Ủy ban Giáo dân trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam
Ban Nghiên Huấn
THƯỜNG HUẤN GIÁO DÂN THÁNG 03/2025
Chủ đề: Loan báo Tin Mừng, từ cộng đoàn đến vùng ngoại biên
BÀI I - LỜI CHÚA LÀ SỨC SỐNG CHO SỨ MẠNG LOAN BÁO TIN MỪNG (Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng) BÀI III - TÁC VIÊN TIN MỪNG: ĐI RA VÙNG NGOẠI BIÊN (PX. Nguyễn Thái) |
BÀI I - LỜI CHÚA LÀ SỨC SỐNG CHO SỨ MẠNG LOAN BÁO TIN MỪNG (Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
"Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành là truyền giáo” (Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad Gentes, số 2a) phải cất cao tiếng rao truyền cho thiên hạ nghe biết Tin mừng cứu độ. Nền tảng, trung tâm và chóp đỉnh của loan báo Tin mừng là “công bố rõ ràng rằng nơi Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chết và đã sống lại, ơn cứu rỗi đã được ban cho mọi người” (Đức Phaolô VI, Tông Huấn Loan Báo Phúc Âm, số 27). Thế nhưng làm sao để biết và rao giảng Đức Kitô, nếu người loan báo Tin mừng không chìm đắm trong Kinh Thánh – Lời Thiên Chúa. Vì “không biết Thánh Kinh là không biết Đức Kitô” (Thánh Giêrônimô). Do đó, trên hết và trước hết sứ mạng loan báo Tin mừng đòi buộc người môn đệ Đức Kitô phải là người sống Lời Chúa, là chứng nhân đã được Lời Chúa biến đổi và được chính sức mạnh của Lời Chúa thúc đẩy ra đi rao giảng.
1. Lời Chúa là nguồn sống: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Thật vậy, con người không thể sống mà không có cơm bánh nuôi sống phần xác, thì cũng vậy, không thể sống nếu thiếu ánh sáng và sức mạnh của Lời Thiên Chúa cho phần tâm linh. Công Đồng Vaticanô II , qua Hiến Chế Tín Lý về Mặc Khải của Thiên Chúa (Dei Verbum) đã cho thấy sức mạnh của Lời Chúa khi viết: “Lời Thiên Chúa, có năng lực lớn lao có thể nâng đỡ và ban sinh lực cho Giáo Hội, còn đối với con cái Giáo Hội thì thành sức mạnh cho đức tin, lương thực cho linh hồn, nguồn sống tinh tuyền và trường tồn cho đời sống thiêng liêng. Bởi thế, lời nói sau đây hoàn toàn đúng về Thánh Kinh: ‘Lời Thiên Chúa là Lời sống động và linh hoạt’ (Dt 4,12)” (Số 21). Công Đồng xem Thánh Kinh như nguồn lương thực phong phú cũng như Thánh Thể là nguồn lương thực cho các tín hữu. “Giáo Hội luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu. Cùng với Thánh Truyền, Thánh Kinh đã và đang được Giáo Hội xem như quy luật tối cao hướng dẫn đức tin. Bởi vậy, mọi lời giảng dạy trong Giáo Hội cũng như chính đạo thánh Chúa Kitô phải được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn”. Lời Chúa có năng lực lớn lao có thể nâng đỡ và ban sinh lực cho Giáo Hộ, cùng là sức mạnh cho đức tin, lương thực cho linh hồn, nguồn sống tinh tuyền và trường tồn cho đời sống thiêng liêng của các con cái Giáo Hội (Số 21).
2. Lời Chúa Có Sức Biến Đổi : Giáo hội sống nhờ sự năng động này: “được Chúa Kitô kêu gọi, được Người lôi kéo và được sai đi vào thế giới để làm chứng cho Ngài”. Tin mừng cho thấy khi Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên, các ông đã bỏ lưới đánh cá để theo Ngài (Mc 1, 16-20) từ Lời của Chúa “toả ra quyền năng của Chúa Thánh Thần, một năng quyền kéo con người đến với Thiên Chúa.” Một khi được lôi kéo, các môn đệ đến với Chúa Giêsu được biến đổi để từ những người chài lưới bắt cá trở thành người đi chinh phục người ta về với Chúa. Cũng thế Lời Chúa cũng sẽ lôi kéo chúng ta đến với Thiên Chúa và sau đó “gửi chúng ta đến người khác”, vì Lời làm cho trái tim và tâm trí của chúng ta mở rộng, mở ra những chân trời mới và thú vị của hy vọng và tình yêu mà chúng ta tự nhiên mong muốn chia sẻ với người khác. Lời Chúa Kitô giải thoát chúng ta khỏi những trở ngại trong quá khứ và hiện tại và làm cho chúng ta “trưởng thành trong sự thật và bác ái”, mang lại cho chúng ta cuộc sống và đổ đầy niềm hy vọng mới. trên bờ hồ cuộc sống của chúng ta, nơi chúng ta đang bận rộn với những “lưới” công việc hàng ngày của mình, cần lắng nghe lời mời gọi của Chúa để lên đường cùng Ngài như những nhà truyền giáo. Mỗi người một khi được Lời Chúa biến đổi thì sẽ trở nên năng động sáng tạo trong sứ vụ rao giảng của mình khi biết : Chủ động tìm kiếm cơ hội để rao giảng, để nói về Chúa mà không thụ động, ỉ lại. Được tràn đầy Thánh Thần để không ngừng tìm kiếm và xây dựng những cái mới, có những ý tưởng mới, tiên phong, độc đáo. Không ngừng phát triển nhân đức, dám nghĩ, dám làm, mạnh dạn thử sức. Luôn tìm cách thay đổi để bản thân ngày càng hoàn thiện hơn theo ánh sáng Lời Chúa.
