cử chỉ như vỗ tay, đung đưa và động tác vũ điệu với điều kiện chúng luôn là biểu hiện của lời cầu nguyện cộng đoàn chân thật thể hiện tính thờ lạy, ngợi khen, dâng hiến, khẩn nài, chứ không chỉ là một màn trình diễn (số 42).

- Nghệ thuật - Thánh Bộ khẳng định: Cử hành phụng vụ được làm phong phú nhờ sự hiện diện của nghệ thuật, vốn giúp tín hữu cử hành, gặp gỡ Thiên Chúa và cầu nguyện. Nghệ thuật trong Giáo hội - cộng đoàn của muôn dân muôn nước - cần được hưởng tự do diễn tả, miễn là làm tăng vẻ đẹp của công trình và nghi lễ phụng vụ, trao cho chúng sự tôn kính và danh dự xứng hợp. Các loại hình nghệ thuật ấy cũng phải thực sự có ý nghĩa trong đời sống và truyền thống của dân tộc (số 43).

3. Linh hoạt hóa Phụng vụ hướng tới việc loan báo Tin mừng trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay

Linh hoạt hóa Phụng vụ trong chiều kích hội nhập văn hóa không có nghĩa là biến Phụng vụ thành một hình thức với các nghi lễ, phẩm phục giống như các tôn giáo, tín ngưỡng có ảnh hưởng lớn tới văn hóa dân tộc Việt Nam, chẳng hạn Phật giáo, Khổng giáo. Thánh Bộ đã khuyến cáo: “Phụng vụ là biểu thức của đức tin và đời sống Kitô hữu, vì thế cần bảo đảm rằng hội nhập văn hóa phụng vụ không mang dấu vết của hòa đồng tôn giáo (syncretism), dù chỉ bề ngoài. Điều này xảy ra nếu nơi thờ phượng, đồ dùng và áo lễ, cử chỉ và tư thế khiến người ta hiểu như thể các nghi lễ có cùng ý nghĩa trong cử hành Kitô giáo như chúng đã có trước khi được rao giảng Tin mừng. Tệ hại hơn nữa là khi các bài đọc Kinh thánh và thánh ca hay các lời nguyện bị thay thế bằng các bản văn từ tôn giáo khác, cho dù các bản văn ấy có giá trị tôn giáo hay luân lý không thể phủ nhận.”[9]

Trong hoàn cảnh Việt Nam hôm nay, linh hoạt hóa Phụng vụ trước tiên hướng tới “tinh thần cộng đồng.” Người Việt coi trọng tính cộng đồng xã hội, tình làng nghĩa xóm, vì thế, Phụng vụ cần thể hiện rõ chiều kích cộng đoàn, để những người tham dự cảm thấy mình thuộc về một gia đình rộng lớn. Ngoài ra, linh hoạt hóa Phụng vụ để phá tan định kiến phụng vụ Công giáo là “nghi lễ xa lạ” hoặc “mang tính Tây phương.” Đây là cơ hội để Giáo hội giúp phụng vụ trở nên gần gũi hơn, qua ngôn ngữ, cử chỉ, âm nhạc:

- Ngôn ngữ phụng vụ rõ ràng, gần gũi: Lời kinh, lời nguyện, bài hát cần chú trọng đến sự dễ hiểu, đơn sơ, giúp người mới tham dự cũng có thể cảm nhận và hòa nhập.

- Âm nhạc và nghệ thuật: Phát huy các thể loại dân ca, nhạc ngũ cung, nhạc cụ truyền thống (đàn tranh, sáo, trống) trong phụng vụ, nhưng vẫn đặt trong khung mực Phụng vụ.

- Cử chỉ – biểu tượng: Sử dụng hình ảnh quen thuộc (cây tre, bông lúa, hoa sen) trong trang trí và diễn đạt Phụng vụ, để biểu lộ sự hội nhập văn hóa.

