TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI VỚI NGƯỜI TRẺ VÀ GIA ĐÌNH TRẺ: NHỮNG HỆ LỤY NHÌN TỪ
GÓC ĐỘ TÂM LÝ HỌC
Lm. Giuse Têrêsa Trần Anh Thụ
WHĐ (20.12.2020) – Không
thể phủ nhận, kể từ khi những phương tiện truyền thông phát triển cùng với cuộc
cách mạng Internet, đời sống xã hội đã có những thay đổi thật rõ nét theo chiều
hướng tích cực và phát triển. Những khái niệm mới về truyền thông cũng bắt đầu
xuất hiện cùng với sự phát triển này. Nói khác hơn, truyền thông đã bắt đầu một
cuộc chuyển tiếp từ truyền thống sang những cách thức hiện đại. Sự chuyển tiếp
này là sự phát triển. Tuy thế, nó cũng để lại không ít những hệ lụy. Từ góc
nhìn của tâm lý học, bài viết này xin được góp một góc nhìn về một số hệ lụy của
nó trên những người trẻ và các gia đình trẻ thời đại @ này.
1. Một số khái niệm
1.1 Truyền thông
Từ ngữ “truyền thông”
(communication) bắt nguồn từ gốc tiếng Latinh “communicare” với ý nghĩa là chia
sẻ, truyền tải, truyền đạt. Truyền thông, vì thế, được định nghĩa như quá trình
chia sẻ, truyền tải dữ liệu, thông tin, ý tưởng, ý nghĩ, ý kiến hoặc tri thức...
từ một người hoặc nhóm người đến một người hoặc nhóm người khác. Qua quá trình
tương tác qua lại này, hai bên sẽ hiểu biết nhau hơn, hoặc thay đổi nhận thức,
thái độ và hành vi.
Quá trình truyền thông bao gồm
các yếu tố cơ bản sau:
- Nguồn: là yếu tố mang thông
tin và khởi xướng quá trình truyền thông. Nói cách khác, đây là người phát
thông tin.
- Thông điệp: là nội dung
thông tin được trao đổi từ nguồn phát đến đối tượng tiếp nhận thông tin.
- Kênh truyền thông: là các
phương tiện, con đường, cách thức chuyển tải thông điệp từ nguồn phát đến đối
tượng tiếp nhận.
- Người nhận: là cá nhân hay
nhóm người tiếp nhận thông điệp trong quá trình truyền thông.
- Phản hồi: là thông tin ngược,
là dòng chảy của thông điệp từ người nhận trở về nguồn phát.
- Nhiễu: là yếu tố gây ra sự
sai lệch thông tin trong quá trình truyền thông.
1.2 Truyền thông xã hội
Theo Andreas Kaplan và
Michael Haenlein, truyền thông xã hội là “những ứng dụng Internet xây dựng trên
nền tảng công nghệ và lý tưởng của web 2.0, tạo điều kiện cho việc kiến tạo và
trao đổi thông tin của người dùng”[1].
Murphy[2]
cho rằng truyền thông xã hội đơn giản là công cụ truyền thông mà công chúng có
thể tạo ra và trao đổi thông tin trên mạng internet.
Theo tác giả Nguyễn Khắc Giang,
cần lưu ý sự khác biệt giữa truyền thông xã hội (social media) và mạng xã hội
(social network). Theo tác giả, “Về mặt bản chất công nghệ, hai khái niệm này đều
cùng chỉ một bản thể: đó là những website dựa trên nền tảng web 2.0 để giúp người
sử dụng có thể tạo lập và truyền tải thông tin. Tuy vậy, thuật ngữ truyền thông
xã hội mang nghĩa rộng hơn, bao hàm cả phương tiện lẫn nội dung, trong khi mạng
xã hội nhấn mạnh nhiều hơn đến nền tảng công nghệ tạo ra nó”[3].
Truyền thông xã hội là phương
thức dựa vào sức mạnh lan tỏa và tương tác mạnh của các mạng xã hội phổ biến
như: Facebook, Youtube, Linkedln, Blog, Forum... để truyền đi những thông điệp.
Với đặc tính đa chiều, không gian tương tác rộng, kênh truyền thông xã hội truyền
tải thông điệp nhanh hơn, lan truyền rộng rãi hơn và mạnh mẽ hơn. Đồng thời,
kênh truyền thông này còn tạo được sự tương tác mạnh mẽ đối với công chúng.
Tóm lại, truyền thông xã hội
cũng bao gồm những yếu tố của truyền thông. Hệ thống mạng xã hội chính là kênh
truyền thông đặc biệt của quá trình truyền thông xã hội. Vì thế, có thể nói những
ảnh hưởng của kênh truyền thông này cũng bao hàm trong những hệ lụy của truyền
thông xã hội được đề cập tới trong bài viết.
1.3 Người trẻ trong bối cảnh của truyền thông xã
hội
Trong bối cảnh của truyền
thông xã hội, giới trẻ/người trẻ được hiểu rộng hơn so với quy chuẩn theo sự
phát triển của tâm lý và thể lý. Ở nhiều nước trên thế giới và tại Việt Nam
theo Nghị định 27/2018/NĐ-CP, người sử dụng Internet dưới 14 tuổi và chưa có chứng
minh nhân dân/thẻ căn cước công dân/hộ chiếu, người giám hộ hợp pháp như cha, mẹ
sẽ quyết định việc đăng ký thông tin cá nhân của mình để thể hiện sự cho phép
và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc đăng ký đó.
Như vậy, trẻ em dưới 14 tuổi
dùng mạng xã hội phải được cha, mẹ đồng ý và nếu đồng ý, chính cha, mẹ sẽ dùng
thông tin cá nhân của mình để đăng ký tài khoản cho con trên mạng xã hội. Nói
cách khác, từ 14 tuổi trở lên, trẻ có thể tham gia vào mạng xã hội, họ có thể
tiếp cận thông tin của truyền thông xã hội.
Tình trạng này đã được quan
tâm từ nhiều quốc gia. Tại một số nước thuộc liên minh Châu Âu, việc nâng độ tuổi
người tham gia hợp pháp từ 13 lên 16 tuổi cũng đã từng được đặt ra. Trong thực
tế, hiện nay ở Việt Nam, số trẻ em dưới 14 tuổi tham gia các mạng xã hội không
phải là ít. Việc tham gia của các em hầu như không được sự kiểm soát của phụ
huynh.
Nói tóm lại, khái niệm người
trẻ trong bài viết sẽ nói tới những người từ dưới tuổi trưởng thành đã và đang
tham gia vào mạng xã hội.