3. Để Lời Chúa Làm Trọng Tâm Đời Sống : Người ta Không thể cho cái gì mình không có, cho nên muốn rao giảng Lời Chúa đòi buộc mọi người môn đệ Đức Kitô phải có cuộc sống đậm chất Lời Chúa. Kinh Thánh chính là nguồn mạch của việc loan báo Tin mừng. Do đó, chúng ta cần không ngừng được huấn luyện trong việc nghe lời Chúa. Giáo Hội không loan báo Tin mừng nếu chính mình không được nghe Tin mừng. Lời Chúa thiết yếu phải không ngừng được đặt một cách đầy đủ hơn vào tâm điểm của mọi hoạt động của Giáo Hội. Lời Chúa khi được lắng nghe và cử hành, trước hết trong Thánh Thể, sẽ nuôi dưỡng và kiện cường tâm hồn các Kitô hữu, giúp họ cống hiến một chứng tá đích thực cho Tin mừng trong đời sống hằng ngày (NVTM số 174). Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong THÔNG ĐIỆP REDEMPTORIS MISSIO (SỨ VỤ ĐẤNG CỨU THẾ) đã minh định : “Nhà truyền giáo phải là một “nhà chiêm niệm trong hoạt động”. Họ tìm thấy những giải đáp cho các vấn đề theo ánh sáng của lời Chúa, cũng như trong lời cầu nguyện chung riêng. Nhà truyền giáo nếu không phải là một người chiêm niệm thì họ không thể nào loan truyền Chúa Kitô một cách khả tín được. Họ là chứng nhân cho cảm nghiệm về Thiên Chúa, và họ phải nói được như các vị Tông Đồ: “những gì chúng tôi trông thấy... liên quan đến lời sự sống, ... thì chúng tôi cũng đem loan truyền cho anh em” (1Ga 1:1-3). (Số 91). Việc học hỏi Kinh Thánh phải là một cánh cửa rộng mở cho mọi tín hữu. Nhất thiết lời mặc khải phải triệt để làm cho việc dạy giáo lý và mọi cố gắng truyền thụ đức tin của chúng ta trở nên phong phú. Loan báo Tin mừng đòi hỏi sự thân mật với lời Chúa, nó kêu gọi các giáo phận, giáo xứ và các hiệp hội Công Giáo tổ chức các cuộc học hỏi nghiêm túc và thường xuyên về Kinh Thánh, đồng thời khuyến khích các cá nhân và cộng đoàn đọc Kinh Thánh với tâm tình cầu nguyện. Chúng ta không tìm kiếm Thiên Chúa một cách mò mẫm, hay chờ đợi Ngài nói với chúng ta trước, bởi vì “Thiên Chúa đã nói với chúng ta rồi, và không có gì chúng ta cần biết mà Ngài đã không mặc khải cho chúng ta”. Chúng ta hãy đón nhận kho tàng siêu vời này của lời mặc khải. (NVTM số 175).
Có một thực tế đáng buồn với Giáo Hội Việt Nam xem ra đang bội thực ơn Toàn Xá, béo phì ân sủng nhung lại suy dinh dưỡng Lời Chúa cho nên kết quả truyền giáo không được gì. Cần phải canh tân đời sống Đức tin với nền tảng là Lời Chúa.
Hồi tâm:
1) Lời Chúa có một vị trí như thế nào trong cuộc sống của anh chị em? Có siêng năng học hỏi, suy niệm, cầu nguyện với Lời Chúa và sống Lời Chúa không?
2) Anh chị em có kinh nghiệm đã được Lời Chúa biến đổi như thế nào?
3) Anh chị em có thấy minh được Lời Chúa thúc đẩy ra đi loan báo Tin mừng không?
--------
BÀI II - MỤC VỤ GIA ĐÌNH: LOAN BÁO TIN MỪNG QUA CÁC GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH KITÔ GIÁO (Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thường nói về một "cuộc truyền giáo mới" cho Thiên niên kỷ mới. Ngài đề cập đến nhiệm vụ khó khăn là tái truyền giáo cho các xã hội đang bị tục hóa mãnh liệt, một xã hội đang cố gắng chôn vùi niềm tin Kitô giáo đến nỗi có thể gọi xã hội hôm nay là xã hội thời "hậu Kitô giáo", như đang thống trị thế giới ngày nay. Vì thế việc loan báo Tin mừng đòi hỏi phải có sách lược mới, một trong những sách lược đó cần phải quan tâm, đó là môi trường truyền giáo của gia đình. Có thể nói việc loan báo Tin mừng không thể tách rời khỏi việc truyền giáo thông qua gia đình. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã minh định: “Cả đức tin và sứ mạng Tin mừng hóa của gia đình Kitô hữu cũng có cái hơi thở thừa sai công giáo như thế. Khi Bí tích Hôn phối lấy lại và nêu lên một lần nữa bổn phận đã ăn rễ từ trong Bí tích Rửa tội và Thêm sức là phải bảo vệ và truyền bá đức tin, Bí tích ấy biến đôi bạn và cha mẹ Kitô hữu thành chứng nhân của Đức Kitô ‘cho đến tận cùng trái đất’, thành những vị ‘thừa sai’ đích thực của tình yêu và sự sống”[1]. Quả thật, gia đình là chủ thể, là nơi tiếp nhận Tin mừng, cũng như là tác nhân để công bố và truyền bá Tin mừng.
1. Gia đình truyền giáo qua đức tin của cha mẹ
Gia đình là cộng đồng đức tin nhỏ nhất, “giáo hội tại gia”. Công đồng Vatican II Gia đình là tế bào sống cơ bản của xã hội là Dân Chúa, Giáo hội, cũng như luôn là tế bào sống cơ bản của xã hội loài người, một nguyên tắc của học thuyết xã hội Công giáo dựa trên trật tự tự nhiên và luật tự nhiên[2]. Trong giáo hội nhỏ này, đức tin được truyền trực tiếp, thông qua lời nói và gương mẫu, và gián tiếp, thông qua tất cả những điều nhỏ nhặt tạo nên đời sống gia đình Kitô giáo.