Ngoài ra, việc cử hành Phụng vụ còn thể hiện sự gần gũi với cộng đoàn Dân Chúa, tuy không tầm thường hóa Phụng vụ, nhưng cũng không biến Phụng vụ trở thành nhưng nghi lễ xơ cứng và xa lạ với tâm tình thờ phượng của dân tộc Việt, bởi “mọi dân tộc, dù nguyên sơ nhất, đều có một ngôn ngữ tôn giáo thích hợp để diễn tả lời cầu nguyện”[10]; tuy nhiên, chúng ta cũng đừng quên “ngôn ngữ phụng vụ có những đặc tính riêng: thấm đẫm Kinh thánh; một số từ Latinh thông dụng (như memoria, sacramentum) đã mang ý nghĩa đặc thù trong đức tin Kitô giáo”[11]

Truyền giáo thuộc về bản chất của Giáo hội, nhưng việc loan báo Tin mừng của Giáo hội không chỉ thực hiện bằng lời nhưng trên hết bằng chính đời sống chứng tá của mình, hay nói cách khác bằng chính cuộc sống của Đức Kitô, Đấng đã trở nên một với Giáo hội, Đấng mà Giáo hội làm cho hiện diện cách sống động qua cử việc cử hành Phụng vụ. Vì thế, việc loan báo Tin mừng không bắt đầu từ các hoạt động bên ngoài, nhưng trước tiên từ chính trung tâm là Phụng vụ. Khi phụng vụ được cử hành cách sống động, thấm đẫm tinh thần hội nhập văn hóa, thì đó không chỉ đơn giản nhằm nuôi dưỡng đời sống đức tin của người tín hữu, nhưng đó còn là nguồn mạch và động lực cho sứ vụ loan báo Tin mừng trong bối cảnh Việt Nam hôm nay.

Cho nên việc linh hoạt hóa Phụng vụ để trở thành trung tâm sống động của việc loan báo Tin mừng, đòi hỏi các linh mục phải ý thức sao cho bài giảng trong các buổi cử hành Phụng vụ phải trở thành “cầu nối” giữa phụng vụ và đời sống. Khi Lời Chúa được rao giảng sống động, gắn với thực tế xã hội, thì chính đó là loan báo Tin mừng. Đức Phanxicô đã nói: “Bài giảng không thể mang một hình thức giải trí giống như những bài giảng trên các phương tiện đại chúng, nhưng bài giảng phải ban sức sống và ý nghĩa cho cuộc cử hành”[12]. Các vị chủ chăn cần kiến tạo sao cho phụng vụ được diễn ra trong bầu không khí cộng đoàn, sự thân thiện, hiếu khách, để ai đến tham dự cũng cảm thấy mình được đón nhận. Ngoài ra, người tín hữu cần được hướng dẫn sống tinh thần Phụng vụ, tức mang Phụng vụ về với môi trường mình sống, có nghĩa là sau khi tham dự phụng vụ phải trở thành chứng nhân Tin mừng giữa dòng đời trần thế. Việc cử hành Phụng vụ không không chỉ đóng khung trong nhà thờ, nhưng phải lan tỏa ra trong gia đình, xã hội và môi trường sống, từ bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể đến việc phục vụ bác ái, từ lời kinh nguyện đến chứng tá hằng ngày.

----------------


BÀI III: ĐỘNG LỰC LOAN BÁO TIN MỪNG: NIỀM VUI TRONG VIỆC CHIA SẺ TIN MỪNG

FX. Nguyễn Thái

1. Niềm vui từ nguồn mạch Tin mừng

Tin mừng là trái tim của đời sống Kitô hữu, là lời loan báo cứu độ mà Đức Giêsu Kitô mang đến cho nhân loại. Nhưng Tin mừng không chỉ là một chân lý, mà là ngọn lửa sống động, khơi dậy niềm vui sâu thẳm trong tâm hồn. Niềm vui ấy chính là động lực thúc đẩy người Kitô hữu lên đường, không phải vì bổn phận khô khan, mà vì khao khát chia sẻ “niềm vui truyền loan” - niềm vui thánh thiêng, vượt xa mọi lạc thú trần gian. Khi sống trong Tin mừng, chúng ta không chỉ nghe, mà còn được biến đổi để trở thành chứng nhân của tình yêu và sự sống lại của Đức Kitô.