1.4 Gia đình trẻ
Theo luật hiện hành của Việt
Nam, các bạn nữ 18 tuổi và nam 20 tuổi đủ điều kiện để kết hôn. Như thế, các
gia đình kết hôn khi đủ tuổi theo luật trong những năm đầu đời hôn nhân được gọi
là những gia đình trẻ. Bởi họ là những người vẫn đang trong độ tuổi của những
người trẻ.
Tuy nhiên, tính từ “trẻ” cũng
có thể hiểu là “mới vào nghề”. Vì thế, chúng tôi cũng hạn định trong bài viết về
cả những gia đình dù không còn nằm trong độ tuổi “người trẻ” nhưng mới chỉ sống
đời sống hôn nhân và gia đình trong thời gian ngắn.
2.1 Những hệ lụy trên người trẻ
Mùa hè năm 2014, liên đoàn
Thanh Sinh Công Sài gòn đã tổ chức Đại hội với chủ đề: “Thời mạng xã hội - Sinh
viên tìm kiếm giá trị thật”. Sau những ngày làm việc cùng nhau qua việc quan
sát, thảo luận, tìm hiểu thực trạng sử dụng Mạng xã hội hiện nay, cũng như những
ảnh hưởng của nó đối với giới trẻ các bạn đã ra tuyên bố chung:
“Chúng tôi nhận thức được rằng,
mạng xã hội góp phần quan trọng trong cuộc sống của con người.
Lợi ích của mạng xã hội là
truyền tải và thu nhận thông tin, kết nối các mối quan hệ, học tập nghiên cứu,
chia sẻ cảm xúc suy nghĩ một cách tự do, phục vụ cho công việc và cuộc sống của
từng người.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, sử dụng
mạng xã hội không đúng cách, dẫn đến nhiều mối đe dọa và ảnh hưởng lớn đến đời
sống của giới trẻ như: Nghiện mạng xã hội, mất thời gian cho những việc khác,
lơ là những mối tương giao trực tiếp với mọi người xung quanh, sống ảo tưởng, ảnh
hưởng đến sức khỏe, giảm trí nhớ, thông tin cá nhân bị sử dụng theo cách mình
không thể kiểm soát. Điều nguy hiểm nhất là không phân định được giá trị ảo -
thật trong cuộc sống”. Bài viết này xin được góp thêm cách rõ hơn dưới góc độ
tâm lý về các hệ lụy này.
2.1.1 Sự phát triển nhân cách lệch lạc
a. Nhân cách ái kỷ
Trong tác phẩm “Hành trình tự
do”, tác giả nhận định: “Các nhà tâm lý trị liệu cũng như thần học đều rất quan
tâm đến sự ái kỷ đáng sợ đang gia tăng trong thời đại hiện nay, đó là một thứ
não trạng quy ngã chỉ quan tâm đến cuộc sống và cảm xúc của mình. Kẻ ái kỷ thì
sa sút ý thức tội lỗi một cách nghiêm trọng, bởi vì tha nhân và quyền lợi của
tha nhân chẳng có nghĩa lý gì đối với họ. Chỉ mình họ mới đáng kể. Mọi người
khác chỉ là công cụ để họ sử dụng và đáp ứng nhu cầu của mình. Họ chỉ quan tâm
đến cảm xúc, kế hoạch và khát vọng của mình, chứ không hề quan tâm đến ai khác.
Vì thế, khi họ theo đuổi mục tiêu của mình, nếu có ai bị giẫm đạp hay bị tổn
thương, thì điều đó chẳng hề làm họ đau đớn. Thậm chí, họ cũng không nhận ra sự
khốn khổ của những người bị tổn thương. Cảm thấy điều gì có lợi cho mình là họ
làm, bất chấp người khác có bị thiệt hại và tổn thương hay không. Nếu có điều
gì khó khăn, thì cần gì phải nỗ lực, bất chấp sự phiền hà mà người khác phải chịu.
Thậm chí kẻ ái kỷ cũng không cần phải biện minh cho mình. Họ đâu cần phải nói:
“Cảm xúc của người khác chẳng có gì quan trọng!” bởi vì họ ít khi nhận ra cảm
xúc bị tổn thương của người khác. Họ quan tâm về mình đến mức, họ khó nhận biết
nỗi đau và niềm vui của tha nhân. Thế giới của kẻ ái kỷ khởi đi từ chính mình
và cũng kết thúc nơi mình”[4].
Tuy thế, chúng ta cũng cần
phân biệt với “ái kỷ sơ khai” (primary narcissism) theo Sigmund Freud viết
trong bài “Ông hoàng sơ sinh” (1914) về giai đoạn đầu tiên của một đứa trẻ sơ
sinh. Theo M. Barnett[5],
“Trẻ sơ sinh cần phải tự yêu mình và ích kỷ khi mới sinh ra, đây là một cơ chế
tiến hóa, giúp cho những nhu cầu cơ bản của chúng được đáp ứng, giúp chúng tồn
tại”.
Như vậy, xu hướng ái kỷ là điều
mà mọi chúng ta đều đã trải qua khi còn là trẻ nhỏ, nhằm giúp chúng ta sinh tồn
và phát triển. Jeffrey Kluger nêu ra ba đặc điểm, mà ông gọi là “hạt giống của
chứng ái kỷ” có thể phát triển thành chứng rối loạn nhân cách ở người trưởng
thành. Đó là: thiếu đồng cảm, thiếu khả năng kiểm soát ham muốn và thiếu sự ăn
năn hối lỗi. Nhưng điều lo ngại là nếu trong quá trình trưởng thành, cơ chế này
không được định hình và uốn nắn thì nó có thể dẫn tới chứng rối loạn nhân cách ở
người trưởng thành.
Các nhà tâm lý học mới đây đã
cảnh báo việc selfie có thể gây ảnh hưởng không tốt, thậm chí có thể gây nghiện
và làm tăng sự ái kỷ của cá nhân đó. Nguyên do chứng ái kỷ gắn liền với lối sống
xa hoa, chú trọng hình ảnh, danh tiếng. Trường hợp của Danny Bowman, 19 tuổi, sống
ở Anh, bị nghiện chụp ảnh selfie là một ví dụ. Do những phản hồi chê bai về những
tấm hình selfie, cậu đã đi đến mức tự tử. Tiến sĩ David Veal, một nhà tâm thần
học phụ trách chữa trị cho Danny, cho biết trường hợp của Danny khiến ta không
thể phủ nhận tính nghiêm trọng của vấn đề. “Đây không đơn thuần là sự phù phiếm
nữa. Nó là một căn bệnh tâm lý dẫn tới tỉ lệ tự tử rất cao”.