Đức tin của gia đình bắt đầu từ sự đồng ý Bí tích Hôn nhân. Như Đức Thánh Cha đã nói: “Việc cử hành Bí tích Hôn nhân là khoảnh khắc cơ bản của đức tin của cặp đôi. Bí tích này, về bản chất, là lời công bố trong Giáo hội về Tin mừng liên quan đến tình yêu hôn nhân, gia đình liên tục cần phải tự truyền giáo, để khám phá tiềm năng của mình, “năng lượng to lớn” của mình”[3]. Do đó, gia đình là chủ thể của việc truyền giáo. Trước tiên, gia đình được kêu gọi trở thành một gia đình tin tưởng vì chỉ khi đó, gia đình mới có thể là một tác nhân, một cộng đồng truyền giáo, như Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II giải thích: “Giây phút quyết liệt mà đôi bạn trong tư cách là đôi bạn bày tỏ đức tin là lúc họ cử hành Bí tích Hôn nhân; do bản chất sâu xa của nó, việc cử hành này là một sự công bố trong Hội thánh về Tin mừng của tình yêu hôn nhân: nó là Lời Chúa ‘mặc khải’ và ‘hoàn tất’ dự phóng đầy khôn ngoan và yêu thương mà Thiên Chúa đã có đối với đôi bạn khi dẫn họ tới chỗ tham dự một cách nhiệm mầu nhưng thực sự vào chính tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Nếu việc cử hành Bí tích Hôn nhân tự nó là việc công bố Lời Chúa, thì tất cả những người đang chủ động và cử hành bí tích ấy, với những danh hiệu khác nhau, đều phải biến đó thành một việc ‘tuyên xưng đức tin’ trong lòng Hội thánh và cùng với Hội thánh, tức là cộng đồng các tín hữu. Việc tuyên xưng đức tin này đòi hỏi phải được kéo dài suốt cuộc đời của đôi bạn và gia đình”[4], từ đó thánh Giáo hoàng minh định: “Gia đình, giống như Giáo hội, phải là nơi mà Tin mừng được truyền tải và từ đó Tin mừng tỏa sáng”[5].
Về phần cha mẹ phải là những người tiên phong dấn thân trong việc chuyển giao đức tin bằng một sự nhận thức về đức tin cách sâu xa và luôn thắp sáng ngọn lửa đức tin qua việc cầu nguyện và đón nhận Bí tích Giao hòa và Thánh Thể, và đồng hành với con cái. Kinh nghiệm hàng ngàn năm của Giáo hội chứng minh rằng, hình thức đạo đức trong gia đình và nơi quần chúng đã mang lại những kết quả phong phú của đời sống Kitô hữu. Từ kinh nghiệm này và dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, Giáo hội tin rằng, lòng đạo đức này có thể mãi luôn mang lại một sự đóng góp lớn lao cho việc thể hiện đức tin hội nhập văn hóa đích thật phù hợp với sự đa dạng của các dân tộc và các đại lục.
Giáo hội luôn khẳng định: việc loan báo Tin mừng trước tiên chính là chuyển giao đức tin và giáo dục đức tin cho con cái, “những bậc làm cha mẹ, những kẻ tham dự vào tình phụ tử của Thiên Chúa, là những kẻ đầu tiên chịu trách nhiệm giáo dục con cái và là những kẻ đầu tiên rao giảng đức tin cho con cái. Cha mẹ có bổn phận yêu thương và tôn trọng con cái như là những nhân vị và như là những con cái của Thiên Chúa. Ðặc biệt, các ngài có sứ mạng giáo dục chúng sống đức tin Kitô”[6] . Việc chuyển giao đức tin không chỉ đơn thuần là xin con cái được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, nhưng còn trao ban cho con cái mẫu gương sống đạo của người mẹ. Người mẹ định hình đời sống đức tin cho con cái qua đời sống đức tin của chính mình. Vì vậy, người mẹ luôn nỗ lực tự hoàn thiện chính mình để thực sự trở thành khuôn mẫu hoàn hảo nắn đúc đời sống đạo đức cho con cái. Trên hết mọi sự, người mẹ phải là người mang lại nụ cười hạnh phúc trong gia đình. Đời sống đức tin không chỉ đóng khung trong những thói quen đạo đức như đọc kinh đi lễ, nhưng đức tin cần phải là nguồn mạch tuôn chảy niềm vui trong gia đình. Vì vậy, trong việc sống đức tin, người mẹ cần vượt thắng những khó khăn trong đời để nụ cười luôn nở trên môi. Đối diện với những âu lo buồn bực trên khuôn mặt người mẹ vẫn thể hiện nét tươi sáng. Nụ cười của người mẹ là nụ cười của sự tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa. Đó là bài học đầu tiên cho con cái về đức tin. “Nếu con cái nhìn thấy rằng cha mẹ của mình - và cách chung những người lớn xung quanh - sống cuộc đời cách vui tươi và hăng say, cả khi gặp những khó khăn, thì con cái sẽ dễ dàng tăng triển niềm vui sống sâu xa; và niềm vui sống này sẽ giúp cho con cái thành công vượt qua được những trở ngại có thể và vượt qua được những nghịch cảnh của đời sống con người”[7].
2. Gia đình truyền giáo qua việc chiếu tỏa điều răn thứ tư: Thảo kính cha mẹ
Gia đình được ví là cái nôi, trường học đầu tiên giáo dục đạo đức và nhân cách cho mỗi thành viên của gia đình. Trong gia đình, bài học con cái được hấp thụ trước tiên chính là lòng thảo hiếu đối với ông bà, cha mẹ. Đây không chỉ dừng lại trên phạm thuộc nếp sống nhân bản nhưng, truyền thống văn hóa Việt đã nâng một lối sống trở thành “đạo”, và được gọi là “Đạo hiếu”. Đạo hiếu là một trong những giá trị đạo đức tốt đẹp, sợi dây liên kết các thành viên trong gia đình, qua nhiều thế hệ. Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, Đạo hiếu đóng vai trò nền tảng của đời sống tinh thần, giữ vị trí quan trọng và quyết định quan hệ gia đình, quan hệ xã hội.
Đạo hiếu trong văn hóa truyền thống Việt đã được nâng lên trong một tầm vóc cao hơn dưới ánh sáng của Tin mừng. Đạo hiếu không chỉ dùng lại trong mối tương giao mang tính nhân bản, nhưng còn diễn tả mối tương giao giữa con người với Thiên Chúa, một mối tương giao được Thiên Chúa ban hành thành điều luật: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ ngươi”. Đây không chỉ điều luật để tuân giữ, nhưng điều răn này còn là lối đường dẫn tới Đức Kitô, qua Người chúng ta khám phá nguồn gốc sự sống mà chúng ta được đón nhận, điều mà Chúa Giêsu khẳng định: sự sống được trao ban bởi ơn trên (x. Ga 3,3-8). Quả thật, điều bí ẩn của đời sống chúng ta được soi sáng khi chúng ta khám phá ra rằng Thiên Chúa luôn chuẩn bị cho ta một cuộc đời làm con của Ngài, trong cuộc đời ấy, mỗi hành động của chúng ta là một sứ vụ lãnh nhận từ nơi Ngài.