2. Chứng nhân - hành trình niềm vui lan tỏa

Tôi không thể xác định chính xác khi nào Tin mừng thấm sâu vào cuộc đời mình, nhưng tôi nhớ rõ khoảnh khắc tâm trí tôi bừng sáng sau những ngày tháng hăng say cầu nguyện, sống Lời Chúa và để Chúa ngự trị trong tâm hồn. Từ đó, tôi thay đổi cách sống, khao khát mang Chúa đến cho anh chị em xung quanh. Niềm vui ấy càng rực rỡ hơn khi tôi được chứng kiến một người, rồi cả một gia đình, mở lòng đón nhận Đức Kitô. Tâm hồn tôi như vỡ òa trong niềm hạnh phúc thánh thiện, và tôi nhận ra rằng chính Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong tôi, thúc đẩy tôi ra đi với ngọn lửa yêu mến.

Đối với tôi, loan báo Tin mừng không đòi hỏi nỗ lực gượng ép. Khi tôi kết hiệp với Chúa qua cầu nguyện và Thánh Thể, Ngài dẫn dắt tôi bằng Lời của Ngài, ban sức mạnh và gợi mở những cách thức để đến với tha nhân. Có những lúc, dù sức khỏe yếu kém, tôi cảm nhận sức mạnh thiêng liêng dạt dào đến nỗi phải kìm nén để giữ sức! Niềm vui của tôi không chỉ dừng lại ở sự bình an mà còn là niềm hy vọng được dự phần vào ơn cứu độ, được sống lại với Chúa trong ngày sau hết. Đặc biệt, niềm vui ấy bùng nổ khi chứng kiến những người từng xa lạ với đức tin nay trở thành những chứng nhân mới, tiếp tục lan tỏa Tin mừng đến với người khác. Đó là niềm vui của cộng đoàn đức tin, nơi tình yêu và bình an của Chúa trở nên sống động.

3. Niềm vui từ mầu nhiệm Phục sinh

Thánh Phaolô khẳng định: “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, rồi Ngài đã sống lại” (1Cr 15, 3-4). Mầu nhiệm Phục sinh là trung tâm của Tin mừng, là ngọn nguồn của niềm vui Kitô giáo. Phục sinh không chỉ là chiến thắng sự chết, mà còn mở ra con đường sống mới, thắp lên niềm hy vọng bất diệt. Niềm vui của người Kitô hữu không lệ thuộc vào hoàn cảnh trần thế, nhưng phát xuất từ sự hiện diện của Đấng Phục sinh - Đấng đã đổi mới cuộc đời chúng ta, mạc khải Thiên Chúa là Tình Yêu.

Loan báo Tin mừng, vì thế, không chỉ là truyền đạt một giáo lý, mà là mời gọi mọi người bước vào niềm vui Phục sinh. Đó là sứ vụ chia sẻ niềm hạnh phúc được làm con cái Thiên Chúa, được sống trong ánh sáng của Đức Kitô - Đấng là Tin mừng sống động, biến đổi mọi tâm hồn.

4. Niềm vui trong hành trình chia sẻ Tin mừng

Chúa Giêsu nói: “Trên trời, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15, 7). Trong hành trình tông đồ, không gì sánh bằng niềm vui khi chứng kiến một tâm hồn được biến đổi bởi Tin mừng. Mỗi lần nhìn thấy ánh mắt bừng sáng của một người mới đón nhận Chúa, đức tin và lòng nhiệt thành trong tôi lại được củng cố. Thánh Phaolô cũng chia sẻ: “Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em” (Cl 1, 24). Ngay cả trong khó khăn, việc làm chứng cho Tin mừng vẫn là nguồn vui nội tâm vững bền, làm sống động tinh thần bác ái và hiệp nhất trong cộng đoàn đức tin.