Trào lưu gắn liền đời sống với
mạng xã hội của người trẻ Việt Nam có thể cũng đang là sự góp phần cho việc
hình thành nên những nhân cách của một thế hệ trẻ tự yêu mình, ít hòa nhập với
xã hội.
b. Nhân cách dửng dưng
Nhà tâm lý học cá nhân Alfred
Adler (1870-1937) cho rằng, thiếu “sự quan tâm xã hội” chính là tình trạng
không lành mạnh của sức khỏe tâm thần. Nó có nguy cơ dẫn đến tình trạng: thất bại,
thần kinh, điên loạn, nghiện ngập, tự tử.... Mục tiêu của những người này là
vinh quang cho riêng họ. Theo ông, những “quan tâm xã hội” là kết quả của cả
hai quá trình bản năng và học tập. Dù nó đã được lập trình sẵn, nhưng nếu không
được nuôi dưỡng và phát huy, nó sẽ biến mất dần.
Theo ông, thiếu hay đầy đủ “sự
quan tâm và hứng khởi xã hội” sẽ dẫn tới 4 type nhân cách: 1) người thích điều
khiển người khác: hay gây gổ, gạt bỏ người khác để đạt được mục đích của mình;
gây sức ép với người khác nhiều khi bằng con đường nghiện ngập, rượu chè và tự
sát. 2) Người dựa dẫm: ít nhiệt huyết, mệt mỏi, suy nghĩ tiêu cực, dễ mắc chứng
phobie, ám ảnh, loạn thần kinh, mất trí nhớ. 3) Người né tránh: chạy trốn mọi
người, co cụm, cô lập. 4) Người có lợi cho xã hội: suy nghĩ lành mạnh.
Khi những người trẻ tham gia
vào mạng truyền thông xã hội, họ “bơi” trong một thế giới tràn ngập những hình ảnh
và thông tin mà họ cũng chẳng có đủ thời gian để đọc, để xem xét một cách đầy đủ.
Nhìn từ bên ngoài, xem ra những người đang tham gia vào hệ thống truyền thông này
biết nhiều vấn đề, sự kiện. đang diễn ra trên thế giới; nhưng có nguy cơ chai lỳ
cảm xúc trước những điều đang tràn ngập bên cạnh mình và trở thành những người
sống dửng dưng trước mọi vấn đề, mọi con người mà họ gặp gỡ.
Những nút “like” được nhấn vội
vàng chỉ để nhằm cho những người khác thấy mình nhạy tin, biết chuyện. Bên cạnh
những nút “like”, những nút “share” cũng được bấm một cách vô tội vạ, ngay cả
khi họ cũng chưa biết đủ thông tin đó là gì cách sâu xa. Những nút “like” và
“share” này, tự nó, không phải là nguyên nhân; chính những người đang sử dụng
nó là nguyên nhân chính. Bởi lẽ, họ đang muốn chứng tỏ mình là người nhạy tin,
hiểu biết... trong thực tế, hành vi của họ cho thấy họ cần đám đông ủng hộ
nhưng lại thiếu mất sự quan tâm xã hội cách đích thực. Chính sự thiếu quan tâm
đủ, thiếu đồng cảm cho những vấn đề xã hội, những con người, những sự kiện mà họ
đang “like” và “share” cho thấy sự dửng dưng của họ.
c. Nghiện ngập và lệ thuộc
Nghiện là sự lặp lại liên tục
của một hành vi bất chấp hậu quả xấu. Nghiện ngập làm hư hỏng thể xác, tiền bạc,
tâm trí và thanh danh của con người và gia đình họ.
Khái niệm nghiện ngập đã có
nhiều thay đổi trong thời gian gần đây. Từ chỗ khái niệm đó chỉ sự lệ thuộc vào
chất gây nghiện như rượu, thuốc lá, các loại ma túy và các loại thuốc gây nghiện
tương tự. đến chỗ khái niệm này chỉ cả những người lệ thuộc vào những thứ khác
như: cờ bạc, tình dục, mua sắm. và gần đây, là việc sử dụng smartphone,
internet, facebook.
Cho tới nay, chưa có mã bệnh
nghiện mạng xã hội, nghiện điện thoại thông minh, nghiện máy tính nối mạng
Internet. Tuy thế, dựa trên thực tế, nhiều nhà nghiên cứu bắt đầu nhận thấy rằng
nét tính cách trầm cảm và việc tự hạ thấp bản thân liên quan đến việc sử dụng
và nghiện facebook. Qua quan sát và số liệu thực, người ta thấy ngày càng nhiều
bạn trẻ phải nhập bệnh viện tâm thần điều trị bệnh trầm cảm, hoang tưởng vì chứng
nghiện mạng xã hội, sử dụng điện thoại liên tục nhiều giờ. Điều này khiến nhiều
người không khỏi giật mình vì thói quen “ôm” điện thoại, máy tính, vào mạng xã
hội đã trở nên phổ biến ở cả trẻ em lẫn người lớn.
Nghiện ngập tự nó dẫn đến những
hành vi lệ thuộc vào chất gây nghiện. Cũng thế, việc nghiện ngập công nghệ truyền
thông quá nhiều sẽ gây ra tình trạng phụ thuộc. Đối với nhiều người trẻ và cả
người trưởng thành, mạng xã hội đã trở thành một thói quen, đam mê hằng ngày
không thể thiếu, dễ dẫn tới hiện tượng “nghiện” ở nhiều bạn trẻ, khi không kiểm
soát được thói quen này. Điều này khiến họ bỏ quên thời gian dành cho học tập,
công việc, dần biến họ thành những người phụ thuộc và bị thao túng thời gian,
thậm chí cả quyền riêng tư, sức khỏe, vật chất... Ví dụ, khi gặp vấn đề nào khó
khăn thì điều đầu tiên họ nghĩ tới là “google” và tìm kiếm thông tin. Khi bị lệ
thuộc vào các thiết bị công nghệ truyền thông, người trẻ sẽ dần cảm thấy không
thể thiếu và rời xa được những thói quen này; cảm giác gần gũi, trò chuyện với
bố mẹ, người thân và bạn bè sẽ dần mất đi; chúng thường có xu hướng phản ứng dữ
dội khi bị ngăn cản chơi và sử dụng các thiết bị công nghệ này, không nghe bất
cứ điều gì từ ba mẹ chúng.