Vì thế, đạo hiếu trong văn hóa truyền thống dân tộc Việt được mặc một chiếc áo mới lộng lẫy khi người Kitô hữu đưa vào thực thi trong đời sống của mình trong việc chu tất điều răn thứ tư: Ngươi hãy thảo kính cha mẹ người. Việc thảo kính cha mẹ không còn chỉ dừng lại ở bổn phận và trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ, nhưng đó còn là con đường kiến tạo hạnh phúc trong cuộc sống. Sách Huấn ca đã ca tụng về lòng thảo hiếu: “2 Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. 3 Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, 4 ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. 5 Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. 6 Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. 11 Quả thật, người ta chỉ được vẻ vang lúc cha mình được tôn kính; và con cái phải ô nhục khi mẹ mình bị khinh chê. 12 Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. 13 Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. 14 Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. 16 Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa” (Hc 3, 2-6.11-14.16).
Chu tất điều răn thứ tư: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ ngươi” cách chỉnh chu, là con đường kiến tạo các cuộc gặp gỡ với anh chị em lương dân cách thuận lợi, và làm cho anh chị em lương dân nhận ra vẻ đẹp của Đạo hiếu trong đời sống của các Kitô hữu.
Một hiểu lầm in đậm trong tâm não của lương dân: theo đạo Công giáo là bỏ ông bà cha mẹ, vì người Công giáo không cho cúng giỗ. Các gia đình Công giáo phải thực thi lòng thảo hiếu đối với tổ tiên ông bà trong các giỗ theo cách thế Giáo hội tại Việt Nam cho phép và khuyến khích cử hành để xóa bỏ sự hiểu lầm này. Cụ thể ngày 14/11/1974 tại Thành phố Nha Trang, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã ban hành quyết nghị về Lễ nghi tôn kính ông bà tổ tiên[8] và vào ngày 07/10/2019, Đức cha Chủ tịch Ủy ban Văn hóa trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt nam đã ký văn bản hướng dẫn việc kính nhớ tổ tiên theo văn hóa Việt Nam[9], theo đó Hội đồng Giám mục Việt nam khuyến khích mỗi gia đình Công giáo nên lập bàn thờ gia tiên để kính nhớ ông bà tổ tiên. Bàn thờ gia tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình. Trên bàn thờ có thể treo di ảnh ông bà hoặc họ hàng thân thuộc, nhưng không bày biện những gì có tính cách mê tín. Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ tổ tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm. Ngày giỗ cũng là ngày "kỵ nhật" được "cúng giỗ" trong gia đình theo phong tục địa phương miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín, như đốt vàng mã, và giảm thiểu cùng canh cải những lễ vật biểu dương đúng ý nghĩa thành kính biết ơn ông bà, như dâng hoa trái, hương đèn. Trong tang lễ được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng cung kính người đã khuất cũng như Giáo hội cho đốt nến, xông hương nghiêng mình trước thi hài người quá cố.
3. Gia đình truyền giáo qua tình yêu giữa các viên trong gia đình cách tín trung
Công đồng Vatican II đã khẳng định: Tình yêu hôn nhân “có đặc tính nhân linh cao cả vì từ một nhân vị hướng đến một nhân vị khác bằng một tình cảm tự ý, nên bao gồm hạnh phúc toàn diện của con người, do đó tình vợ chồng có thể đem lại một phẩm giá đặc biệt cho những biểu lộ của thể xác và tâm hồn, và khiến chúng trở nên cao quí như những yếu tố và dấu hiệu đặc thù của tình yêu đôi bạ” (GS số 49), chính “Chúa Kitô ban dồi dào ơn phúc cho tình yêu đa dạng ấy, một tình yêu phát xuất từ nguồn mạch tình yêu Thiên Chúa và được tác thành theo gương kết hợp giữa Chúa Kitô và Giáo hội” (GS số 48). Vì thế tình yêu trong hôn nhân và cuộc sống gia đình của người Kitô hữu biểu tỏ tình yêu Chúa Kitô, một tình yêu tự hiến chính mạng sống của mình cho người mình yêu. Có thể nói tình yêu hôn nhân gia đình là một tình yêu tự hiến mạnh mẽ, chỉ có thể thực hiện được nhờ ân sủng tái sinh của Thiên Chúa. Bất kỳ gia đình nào có tình yêu thương như vậy sẽ trở thành tác nhân của công cuộc truyền giáo sâu sắc hơn.
Khi các bậc cha mẹ trong gia đình đáp lại lời kêu gọi sống trọn hảo ân sủng của Bí tích Hôn phối bất kể phải trả giá như thế nào, thì đây quả thật là nguồn động lực và truyền cảm hứng để thúc đẩy con cái, cũng như bạn bè và gia đình của họ cũng thể hiện tình yêu như thế. Một gia đình sống trọn vẹn tình yêu mà Bí tích Hôn nhân đòi hỏi, họ biến gia đình của mình thành một ngôi lều lý tưởng để cho các thành viên bị tổn thương của những gia đình tan vỡ tìm đến và gặp được sự an ủi, sự nâng đỡ và bình yên, nơi những thiếu niên đang bị khủng hoảng nhìn thấy điều gì đó khác biệt, một cái nhìn mới, và tìm gặp một hy vọng. Vâng tình yêu hôn nhân được tỏ bày cách chỉnh chu theo đúng bản chất của Bí tích Hôn nhân sẽ là nguồn động lực thúc đẩy con người thời đại tìm đến gặp gỡ và đón nhận Tin mừng.
Nếu một gia đình lương dân gặp được một gia đình Kitô giáo mà trong đó tình yêu của người mẹ, tình yêu của người cha và tình yêu của những đứa con được thể hiện trong sự hài hòa, làm gia đình trở thành tổ ấm đích thật, chắc chắn gia đình lương dân đó đang tìm gặp một ánh sáng hy vọng trong một xã hội đang đánh mất dần vẻ đẹp của đời sống gia đình bởi lối sống ích kỷ, hưởng thụ và thiếu tinh thần trách nhiệm. Đó chính là kiểu mẫu gia đình Kitô giáo gợi hứng cho công việc loan báo Tin mừng. Đây là những ngôi nhà mà mọi người muốn nán lại.