5. Tin mừng: Món quà sống động, biến đổi thế giới

Niềm vui truyền loan Tin mừng không là cảm xúc thoáng qua, mà là sức sống phát xuất từ mầu nhiệm Phục sinh, từ tình yêu Thiên Chúa và sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần. Đây là động lực mạnh mẽ, thúc đẩy người Kitô hữu sống chứng nhân chân thực, làm cho Tin mừng không chỉ là câu chuyện của quá khứ, mà là mạch sống mới cho mọi thế hệ. Khi Tin mừng được loan báo với niềm vui, nó trở thành món quà sống động, có sức lan tỏa, biến đổi con người và xã hội, mang lại bình an và hạnh phúc đích thực.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trái tim bừng cháy tình yêu và niềm vui của Tin mừng. Xin ban Chúa Thánh Thần để Ngài dẫn dắt con trên hành trình loan báo ơn cứu độ. Dù gặp thử thách, xin giúp con luôn bền vững trong niềm hy vọng, để qua đời sống chứng nhân, con có thể dẫn đưa nhiều tâm hồn đến với Chúa, cùng nhau tận hưởng niềm vui Phục sinh vĩnh cửu. Amen.

* Hồi tâm

1/ Làm thế nào để niềm vui Tin mừng thắp sáng trái tim bạn, thúc đẩy bạn chia sẻ Đức Kitô với tha nhân?

2/ Bạn có để Chúa Thánh Thần dẫn dắt bạn trong sứ vụ loan báo Tin mừng, và làm sao để duy trì ngọn lửa nhiệt thành ấy mỗi ngày?

--------------------


BÀI IV: THÍCH NGHI TRONG MÔI TRƯỜNG ĐA VĂN HOÁ: LINH HOẠT VÀ THÍCH NGHI

Lm. Giuse Nguyễn Ngọc Ngoạn

Được Thiên Chúa sai đến với muôn dân để nên “Bí tích Cứu độ phổ quát, đồng thời vì những đòi hỏi căn bản của đặc tính Công giáo và vì mệnh lệnh của Đấng Sáng Lập (x. Mc 16,16), Hội thánh dành mọi nỗ lực để loan báo Tin mừng cho tất cả mọi người” (Sắc lệnh Truyền giáo, số 1). Cùng với Hội thánh toàn cầu là “Người hành hương trên đường hy vọng”, người tín hữu trong một Cộng đoàn địa phương được mời gọi để “Cùng nhau loan báo Tin mừng” cho tha nhân.

Khi đến với tha nhân, ta cần phải nhận thức được rằng công cuộc loan báo Tin mừng vẫn còn rất bao la. Nhiều người chưa từng được nghe hay chỉ vừa mới nhận được sứ điệp Tin mừng. Nhiều người sống trong những môi trường văn hóa khác biệt với ta. Để có thể trình bày Tin mừng của Chúa cho mọi người, ta cần phải noi gương Chúa Kitô, Đấng khi nhập thế đã nhập thể để hoà mình vào những hoàn cảnh nhất định về xã hội và văn hóa của những cộng đồng mà Ngài cùng chung sống. Ta cần phải linh hoạt và thích nghi vào trong một môi trường đa văn hóa của thế giới ngày hôm nay.