Sự lệ thuộc này không hiểu
theo nghĩa của chẩn đoán những dạng rối loạn nhân cách lệ thuộc; nhưng đó là
nguy cơ tiềm ẩn cho các gia đình trẻ. Chúng tôi sẽ bàn tới ở phần sau.
Theo đánh giá của chuyên gia,
việc nghiện ngập mạng xã hội có thể gây ảnh hưởng, khiến hệ thống não bộ của
con người hoạt động mất cân bằng, giảm khả năng tiếp thu, gây những bất thường
về tâm lý, thậm chí dẫn tới tâm thần. Dù nghiện ngập là một thứ bệnh làm đảo lộn
hệ thống dây thần kinh não bộ, đặc biệt ở giới thanh niên; nhưng sự biến đổi
này không phải vĩnh viễn nếu hiểu biết sâu xa vấn đề ta có thể cải thiện và sửa
chữa.
d. Sống ảo
Một vài nghiên cứu gần đây
cho thấy, việc lệ thuộc vào những thiết bị công nghệ truyền thông sẽ khiến người
trẻ gặp nhiều vấn đề về mặt cảm xúc, kỹ năng xã hội... Đặc biệt, khi bị lệ thuộc
vào các công nghệ truyền thông, hay chính xác hơn là mạng xã hội, người trẻ thường
xa lánh với cuộc sống bên ngoài, gặp vấn đề khi giao tiếp, các kỹ năng sống
cũng bị mất dần đi. Đối với không ít người, việc tiếp xúc và giao tiếp bằng
ngôn ngữ, cử chỉ là điều vô cùng quan trọng, nhưng khi bị lệ thuộc vào thế giới
công nghệ và mạng xã hội, cuộc sống của trẻ sẽ trở nên đơn giản, vắn tắt, khá
đơn điệu và nhàm chán, các kỹ năng xã hội gần như không có.
Điều đáng nói, khi người trẻ
có kỹ năng xã hội kém, họ sẽ cảm thấy rất khó để giao tiếp với mọi người vì thế
sẽ co mình lại, rất dễ cảm thấy cô đơn, trầm cảm và xa lánh cuộc sống. Theo
ThS. Trần Mạnh Hoàng, họ dần bị rơi vào ảo giác: ăn, ngủ, nằm mơ… trong thế giới
ảo, cứ như thế chúng tách biệt với thế giới bên ngoài và rơi xuống những hố sâu
mà chúng không có phản kháng gì. Và khi chúng bước ra cuộc sống thực, tâm lý cô
đơn, bơ vơ, hoang mang và sợ hãi là điều dễ hiểu.
Đàng khác, bước vào thế giới
mạng xã hội, người trẻ sống trong một thứ ảo tưởng quyền lực, ảo tưởng về sức mạnh
bản thân. Trong mạng xã hội, họ có thể tô vẽ về bản thân họ theo cách của họ muốn
từ vóc dáng, thể hình cho đến tính cách, năng lực và nhiều thứ khác mà họ mong
muốn... cũng không sao.
Tại Hội thảo “Tác động của Mạng
xã hội tới tâm lý người dùng” gần đây, các nhà chuyên môn ở Việt Nam đã cảnh
báo những dấu hiệu từ nghiện mạng xã hội đến sống ảo; dần dần phát triển thành
những bệnh lý tâm thần như trầm cảm và đặc biệt là hoang tưởng.
Một vài kết quả và nhận định
từ Dailymail cho thấy: thế giới số đang làm thay đổi xã hội theo cách khiến
chúng ta có cảm giác như đang bị giám sát. Mọi hành động của chúng ta đang bị
theo dõi và mọi việc chúng ta làm được ghi lại theo cách nào đó qua internet.
Điều đó có thể gây ra cảm giác lo âu về việc có ai đó muốn gây hại cho bạn hoặc
theo dõi bạn[6].
Chứng hoang tưởng có thể được phân loại từ nhẹ tới nặng, từ ảo tưởng tới những
nghi ngờ phóng đại. Người trẻ có nguy cơ cao nhất vì họ sử dụng mạng xã hội nhiều[7].
Theo báo cáo, 18.778 trẻ em từ 11 đến 18 tuổi ở Anh và xứ Wales đã được nhập viện
vì tự gây tổn thương vào năm 2015-2016 - tăng 14% so với năm trước. Mạng xã hội
bị xem là nguyên nhân về sự gia tăng tỷ lệ tự làm hại ở giới trẻ[8].
Evgeny Morozov trong cuốn
sách The Net Delusion (Ảo tưởng trên
mạng) chỉ trích rằng, các mạng xã hội đã tạo ra một thế hệ của những
“slacktivists” (một khái niệm mới xuất hiện, chỉ những người chỉ tham gia những
hoạt động xã hội bằng cách cập nhật status hoặc trang hoàng blog với những lời
lẽ đãi bôi, thay vì dấn thân hoạt động thật sự). Mạng xã hội đang khiến con người
trở nên chây lười và sống trong sự ảo tưởng rằng hành vi nhấn chuột cũng tương
đương với việc tham gia một hoạt động nhân đạo cần đến sự đóng góp tiền bạc và
thời gian.
Nói cách khác, thế giới của mạng
xã hội cho phép họ vượt ra khỏi sự tự ti vốn có của họ. Nó cho họ cái quyền được
thể hiện mình như mình muốn và rất tự tin để thực hiện vì nó ảo. Họ cảm thấy
mình có được sức mạnh hơn trong đời thực, mình có những quyền lực riêng trong
thế giới ảo này và được quyền sử dụng quyền lực đó. Chính khi sống trong một thế
giới ảo mà dần dần hành vi và ứng xử của người trẻ cũng dần dần thay đổi mỗi
ngày.
e. Thay đổi hành vi và ứng xử bạo lực
Các tác giả H. Long, Phạm Ngọc
và Quỳnh Hương trong bài viết “Tội đồ truyền thông”[9]
ghi nhận: theo thống kê, cả nước hiện nay có khoảng 5 triệu người chơi game
online thường xuyên, trong đó có khoảng 1 triệu game thủ chuyên nghiệp. Số game
online người Việt Nam có thể chơi là 35, trong đó, 27/35 game mang tính bạo lực
(77%), 9/27 game bạo lực (33%). Ở góc độ nhập vai trong các game bạo lực, có tới
10/27 game có góc độ nhập vai không rõ ràng (đâm chém, bắn giết không phân biệt
tốt xấu).