Quả thật, tình yêu xua tan nỗi sợ hãi. Một gia đình tràn ngập yêu thương, gia đình đó là nơi chốn mà nhiều người muốn tìm đến, bởi tình yêu có thể vượt qua mọi cản trở để kiến tạo những cuộc gặp gỡ, đối thoại và nhờ đó dẫn đưa tới sự cảm thông, nảy sinh tình bằng hữu, đó là con đường gieo vãi hạt giống Tin mừng tốt nhất. Thật vậy, trong một xã hội, con người đang càng ngày càng bị cô lập bởi sự phát triển của nền công nghiệp, trạng thái cô đơn như đang nhấn chìm các mối tương giao của con người, cho nên hơn bao giờ hết người ta càng ngày càng có nhu cầu giao tiếp để đi ra khỏi nỗi cô đơn, chán nản và thất vọng. Một gia đình tràn ngập tiếng cười yêu thương, và hiếu khách thì quả thật nơi đó trở thành điểm gặp gỡ để loan báo về tinh thương yêu của Thiên Chúa.
Đức Thánh Cha Phanxicô trong “Diễn văn dành cho Hội nghị Thế giới về Tình huynh đệ Nhân loại “Không đơn độc”, ngày mùng 10/06/2023” đã yêu cầu các Kitô hữu và tất cả mọi người nam nữ thiện chí đừng làm ngơ trước tiếng kêu thấu đến Thiên Chúa từ thế giới này của chúng ta. Những bài phát biểu thôi thì chưa đủ; mà cần phải có “những hành vi cụ thể” và “những lựa chọn chung” nhằm xây dựng một nền văn hóa hòa bình nơi mỗi người chúng ta thấy mình đang sống: “Hòa giải với các thành viên trong gia đình, bạn bè và hàng xóm, cầu nguyện cho những người làm tổn thương chúng ta, nhận ra và giúp đỡ những người túng thiếu, nói những lời bình an ở trường học, đại học hoặc trong xã hội, “xức dầu” cho những người cảm thấy cô đơn bằng sự gần gũi của chúng ta”. Đây là con đường mà mọi người đều có thể đi, và Giáo hội không bao giờ mệt mỏi khuyến khích chúng ta dấn thân trên lộ trình này, và kiên cường thực hành đức tính nhân bản và Kitô cao cả này[10].
Tình yêu thúc đẩy và khuyến khích chúng ta thực thi công việc loan báo Tin mừng, tình yêu đó trước tiên phải được kín múc từ tinh yêu Chúa Giêsu. Đỉnh cao và nguồn gốc của tình yêu Chúa Giêsu là Bí tích Thánh Thể, do đó, sự tham gia trọn vẹn của gia đình vào Bí tích Thánh Thể là mục tiêu thiết thực của mọi công cuộc truyền giáo, bởi “các hành vi yêu thương tha nhân – với sự từ bỏ, quên mình, những đau khổ và cố gắng mà chúng đòi hỏi – chỉ có thể chân thực khi chúng được nuôi dưỡng bằng tình yêu của chính Chúa Kitô”[11]. Tình yêu này được ghi dấu ấn từ sự biến đổi khi chịu Phép Rửa tội, được củng cố bởi ấn tín của Chúa Thánh Thần trong Bí tích Thêm sức và Bí tích Sám hối. Các bí tích này thực sự tạo nên Giáo hội hiệp thông trong tình yêu và được trao ban qua Giáo hội. Tất cả chúng đều được cử hành trong cuộc sống Giáo hội tại gia tức gia đình đồng thời là nguồn ân sủng trong việc thi hành sứ vụ truyền giáo của cộng đồng giáo xứ và giáo phận.
Một yếu tố quan trọng mà các gia đình Kitô hữu cần phải quan tâm tuân giữ đó là: “Ngươi không được ngoại tình”. Đây cũng là yếu tố mang giá trị loan báo Tin mừng có hiệu quả đối với dân ngoại. Quả thật, đối với truyền thống văn hóa Việt nam, sự trung tín thủy chung trong tình yêu vợ chồng rất quan trọng, là nền tảng để giữ gìn hạnh phúc gia đình, từ đó con cái sẽ được sống trong một mái ấm tràn đầy yêu thương , và chính từ đó con cái sẽ được hấp thụ những giá trị đạo đức tốt đẹp, hiểu được vẻ đẹp của tình yêu và tinh thần trách nhiệm. Có thể nói sự trung tín trong tình yêu vợ chồng Kitô giáo không chỉ là điều luật nhưng đó là dấu hiệu của sự hiệp nhất yêu thương giữa Chúa Giêsu Kitô và Giáo hội của Người, mà nó còn trình bày tất cả mầu nhiệm hiệp nhất này bằng cách thực hiện nó và chứng tỏ nó trong cuộc sống thường ngày. Chính trong sự hiệp thông vợ chồng, Chúa hiện diện giữa họ, làm cho tình yêu của họ không còn là một biểu tỏ mang yếu tố tự nhiên, nhưng đó còn diễn tả yếu tố siêu nhiên. Vợ chồng yêu nhau, như Chúa Kitô yêu thương Giáo hội (Ep 5, 25). Hơn bao giờ hết giữa một thế giới tục hóa, hưởng thụ ích kỷ, người ta đang hạ thấp giá trị tình yêu thủy chung của vợ chồng, Giáo hội thiết tha kêu gọi các cặp vợ chồng Kitô hữu hãy thắp sáng niềm tin của mình qua đời sống trung tin trong tình yêu, để trở thành ánh sáng chiếu tỏ tình yêu của Chúa, hãy gieo vài giá trị Tin mừng ngày chính trong đời sống thủy chung của vợ chồng.
Kết
Trong một thế giới mà nhiều gia đình đang tan vỡ, các gia đình Kitô giáo hãy trở thành ngọn hải đăng chiếu tỏa trên đồi cao, bằng cách mạnh dạn tuyên xưng đức tin của mình qua việc tôn thờ Chúa trên hết mọi sự và dạy con cái chúng ta hãy kiên vững trong đời sống đức tin, hãy làm cho gia đình của mình thành môi trường truyền giáo qua việc kiến tạo gia đình thành ngọn hải đăng chiếu tỏa ánh sáng Tin mừng từ một tình yêu chân thành giữa vợ chồng và con cái, những viên gạch làm nên ngọn hải đăng là sự thủy chung trong tình yêu hôn nhân giữa vợ chồng, và sự tôn kính đối với cha mẹ của con cái. Phát triển mối tương giao bằng hữu với các gia đình khác ngay trong môi trường mình sống và cầu nguyện cho tình bằng hữu nầy là con đường gieo vãi Tin mừng mà không cần những bài thuyết giảng dài dòng về cách thế truyền giáo. Giữ gìn và củng cố truyền thống gia đình Kitô hữu là cách thế để loan báo Tin mừng cách hữu hiệu có thể thay thế cho những cuộc họp để lên các kế hoạch truyền giáo cách công phu mà không đạt tới hiệu quả mong muốn.