Môi trường đa văn hóa là môi trường tồn tại nhiều nền văn hóa khác nhau tại cùng một không gian và cùng một thời gian, là môi trường sinh sống làm việc bao gồm nhiều người đến từ các nền văn hóa, quốc gia, tôn giáo và phong tục khác nhau. Việc toàn cầu hóa, di dân, công việc đa quốc gia… đã tạo nên một xã hội ngày càng đa dạng văn hóa. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc linh hoạt và thích nghi trong môi trường đa văn hóa không chỉ là một lợi thế mà còn là một kỹ năng thiết yếu đối với mỗi người và với Cộng đoàn.

Để có thể thích nghi trong môi trường đa văn hóa, ta cần phải ý thức và hiểu biết về sự khác biệt nơi mỗi con người. Mỗi người đều chịu ảnh hưởng với các nền văn hóa khác nhau, bao gồm phong tục tập quán địa dư tôn giáo… khác nhau. Mỗi người có những sự khác biệt trong tâm trí suy tưởng, trong những hành vi với chính bản thân cũng như cách hành xử với người khác. Biết được điều này, ta mới có thể hội nhập vào trong môi trường mình đang sống, biết cảm thông, tôn trọng và yêu thương đối với những người khác.

Để có thể linh hoạt trong môi trường đa văn hóa nơi ta được sai đi và đang sống, ta cần phải có một đời sống cởi mở, cởi mở với Chúa, với chính mình và với tha nhân. Ta cần phải chấp nhận sự khác biệt của nhau, không phán xét hay đánh giá thấp những giá trị, những ý kiến quan điểm khác với của mình. Ta cũng cần khiêm tốn để học hỏi những điều mới mình chưa biết và tìm hiểu lý do đằng sau những hành vi khác biệt của tha nhân. Ta cố gắng đồng cảm, đặt vị trí của mình vào người khác để hiểu được những quan điểm và hành động của họ.

Đối với chính bản thân, ta cần phải học hỏi để hiểu biết về chính mình. Đây là điều khó khăn và cũng là điều quan trọng, biết mình để yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân hơn. Biết mình để kiểm soát bản thân mình, nhận biết và quản lý được tâm tư ý tưởng cảm xúc của chính mình khi đối mặt với những tình cảnh trạng thái bất ngờ hay khó hiểu, đồng thời thấu hiểu và tôn trọng cảm xúc của người khác.

Muốn có được khả năng thích ứng, ta cần phải điều chỉnh hành vi của chính mình. Phải linh hoạt dùng nhiều phương cách giao tiếp, thay đổi cách làm việc cho phù hợp với môi trường mới, đổi mới tư duy để tìm ra cách giải quyết những vấn đề nan giải, tìm ra cách thế hiệu quả để vượt qua những mâu thuẫn bất đồng hiểu lầm của nhau.

Trong môi trường đa văn hóa, ta cần phải xây dựng nên những mối quan hệ tốt đẹp với nhau. Chúng ta chủ động tạo kết nối, kết bạn và giao tiếp với tất cả mọi người. “Tứ hải giai huynh đệ.” Hãy nhớ rằng tất cả mọi người đều là anh chị em với nhau con cùng một Cha là Thiên Chúa Tình Yêu (x. 1Ga 4, 8). Chúng ta luôn mang tâm thái học hỏi và lắng nghe nơi tha nhân, có những lời nói hành động bằng ngôn ngữ yêu thương.

Để có thể sống linh hoạt và thích nghi hơn trong những môi trường đa văn hóa, ta cũng cần tìm những người có kinh nghiệm để học hỏi tiếp thu, tham gia tích cực trong các buổi thường huấn của Hội thánh, siêng năng tìm hiểu và thực hành theo huấn quyền của Hội thánh.

Khi biết thích ứng và linh hoạt trong một môi trường đa văn hóa, ta đã là trưởng thành nhân cách và được phát triển bản thân. Ta được mở rộng tầm nhìn, trở nên hiền lành, bao dung, thấu cảm với người khác. Ta làm việc hiệu quả và thành công trong công việc, đóng góp tích cực vào trong sự phát triển của Cộng đoàn. Ta có thể sống hòa đồng với tất cả mọi người, sống yêu thương và hạnh phúc ngay nơi môi trường sống trong phút giây hiện tại.