Đàng khác, tràn lan trên
internet và các trang mạng xã hội những thông tin, những bài hát, những video clip
mang tính bạo lực, cổ võ lối sống tự do tình dục, ... Chúng nhiều đến độ, khi
người trẻ nhìn thấy chúng, họ coi đó là những điều bình thường. Những điều bất
thường đã trở thành điều bình thường và sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hành vi và
những ứng xử của người trẻ.
Ở góc nhìn của tâm lý học,
thông qua các mạng xã hội, truyền thông xã hội đang làm thay đổi hành vi và ứng
xử của không ít người. Theo Watson, một hành vi xuất hiện khi xuất hiện kích
thích. Tự nó, đó là một phản xạ có điều kiện. Hành vi đó, theo quan niệm của
Thorndike và Skinner, sẽ tiếp diễn hoặc ngừng lại bởi chính sự ủng hộ hoặc cản
trở nó.
Tâm lý đám đông đang có ảnh
hưởng rất lớn trong tiến trình dẫn dắt hành vi của người trẻ. Hiện tượng tâm lý
đám đông có thể là những sự kiện và hiện tượng đang diễn ra và thu hút họ; cũng
có thể là những sự kiện đời thường, những nhân vật nổi tiếng. Thông thường, những
thông tin từ ảnh hưởng của đám đông thường rất mơ hồ, khó đoán định và thiếu
sót. những lại rất dễ bị dụ dỗ và cuốn hút. Và không chỉ như thế, những hành vi
của đám đông cũng là hiện tượng dễ bị cuốn hút người trẻ. Họ “ném đá” nhau mà
không cần biết sự thực đàng sau tất cả là gì. Họ bày tỏ thái độ với tất cả mọi
vấn đề; thậm chí có vấn đề chẳng quan trọng và chẳng liên quan đến họ. Chỉ cần
đông người là đủ.
Nguy hiểm hơn, việc thường
xuyên chơi game online và sống trong ảo giác sẽ gây ra những hành vi dần ảnh hưởng
đến đạo đức, làm tha hóa nhân cách, lệch lạc về nhận thức, từ đó dẫn đến những
hành vi tiêu cực, có thể hủy hoại tương lai của giới trẻ. Tình trạng bạo lực học
đường, xâm hại tình dục, trộm cắp. xuất hiện ngày càng nhiều cũng một phần có
lý do từ những phim ảnh đồi trụy, kích động bạo lực trên internet, những trò
chơi khuyến khích con người hóa giải mâu thuẫn bằng việc “thanh toán” lẫn nhau;
thậm chí có những bạn trẻ chết trên bàn phím vi tính vì bỏ ăn, quên ngủ để chơi
game. Thói quen và những hành vi bất thường mang tính bạo lực đó cũng đã và
đang được hành xử ngay trong thế giới thực khi mà những người trẻ đã bị nhiễm
cách ứng xử từ sự biến đổi hành vi của họ từ thế giới mạng mà họ đã và đang
tham gia mỗi ngày.
Hội đồng Giáo hoàng về truyền
thông xã hội cũng xác quyết: “Các phương tiện truyền thông đôi khi được dùng để
làm tha hóa con người hay gạt bỏ ra ngoài lề rồi cô lập con người; lôi kéo con
người vào những cộng đồng băng hoại được tổ chức xoay quanh các giá trị giả dối
và phá hoại; cổ vũ sự thù nghịch và xung đột biến người khác thành ma quỷ, tạo
ra một não trạng ‘phe ta' chống lại ‘phe chúng'; phô diễn những điều hèn hạ, thấp
kém bằng sự hào nhoáng, trong khi lại không màng tới hay xem thường những gì
cao quý và có giá trị, phổ biến những thông tin sai lạc, thất thiệt, hoặc ủng hộ
những gì là xoàng xĩnh, tầm thường”.
2.1.2 Mất khả năng phân định
Những năm gần đây, người ta bắt
đầu bàn về một thứ quyền lực mềm. Khái niệm này đã được đề xuất (1990)[10]
và giải thích (2004)[11]
bởi giáo sư Joseph Samuel Nye, Jr. ở đại học Harvard.
Theo Nye, quyền lực mềm là
dùng khả năng giành được những thứ mình muốn thông qua việc gây ảnh hưởng để
khiến người khác làm theo những gì mình muốn. Một đặc điểm của quyền lực mềm là
không cưỡng bức, ép buộc; khác với quyền lực cứng, quyền lực mềm đạt được những
gì mình muốn bằng cách tác động tới hệ thống giá trị của người khác, làm thay đổi
cách suy nghĩ của người khác, và qua đó khiến người khác mong muốn chính điều
mà mình mong muốn. Đó là quyền lực mềm, thực hiện thông qua sự hấp dẫn và thuyết
phục.
Việc “like” và “share” những
thông tin trên mạng xã hội cách vội vã và thiếu kiểm chứng, và được lồng vào
trong đó cảm xúc của cá nhân đang tạo nên một hiệu ứng lây lan mang tính bầy
đàn. Thậm chí, nhiều khi chỉ cần thấy tên của người đưa thông tin, tiêu đề của
thông tin cũng đủ để cho nhiều người bình luận và thể hiện thái độ như những
“anh hùng bàn phím” và như “những nhà đạo đức mạng”. Điều đó cho thấy mạng xã hội
không có chỗ cho sự phản biện qua lại cách công bằng, thẳng thắn.
Đàng khác, chính sự thôi thúc
bày tỏ thái độ như đi tìm và chứng tỏ quyền lực mềm của mình mà nhiều người đã
tích cực đưa những thông tin mà mình chưa kiểm soát đủ; hay nói cách khác, thiếu
sự phân định đúng/sai, thật/ảo của chính thông tin mình chia sẻ với cộng đồng.
Còn nhớ, dịp kỷ niệm 40 năm giải phóng thành phố, một trang mạng đã đưa thông
tin với hình chụp một nữ tu trẻ đi trong đoàn diễu hành cùng với một ni cô trẻ
với ý định gán ghép sự gian dối của chính quyền khi sử dụng các nữ tu giả. Thế
là bức hình được chuyển tải cách chóng mặt và được liên kết với một bài viết
cách đó vài năm trước về một trường hợp mạo danh nữ tu một hội dòng để đi lừa đảo.
Thực ra, người ta không khó khăn để nhận thấy hình ảnh của hai người này khác
nhau và cả tu phục họ mặc cũng khác nhau. Nhưng dường như sự phân định ảo - thật
không còn nữa. Khi tìm ra được trang mạng đã đưa tin này lên đầu tiên, bản thân
tôi đã viết thư nhắc nhở - chị nữ tu này là thật và là học trò của tôi - và họ
đã gỡ bỏ xuống với lời xin lỗi; nhưng những người quen biết được tôi nhắn tin gỡ
bài thì lại không thể thực hiện được.