Đức thánh cha Phanxicô trong Thông điệp Dilexit nos đã nhắc nhở: “Trong một thế giới mà mọi thứ đều được mua và bán, cảm thức của người ta về giá trị của mình xem ra ngày càng phụ thuộc vào những gì họ có thể tích lũy được bằng sức mạnh của đồng tiền. Chúng ta liên tục bị thúc đẩy để tiếp tục mua sắm, tiêu thụ và phân tán tâm trí mình, bị khống chế trong một hệ thống hạ cấp không cho phép chúng ta nhìn xa hơn những nhu cầu trước mắt và nhỏ nhặt của mình. Tình yêu Chúa Kitô không có chỗ trong cơ chế hư hỏng này, thế mà chỉ có tình yêu đó mới có thể giải thoát chúng ta khỏi sự theo đuổi điên cuồng không còn chỗ cho một tình yêu nhưng không. Tình yêu của Chúa Kitô có thể trao cho thế giới chúng ta một trái tim, và làm hồi sinh tình yêu ở bất cứ nơi nào chúng ta nghĩ rằng khả năng yêu thương đã hoàn toàn không còn”[12], với tâm tình đó, gia đình Kitô hữu chúng ta cần phải củng cố tình yêu, thắp sáng tình yêu và làm lan tỏa tình yêu Chúa đến cho mọi người, để cho nhân loại nhận ra giá trị đích thật về cuộc sống hiện tại hôm nay.
--------
BÀI III - TÁC VIÊN TIN MỪNG: ĐI RA VÙNG NGOẠI BIÊN (PX. Nguyễn Thái)
Tác viên Tin mừng là người được tác động và biến đổi bởi Tin mừng, nhờ đó trở nên tác nhân của Tin mừng trong đời sống. Tác viên Tin mừng cũng là người loan báo Tin mừng, có vai trò quan trọng trong việc loan truyền sứ điệp tình yêu của Chúa Giêsu đến với mọi người, đặc biệt là những người sống ở vùng ngoại biên, nơi mà niềm hy vọng có thể chưa được biết đến hoặc chưa được cảm nhận đầy đủ. Việc ra đi đến những vùng ngoại biên không chỉ đơn thuần là về địa lý mà còn là việc tiếp cận những tâm hồn đang cần ánh sáng, tình yêu và sự cứu độ của Chúa. Những người này có thể là những người nghèo khổ, bị gạt ra ngoài lề xã hội, hoặc những ai đang sống trong khổ đau, tuyệt vọng.
Khi loan báo niềm hy vọng, tác viên Tin mừng không chỉ chia sẻ những lời dạy của Chúa mà còn thể hiện tình yêu thương qua hành động cụ thể, như giúp đỡ những người cần sự trợ giúp, lắng nghe và đồng hành cùng họ trong những khó khăn của cuộc sống. Qua đó, tác nhân Tin mừng trở thành những chứng nhân sống động của niềm tin và hy vọng, mang lại ánh sáng vào những nơi tăm tối (x Tông huấn Niềm vui Tin mừng số 259). Chính vì vậy, việc ra đi đến vùng ngoại biên không chỉ là một sứ vụ, mà còn là một hành trình đầy ý nghĩa, nơi mà tình yêu thương và sự hy vọng được lan tỏa và nhân rộng.
1. Tác viên Tin mừng đi ra vùng ngoại biên loan báo niềm hy vọng. Họ loan truyền niềm hy vọng Kitô hữu là ơn cứu độ, là gia nghiệp Nước Trời đời sau. Chúng ta mong đợi niềm hy vọng đấy tràn đầy sức sống trong tâm hồn để tác viên Tin mừng có thể vượt qua những khó khăn, thách thức, và ra đi vùng ngoại biên khơi dậy niềm hy vọng Kitô hữu có sức mạnh làm tan đi bao nỗi lo âu, chán nản, buồn tủi, những đau khổ trong hiện tại mà nghĩ đến cuộc sống tươi đẹp, với những cố gắng và khát vọng từ tình yêu của Đấng Quyền Năng đưa đến.
Tác viên Tin mừng đi ra vùng ngoại biên loan báo niềm hy vọng là nói về Thiên Chúa yêu thương loài người vô cùng đến nỗi con Ngài là Đức Giêsu đã xuống thế làm người, chịu chết và đã sống lại cho loài người được sống, để cho những “ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” (Mc 16, 15). Tác viên Tin mừng sống niềm hy vọng với anh chị em ở vùng ngoại biên là yêu thương, quan tâm, và chia sẻ tình yêu của Chúa. Mọi người sẽ dễ nhận ra niềm hy vọng nơi chúng ta cũng như niềm hy vọng của họ khi chúng ta kết thân và chia sẻ cho họ về mặt tự nhiên: tinh thần, vật chất trước giai đoạn nói về siêu nhiên, về tâm linh.
2. Tác nhân Tin mừng đi đến vùng ngoại biên lan tỏa sứ điệp của Chúa Giêsu (Ga 3, 16. Mt 11, 28) đến những người chưa biết đến Ngài, đặc biệt là những người sống ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, hoặc những người đang gặp khó khăn trong cuộc sống. Điều này có nghĩa là tác nhân Tin mừng mang lại ánh sáng của chân lý, hy vọng và tình yêu Chúa cho những ai đang sống trong bóng tối của tội lỗi, sự tuyệt vọng hoặc thiếu thốn tinh thần. Tình yêu của Chúa được chia sẻ đến với mọi người, đặc biệt là những ai đang cảm thấy cô đơn, bị bỏ rơi hoặc không được chấp nhận trong xã hội. Sứ điệp cứu độ của Chúa Giêsu được truyền đạt đến những người cần được cứu khỏi tội lỗi, khổ đau và những gánh nặng trong cuộc sống. Điều này không chỉ là cứu rỗi về mặt tâm linh mà còn là sự hỗ trợ, an ủi cho những người gặp khó khăn. Việc đi đến vùng ngoại biên thể hiện tinh thần bác ái, phục vụ và truyền giáo của Kitô giáo, nhằm mang lại sự thay đổi tích cực cho giáo xứ, cho xã hội và giúp mọi người nhận ra tình yêu và ân sủng của Chúa trong cuộc sống của họ.