“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).

Tự bản chất, Hội thánh lữ hành là người được sai đi, là “Người hành hương trên đường hy vọng.” Hội thánh luôn tiến về phía trước với niềm hy vọng lớn lao, hy vọng tất cả mọi người được liên kết với nhau thành một đoàn dân duy nhất là Dân Riêng của Thiên Chúa, và con dân Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi sẽ được quy tụ về một mối (x. Ga 11,52). Tham gia vào sứ mạng của Hội thánh, ta được sai đi đến với mọi người ở khắp mọi nơi để loan báo Tin mừng của Chúa. Trong môi trường đa văn hóa hiện nay, ta phải liên kết với nhau bằng thái độ tôn trọng và yêu thương, nhận biết mình là một thành phần trong cộng đồng mình đang sống, biết tham gia vào đời sống văn hóa xã hội của con người, biết linh hoạt và thích nghi trong môi trường đa văn hóa ngày nay. Nhờ vào sự nỗ lực của bản thân và nhờ vào ơn Chúa, ta có thể phản chiếu ánh sáng Tin mừng của Chúa đến với mọi người, để mọi người có thể nhận biết Tình yêu thương của Thiên Chúa và biết sống yêu thương lẫn nhau.

* Hồi tâm:

1/ Tôi đã thật sự cởi mở để đón nhận sự khác biệt nơi những người xung quanh chưa? Hay tôi vẫn còn giữ thái độ phán xét, so sánh và tự cho văn hóa, cách sống của mình là “chuẩn mực” hơn người khác?

2/ Khi gặp những tình huống khác biệt về tư duy, phong tục, hay cách hành xử, tôi có biết lắng nghe, tìm hiểu lý do, và đặt mình vào vị trí của người khác để cảm thông không?

3/ Trong đời sống đức tin và sứ mạng loan báo Tin mừng, tôi đã nỗ lực thế nào để học hỏi, thích nghi và sống hài hòa trong môi trường đa văn hóa - để trở nên “dấu chỉ tình yêu và hiệp nhất” giữa lòng thế giới hôm nay?

 --------------

[1] Đức Phanxicô, Tông huấn niềm vui Tin mừng, số 137.

[2] Thánh Augustinô, trích từ Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 795.

[3] Đức Bênêđictô XVI, Tông huấn Sacramentum caritatis, ban hành ngày 27-02-2007, tai Rôma, số 84.

[4] Thánh Giáo hoàng Phaolô VI, Tông huấn Evangelii nuntiandi, ban hành ngày 8-12-1975 tại Roma, số 4.

[5] Joseph Ratzinger và Peter Seewald, Gott und die Welt: Glauben und Leben in unserer Zeit [Bản dịch tiếng Việt của Phạm Hồng Lam, Thiên Chúa và Trần Thế (tái bản II, Nhà xuất bản Tôn giáo, 2011)], trang 419.

[6] Thánh Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích Chỉ Thị Thứ Tư về Việc Áp Dụng Đúng Đắn Hiến Chế Công Đồng về Phụng Vụ (Varietates Legitimae: Inculturation and the Roman Liturgy), ban hành ngày 29-3-1994, số 18.

[7] Ratzinger, Joseph. Tinh thần Phụng vụ (nguyên bản: Der Geist der Liturgie), Nguyễn Luật Khoa O.F.M và Phạm Thị Huy dịch, Nhà xuất bản Tôn giáo, 2007. trang 217-218. 

[8] Thánh Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích Chỉ Thị Thứ Tư về Việc Áp Dụng Đúng Đắn Hiến Chế Công Đồng về Phụng Vụ, số 30.

[9] Nt, số 47.

[10] Nt số 53.

[11] Nt.

[12] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm vui Tin mừng, số 138.