Nicholas Carr, trên một bài
xã luận viết cho tạp chí Atlantic, với tiêu đề được nhấn mạnh: Is Google making
us stupid? (Google đang làm chúng ta ngu đi?) đã gợi ý rằng việc sử dụng
Internet đã làm thay đổi cách thức chúng ta động não, qua đó làm giảm khả năng
nhận biết và xử lý những khối lượng lớn thông tin, chẳng hạn các bài viết
chuyên ngành hay sách vở.
Thụ động và lười suy nghĩ;
nói cách khác, đánh mất khả năng phân định, tư duy phản biện, nhiều người trẻ
tham gia mạng xã hội như một thứ robot. Công cụ Google giúp cho việc tìm kiếm
thông tin trở nên dễ dàng, giúp cho việc học tập thuận lợi hơn. Nhưng những gì
mà mạng xã hội cung cấp cho thấy rõ là không phải hoàn toàn tất cả đều đúng. Một
thông tin được kiếm tìm từ mạng xã hội nếu không được phân định và phản biện sẽ
là một điều nguy hiểm. Trong thực tế, dường như khả năng “copy” và “paste” đang
gắn liền với không ít người trẻ. Việc đầu tư suy luận, lập luận, phản biện và
phân định của người trẻ dường như đang mất dần cùng với sự phát triển của hệ thống
truyền thông xã hội với những công cụ của nó.
2.1.3 Hạ thấp phẩm giá của người khác
Nhiều người trẻ khi tham gia
mạng xã hội - đặc biệt là các bạn rơi vào tình trạng nghiện mạng xã hội - ít có
thời gian tiếp xúc với thế giới thực. Không chỉ suy giảm các quan hệ xã hội,
các kỹ năng sống và giao tiếp xã hội... mà nguy hiểm hơn, họ dùng mạng xã hội
như một nơi chốn để giảm stress qua việc soi mói, phê bình chỉ trích bất cứ ai,
bất cứ điều gì họ bắt gặp trên thế giới mạng. Thậm chí, không chỉ là không phân
định mà còn không ít lần là sự cố ý với những ác ý dẫn đến sự vi phạm trắng trợn
phẩm giá hay nhẹ hơn là sự hạ thấp phẩm giá của người khác.
Trong Sứ điệp ngày truyền
thông lần thứ 43, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết, “nếu các công nghệ kỹ thuật
mới phải phục vụ cho thiện ích của các cá nhân và xã hội, thì những người sử dụng
chúng phải tránh sự chia sẻ những lời nói và hình ảnh làm mất phẩm giá con người,
và như thế loại trừ những gì đang nuôi dưỡng lòng hận thù và sự bất bao dung,
những gì làm giảm phẩm giá vẻ đẹp và sự sâu kín của giới tính con người, những
gì khai thác những người yếu đuối và những người dễ bị tổn thương”.
Sự tôn trọng phẩm giá của con
người trong thế giới truyền thông xã hội được thể hiện qua việc: tôn trọng những
quyền giữ gìn sự riêng tư và chọn lựa hình ảnh xuất hiện trước công chúng; nhìn
nhận những cảm xúc và phần phẩm chất tốt đẹp của họ, thể hiện bằng niềm tin họ
là những con người có nhu cầu tự khẳng định bản thân, tự trọng, lương thiện, hướng
thiện... và lắng nghe tiếng nói của họ, lắng nghe thân phận và nguyên nhân sâu
xa cái nghèo khổ của họ.
Trong thực tế, những hình ảnh
đầy những hành vi xúc phạm nhân phẩm của người khác tràn ngập trên mạng như:
như một người bị lột quần áo trước mặt người khác, bị nhốt vào chuồng nuôi súc
vật, bị bắt ăn những thứ không dành cho người, bị bắt quỳ lạy hoặc chui háng một
người khác... Cùng với không ít những lời nói, thông tin, cử chỉ. mang tính
thóa mạ, chửi rủa người khác... đang là những hành vi xúc phạm nhân phẩm con
người.
Đàng khác, ngay cả những
thông tin về những người nghèo, những dịp bác ái xã hội dành cho người nghèo,
già cả, neo đơn được cung cấp không tế nhị cũng đang là những con đường làm cho
phẩm giá của con người - đặc biệt những con người đang trải qua những kinh nghiệm
đau khổ này tiếp tục bị hạ giá tới mức thấp nhất. Tác giả Trần Thị Thanh Hương
trong bài “Phẩm giá con người trong truyền thông đại chúng”[12]
đã kết thúc bài viết của mình rằng, “Phẩm giá chỉ được coi trọng nếu họ được
nhìn nhận như là những con người có những nhu cầu và quyền lợi như vậy, cái quyền
của một công dân lên tiếng về thân phận, hơn là chỉ mô tả họ như những người
đang nhận sự ban phát từ thiện của mọi người”.
2.2 Những hệ lụy trên gia đình trẻ
2.2.1 Phá vỡ tương giao thực
Nếu xét dựa trên các yếu tố của
một cuộc truyền thông được nêu lên trong phần khái niệm thì rõ ràng các thiết bị
kỹ thuật và mạng xã hội đã thay thế những kênh truyền thông trực tiếp. Trong
nhiều gia đình, giao tiếp và tương giao liên nhân cách đang được thực hiện qua
các thiết bị kỹ thuật và mạng xã hội. Những người trẻ có thể ngồi “chém gió”
thâu đêm với bạn bè trên các trang mạng nhưng lại không thể dành chút thời gian
để tâm sự, nói chuyện cùng cha mẹ, người thân trong gia đình, dần dần mọi thành
viên trong gia đình trở nên lạnh nhạt, xa cách, thiếu quan tâm, chăm sóc lẫn
nhau.
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
đã cảnh báo về điều này: “Thật đáng buồn biết bao nếu ước muốn nâng đỡ và phát
triển tình bạn online của chúng ta được thể hiện với giá phải hy sinh sự sẵn
sàng của chúng ta cho gia đình, cho bà con thân thuộc của chúng ta và cho những
người mà chúng ta gặp gỡ trong thực tế đời thường, nơi làm việc của chúng ta, ở
trường học, trong thời gian rảnh rỗi. Quả thế, khi ước muốn kết nối ảo trở nên
ám ảnh, thì hậu quả là người ấy tự tách mình, cắt đứt một mối tương tác xã hội
thực sự. Thậm chí điều đó cuối cùng phải làm theo xáo trộn thời gian nghỉ ngơi,
thinh lặng và suy nghĩ cần thiết cho một sự phát triển nhân bản lành mạnh”[13].