3. Tác nhân Tin mừng góp phần làm trổ sinh niềm hy vọng. Tác nhân Tin mừng là người loan truyền Tin mừng, có vai trò quan trọng trong việc mang lại niềm hy vọng cho những vùng ngoại biên, nơi mà con người thường phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Những người này không chỉ truyền đạt sứ điệp của tình yêu và lòng thương xót của Chúa, mà còn thể hiện sự hiện diện của Thiên Chúa trong những hoàn cảnh khó khăn.
Khi đi ra vùng ngoại biên, họ thường gặp gỡ những người nghèo khổ bị bỏ rơi. Họ “cho kẻ đói ăn, cho kẻ rách rưới ăn mặc, giúp đỡ người bệnh, chôn cất kẻ chết, lấy lời lành mà khuyên người, dạy dỗ kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, dạy bảo kẻ có tội, tha thứ kẻ xúc phạm, chịu đựng kẻ làm phiền, cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết,...”( kinh Thương Người Có Mười Bốn Mối). Qua sự chia sẻ và lắng nghe, qua những hành động bác ái đấy, họ giúp mang lại niềm tin và trổ sinh niềm hy vọng cho những người này. Họ không chỉ đơn thuần là người truyền đạt lời Chúa, mà còn là những người đồng hành, hỗ trợ và khích lệ tinh thần cho những ai đang cần.
Chúng ta phải “tràn đầy niềm hy vọng” (x. Rm 15, 13) để làm chứng một cách khả tín và hấp dẫn về đức tin và tình yêu trong lòng chúng ta; nhờ đó chúng ta vui tươi trong đức tin, nhiệt thành trong đức mến; sao cho mỗi người có thể trao đi dù chỉ là một nụ cười, một cử chỉ thân tình, một cái nhìn huynh đệ, một sự lắng nghe chân tình, một sự phục vụ vô vị lợi, vì biết rằng, trong Thần Khí của Chúa Giêsu, điều này có thể trở thành hạt giống trổ sinh hy vọng nơi những ai đón nhận. (số 18 Sắc Chỉ Công Bố Năm Thánh Thường Lệ 2025)
4. Tác nhân Tin mừng là nhân chứng của niềm hy vọng. Tác nhân Tin mừng thực sự là những nhân chứng của niềm hy vọng, vì họ không chỉ loan truyền sứ điệp của Chúa mà còn sống và thể hiện niềm tin của mình qua hành động cụ thể. Họ mang đến những dấu chỉ về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Họ nhấn mạnh rằng mọi người đều có phẩm giá làm người và được yêu thương, bất kể hoàn cảnh hay quá khứ của người ta là gì. Họ không chỉ đứng từ xa quan sát mà còn sẵn sàng hiệp hành với những người đang chịu đựng. Sự hiện diện của họ mang lại niềm an ủi và hy vọng cho những ai đang gặp khó khăn. Tác nhân Tin mừng thường tham gia vào các hoạt động bác ái, giúp đỡ những người nghèo khổ về tinh thần cũng như vật chất, mà Đức Thánh cha trong “Sắc Chỉ Công Bố Năm Thánh Thường Lệ 2025” nói: Chúng ta hãy đem lại những dấu chỉ hy vọng cho họ là các bệnh nhân, là giới trẻ, những người di cư, người cao tuổi,... Những hành động này không chỉ là lời nói mà còn là minh chứng cho niềm hy vọng Kitô giáo. Qua cuộc sống và hành động của mình, họ khơi dậy niềm hy vọng nơi người khác, giúp anh chị em nhận ra rằng vẫn còn có hy vọng, bất chấp những thử thách mà họ đang phải đối mặt. Họ thể hiện niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn và khuyến khích người khác cũng tin tưởng vào điều đó. Họ là những chứng nhân sống động cho niềm hy vọng, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng cách sống.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống gần Chúa, kết hiệp với Chúa trong mọi công việc và liên lỉ cầu nguyện. Xin cho chúng con cậy trông vào ơn thánh Chúa để chúng con có đủ sức ra đi vùng ngoại biên loan truyền niềm hy vọng là ơn cứu độ của Chúa.
Hồi tâm
1) Thành viên Hội đồng Mục vụ, thành viên trong các Hội đoàn nói riêng và Kitô hữu nói chung, chúng ta có kết thân và chia sẻ về mặt tinh thần, vật chất, và tâm linh cho những người ở vùng ngoại biên không.
2) Nếu hiểu vùng ngoại biên là nơi mà niềm hy vọng Kitô giáo chưa được biết đến hoặc chưa được người ta cảm nhận đầy đủ về tình yêu Chúa, hay là người bị gạt ra bên lề xã hội thì những người đấy có thể cũng ở ngay bên ta, chúng ta có cầu nguyện cho họ và gặp gỡ, an ủi, chia sẻ tinh thần, vật chất cho họ được không?
3) Tác nhân Tin mừng có là người ra đi loan báo Tin mừng với tràn đầy niềm hy vọng Kitô giáo, qua hành động “trao đi dù chỉ là một nụ cười, một cử chỉ thân tình, một cái nhìn huynh đệ, một sự lắng nghe chân tình, một sự phục vụ vô vị lợi” không?
--------
BÀI IV - LÒNG KIÊN NHẪN VÀ CẢM THÔNG: NHÂN ĐỨC ĐỂ GẶP GỠ VÀ ĐỒNG HÀNH VỚI THA NHÂN (Lm. Giuse Nguyễn Ngọc Ngoạn)
Trong Tông huấn “Niềm vui của Tin mừng”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Niềm vui của Tin mừng đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận đề nghị cứu độ của Người đều được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn” (EG 1). Và như vậy, “Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đoàn phải nhận ra con đường mà Chúa chỉ cho, tất cả chúng ta phải vâng theo tiếng gọi của Ngài là ra đi từ vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng “ngoại vi” đang cần ánh sáng Tin mừng” (EG 20), để gặp gỡ và đồng hành với tha nhân, với tất cả tấm lòng kiên nhẫn và cảm thông.