Giáo
sư Sherrey Turkle tại học viện công nghệ MIT viết trong cuốn sách mới nhất của
bà, Alone Together (Cùng nhau đơn độc)
đã cho rằng: công nghệ đang đe dọa thống trị cuộc sống của nhân loại, và làm
chúng ta ngày càng mất đi “tính người” của mình. Bằng cách gây ra ảo tưởng rằng
những mạng xã hội đang giúp con người giao tiếp và kết nối với nhau dễ dàng
hơn; trên thực tế, chúng ta đang ngày bị cách ly với thế giới tương tác thực giữa
người với người, dưới hình thức một không gian thực - ảo mà bản chất chẳng qua
chỉ là một sự mô phỏng dị dạng của thế giới thật. Bà cho rằng, “Một hành vi tuy
đã trở nên phổ cập (như giao tiếp thông qua mạng xã hội) vẫn có thể cho thấy những
vấn đề mà chúng ta gọi là triệu chứng bệnh lý”. Khi đề cập đến việc bà từng
tham dự những đám tang mà ở đó người ta vẫn không bỏ được thói quen hí hoáy
trên chiếc iPhone của họ, bà hóm hỉnh: “Mỗi
người đều có cách tạm biệt người quá cố theo cách riêng của mình”.
“Các công nghệ kỹ thuật số mới
quyết định những thay đổi căn bản nơi các khuôn mẫu giao tiếp và nơi các tương
quan nhân loại. Những thay đổi này đặc biệt rõ ràng nơi giới trẻ mà sự trưởng
thành của họ liên hệ chặt chẽ với những công nghệ kỹ thuật truyền thông này. Bởi
thế, họ cảm thấy thoải mái trong thế giới kỹ thuật số mà, trái lại, thường dường
như xa lạ với một số người trong chúng ta”[14].
Nhiều học giả cũng đã lên tiếng
về sự đổ vỡ của tương giao thực này do thế giới mạng xã hội: “Quá nhiều cách
giao tiếp khác nhau đang được sử dụng trong việc giao tiếp đã gây ra sự sợ hãi
cho nhiều người”. Khái niệm “thế giới thực” mà nhiều người chỉ trích hay nhắc đến
thật ra chưa bao giờ tồn tại. Trước khi người ta lên xe buýt hoặc tàu điện ngầm
với hai mắt dính vào chiếc iPad hay điện thoại thông minh, thì họ vốn dĩ cũng
chưa bao giờ giao tiếp với nhau một cách thật sự. “Chúng ta không bao giờ thấy
mình mở lời một cách tự nhiên với người lạ”[15].
Trong thực tế, không ít những
gia đình trẻ, vợ chồng chỉ giao tiếp với nhau bằng những công cụ truyền thông
kiểu mới ngay cả khi họ đang ở cùng nhau trong một mái nhà. Bởi lẽ, dường như họ
không hòa nhập được với cuộc sống thực của họ; họ mải mê sống với thế giới ảo
và đến khi tắt máy, đối mặt với thế giới thực tại lại thấy xa lạ, khó hòa nhập.
Việc gì sẽ xảy ra khi hai con
người thật, sống trong một mái nhà thực nhưng kết dệt nên một tương giao ảo?
Nói cách khác, những con người thực đang đánh mất dần cái thực rất thực của một
nhân vị và cũng đang có khuynh hướng hạ giá nhân vị của nhau.
2.2.2 Đổ vỡ quan hệ của gia đình truyền thống
Khi những thiết bị kỹ thuật
hiện đại gắn liền với mạng xã hội đang phá vỡ tương giao thực của những thành
viên trong gia đình, nó cũng đang hủy hoại mối quan hệ của gia đình truyền thống.
Các thành viên trong gia đình, vợ chồng với nhau, cha mẹ với con cái, thậm chí
cả ông bà với các cháu không còn giờ cho nhau vì quá bận rộn với các thiết bị
truyền thông này.
Ngay trong bữa ăn gia đình, mỗi
người dán mắt vào trong màn hình thiết bị của mình thay vì đó là khoảng thời
gian trò chuyện cùng nhau bên mâm cơm. Bữa cơm được diễn ra vội vàng, mau chóng
như một thủ tục của bản năng sống: ăn; để mau chóng tiếp tục với các thế giới rất
riêng biệt của mình với những thiết bị trên tay. Những cuộc trò chuyện thân mật
giữa các thành viên của gia đình truyền thông đã biến mất. Trong khảo sát năm
2000 về “mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng trẻ”[16],
kết quả cho thấy, vợ chồng nào càng dành ít giờ để trò chuyện với nhau, mâu thuẫn
càng nhiều và càng cao.
Theo Luật sư Andrew Newbury,
người Anh cho biết, hiện nay facebook đã xuất hiện trong các vụ ly hôn, là
nguyên nhân gây tan vỡ hạnh phúc gia đình. Nhiều cặp vợ chồng đã nghi ngờ nhau
từ việc sử dụng mạng xã hội đã dẫn đến các cãi vã, bất hòa. Nhiều người ít thời
gian dành cho gia đình, biến tổ ấm của mình thành nơi ‘ứng dụng' các công nghệ,
khiến cho hôn nhân lạnh lẽo, tình cảm khô cứng[17].
Trong quá trình đồng hành với
các gia đình, không ít lần bản thân người viết cũng chứng kiến những đổ vỡ
tương quan giữa mẹ chồng và nàng dâu vì bác “Google” xen vào. Câu chuyện đổ vỡ
liên quan đến sự tín nhiệm vào bác Google quá mức, không chấp nhận những kinh
nghiệm nuôi dạy con của mẹ chồng, dẫn tới chỗ không đồng ý cho bà nội đụng tới
cháu vì sợ nguy hiểm, không an toàn vì bà nội nuôi dạy trẻ không đúng phương
pháp mà bác Google đã tư vấn.
2.2.3 Gây ra những tổn thương cho con trẻ trong
gia đình
Theo những nghiên cứu từ các
nhà tâm lý học và sức khỏe nhi thì sự tương tác, tiếp xúc giữa trẻ nhỏ với những
người xung quanh những vật chuyển động trước mặt sẽ góp phần rất lớn trong việc
hình thành các kĩ năng giao tiếp và ứng xử xã hội. Bởi thế, khi cha mẹ bỏ qua
việc giao tiếp thường xuyên với con cái là đang dần đánh mất các mối quan hệ và
sự phát triển bình thường của trẻ. Đây chính là những nguyên nhân gây ra hội chứng
ngại tiếp xúc, tự kỷ ở trẻ em, thậm chí dẫn đến những hành vi thiếu kiểm soát.