Mục đích của ngài là khuyến khích các Kitô hữu dấn thân vào một giai đoạn mới của việc loan báo Tin mừng được đánh dấu bằng niềm vui, một niềm vui luôn đổi mới và thông truyền. Người Kitô hữu, ở bất cứ nơi nào và hoàn cảnh nào, ngay lúc này cần đổi mới cuộc gặp gỡ cá nhân của mình với Chúa Giêsu Kitô, để cho Ngài cứu độ hầu được giải thoát khỏi tội lỗi, sẽ có được một sự sống mới trong Đức Kitô. Từ nguồn mạch tình yêu vô cùng của Thiên Chúa, được tỏ lộ nơi Chúa Giêsu Kitô, sự sống mới sẽ được tăng trưởng nhờ sự gặp gỡ và thông truyền với tha nhân.
Giữa một thế giới tục hóa, công cuộc loan báo Tin mừng sẽ gặp nhiều khó khăn. Thế giới ngày nay với nhiều thách đố của sự ác sự tội: nền kinh tế loại trừ, ham danh vọng tiền quyền, mang căm thù đấu tranh bạo lực… Để sống chứng tá giữa đời, Kitô hữu phải đi ngược dòng đời, thể hiện qua những hành động yêu thương, sự chia sẻ gặp gỡ, bằng sự kiên trì nhẫn nại, để tất cả mọi sự đều quy hướng Thiên Chúa. Noi gương Thầy chí thánh, giữa những cản trở nhân gian, vẫn tìm ra được giải pháp trên con đường loan báo Tin mừng (Lc 9,51-56).
“Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt” (Mt 9, 36). Noi gương Thầy Giêsu, để gặp gỡ và đồng hành với tha nhân, người Kitô hữu phải có tấm lòng thương cảm, thấu hiểu, chia sẻ lắng nghe và cảm nhận niềm vui nỗi buồn của tha nhân. Phải “nhìn thấy tha nhân là một con người với một phẩm giá giống như của tôi, một thụ tạo được Chúa Cha yêu thương vô cùng, một hình ảnh của Thiên Chúa, một anh chị em được Đức Kitô cứu chuộc” (EG 98). Đó là nhìn nhận và ứng xử với người khác theo cái nhìn và gương mẫu của Chúa Giêsu Kitô.
Một người có lòng thương xót thì biết quan tâm chia sẻ giúp đỡ phục vụ tha nhân, cũng như biết thông cảm và tha thứ cho tha nhân. Người có lòng thương xót nhận lãnh sự tha thứ thương xót của Thiên Chúa và sống với nhau trong “Thiên Chúa là Đấng đầy lòng thương xót.” Lòng thương xót đóng vai trò rất quan trọng trong công cuộc loan báo Tin mừng, vì khi biết nhìn nhận mọi sự và hành động với lòng thương xót, người Kitô hữu phản ánh được tình thương tha thứ và đầy lòng thương xót của Thiên Chúa. Để huấn luyện một người trở nên con người có tâm hồn đầy lòng thương xót - cùng với ơn Chúa trợ giúp - trước tiên cần phải có một đời sống biết chia sẻ và tha thứ theo gương Chúa Giêsu Kitô. Cần hướng dẫn chính mình sống theo khuôn vàng thước ngọc của Chúa: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12), sống với tâm tình thương xót như Thiên Chúa là Cha, Đấng đầy lòng thương xót (Lc 6, 37), sống với mọi người là anh chị em con cùng Cha, với tình yêu thương trong Tình yêu tha thứ khoan nhân đầy lòng thương xót của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Như vậy, trong công cuộc loan báo Tin mừng, để gặp gỡ và đồng hành với tha nhân trên con đường tìm kiếm Chân Thiện Mỹ, tìm về hạnh phúc đích thực, mỗi Kitô hữu cần phải có một tấm lòng yêu thương, thương cảm với tất cả mọi người, kiên nhẫn với con người và vạn vật, luôn tuân hành theo Thánh ý Thiên Chúa và vì vinh quang tình thương Thiên Chúa. Để nhận ra Thiên Chúa vẫn đang hoạt động trong những mối tương quan gặp gỡ đồng hành với tha nhân (Ga 4,1-15), nhận ra Thiên Chúa đang hoạt động qua việc loan báo Tin mừng để có thể chiếu sáng những cách thức mới của mối tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân và với môi trường sinh thái, là điều sẽ làm sáng tỏ những giá trị cơ bản nhân sinh. Nhận ra Thiên Chúa đang hoạt động qua việc gặp gỡ, liên kết, chia sẻ, hòa hợp, hiệp thông với tha nhân, phát huy tinh thần hiệp nhất, tình huynh đệ, sống với những ước muốn tốt, tìm theo chân lý và công lý, “sống trọn vẹn đời sống con người và đối diện với mọi thách thức như là men để làm chứng cho Tin mừng trong mọi nền văn hóa và mọi đô thị” (EG 75).
Hồi tâm:
1) Giữa cuộc sống thường ngày, bạn có nhận ra Chúa vẫn luôn kiên nhẫn và cảm thông sẻ chia niềm vui Tin mừng trong đời sống của bạn không?
2) Xu hướng não trạng phổ biến ngày nay, bị chi phối bởi sự vội vàng và mong muốn “mọi thứ ngay lập tức”; trong đó, thay vì chờ đợi các hoàn cảnh chín muồi, người ta lại bị thúc ép, với kỳ vọng rằng chúng sẽ thay đổi ngay lập tức. Những đoạn Kinh thánh nào sẽ giúp bạn tập đức kiên nhẫn và sống ngược lại não trạng này?
3) Trong việc loan báo Tin mừng, bạn đã thể hiện lòng kiên nhẫn và thương cảm với tha nhân như thế nào?
--------
[1] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông huân Familiaris Consortio (Gia đình Kitô hữu), số 54
[2] Nt số 42
[3] Nt số 63
[4] Nt số 51
[5] Nt số 63
[6] Đức Bênêđictô XVI. Diễn văn bế mạc Đại hội Gia đình Thế giới lần V. tại Valencia, Tây Ban Nha, 9.7.2006
[7] Nt
[8] Nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/cong-bo-van-kien-huong-dan-viec-ton-kinh-to-tien-35500#_Toc119355179
[9] Nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/cong-bo-van-kien-huong-dan-viec-ton-kinh-to-tien-35500#_Toc119355156
[10] Nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-phanxico-gui-dai-hoi-tinh-bang-huu-giua-cac-dan-toc-nam-2023-52429
[11] Đức Phanxicô, Thông điệp Dilexit nos, số 203
[12] Nt số 218.