Mạng xã hội, tin nhắn, trò
chơi điện tử... đã lấy mất rất nhiều thời gian của những ông bố bà mẹ trẻ khiến
họ không còn thời gian để quan tâm và chăm sóc con cái, không có thời gian nói
chuyện với con, chơi với con, dạy con học, đọc truyện cho con nghe, nhưng lại
có rất nhiều thời gian cho những lần lướt web, cho những cuộc điện thoại tán gẫu
với bạn bè. Việc bố mẹ nghiện công nghệ đã đành, ngày nay, các ông bố bà mẹ hiện
đại còn mắc sai lầm khi để trẻ tiếp xúc và nghiện các thiết bị điện tử từ rất sớm.
Nhiều gia đình trẻ, không
gian buổi tối của gia đình thật “êm ả”; thậm chí “êm ả” ngay cả khi họ đang đi
tận hưởng thời gian giải trí bên ngoài cùng nhau. Sự “êm ả” đáng sợ bằng hình ảnh
mỗi người một smartphone trên tay. Đứa trẻ, lẽ dĩ nhiên, để tránh phiền toái
cho cha mẹ cũng được sắm phần của mình và tha hồ xoay xở với thiết bị của mình.
Các bậc cha mẹ trẻ đã quên mất, hoặc chưa từng biết rằng: họ đang đẩy con cái họ
vào chỗ nguy hiểm.
Theo các nhà trị liệu[18],
các yếu tố ảnh hưởng lớn trong quá trình phát triển của nhân cách kiểu phụ thuộc
thường liên quan đến giáo dục từ thời thơ ấu, giai đoạn hình thành và phát triển
tốt nhất các tính cách của con người. Đó là thời điểm mà đứa trẻ hình thành phẩm
chất con người, và để đạt được điều đó, nó cần được tôn trọng, yêu thương và bảo
vệ. Nếu những điều này không được lấp đầy, có nguy cơ hình thành những cảm xúc
thiếu an toàn và đẩy nó tìm kiếm sự thỏa mãn bằng mọi giá để đạt được sự nhìn
nhận; nó đấu tranh chống lại nỗi sợ bị bỏ quên, bỏ rơi bởi những người nó yêu
thương, và nó bắt đầu con đường hình thành nhân cách phụ thuộc. Một đứa trẻ
đang ‘tự bơi' một mình với các thiết bị công nghệ được cha mẹ trao cho đang cố
gắng xoay sở và dần lệ thuộc vào với những thiết bị này. Đó là một nguy cơ khó
tránh khỏi trong tương lai.
Theo khá nhiều nghiên cứu, điện
thoại di động tự nó không phải là một rối loạn, nhưng việc dùng quá mức điện
thoại di động sẽ làm cho con trẻ bị thiếu kỹ năng giao tiếp, chiếm mất nhiều thời
gian, gây mất tập trung, giảm hiệu suất tổng thể cả trong công việc hằng ngày lẫn
học tập so với nhóm dùng điều độ. Người nghiện điện thoại thường có thói quen
dùng “dế yêu” làm việc thay não bộ trong các công việc cần ghi nhớ. Bởi đã có
“bộ nhớ khác” làm thay cho não nên não trở nên trì trệ, làm cho khả năng tái tạo
thông tin của não giảm mạnh. Thời gian nghiện càng dài thì mức độ suy giảm trí
nhớ càng lớn, chưa kể tác động của môi trường và tuổi tác.
Đàng khác, các chuyên gia
cũng cảnh báo rằng, việc trẻ nhỏ mê mệt với các thiết bị điện tử hay việc cha mẹ
mải mê với các đồ công nghệ cao đến nỗi lấy mất đi cả thời gian chăm sóc con đã
và đang dẫn đến những hệ quả rất xấu. Cô đơn, nghèo cảm xúc, mất sự tương tác với
xã hội, thiếu sự gắn kết giữa cha mẹ - con cái, gặp các vấn đề về sức khoẻ như
với cột sống, thần kinh... Thực tế, các nhà trị liệu và lâm sàng đã gặp rất nhiều
trường hợp trẻ bị mắc chứng rối loạn hành vi, suy nhược, lo lắng, cảm tính lưỡng
cực, chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế và rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD). Tất
cả đều có thể liên quan đến việc sử dụng công nghệ quá mức.
Quá trình đồng hành với các
gia đình trẻ, tôi cũng nhận thấy rằng, nhiều bà mẹ trẻ mê mẩn với các thiết bị
và mạng xã hội ngay cả khi cho con bú. Một phản ứng rất dễ thấy trong trường hợp
này là bé không ăn và khóc vì không được quan tâm. Nhiều bà mẹ vẫn cho rằng con
mình bị đau bệnh gì đó hoặc phải “vía, hơi lạnh..nên khóc quấy. Giải thích từ
các nhà tâm lý cho thấy vào tuổi này, đặc tính của trẻ là sự hòa mình của trẻ với
đối tượng chăm sóc nó. Đó là mối tương quan sớm mẹ - con theo quan điểm của
Anna Freud và cha mình là S. Freud. Chính sự gắn bó thường xuyên làm cho trẻ và
mẹ hiểu nhau hơn. Mối quan hệ này sẽ trở thành nguyên mẫu cho mọi quan hệ tình
cảm và các quan hệ xã hội sau này của trẻ.
Erikson và một số nhà nghiên
cứu khác như Sroufe & Fleeson (1986), đều có cùng quan điểm như cha con
Freud và còn thêm rằng, sự tin cậy và tình thương trong quyến luyến an tâm ở tuổi
này sẽ giúp trẻ tương tác thành công và tin cậy với bạn đồng tuổi; và ngược lại
sẽ gặp nhiều rắc rối trong tương tác xã hội như thích phê phán, ứng xử thù địch.
Vô tình, mẹ đã là nguyên nhân gây ra những vấp váp về mặt tâm lý cho trẻ.
Trong Đại hội của các bạn
Thanh Sinh Công nêu ở phần trên, các bạn cũng phân tích rằng: “nguyên nhân
chính của việc không hoặc thiếu sự phân định giá trị thật - ảo của người trẻ là
thiếu định hướng xã hội, cô đơn, ít giao tiếp với mọi người, gia đình không
quan tâm, thiếu tương tác xã hội, không sẵn sàng cởi mở giao tiếp trực diện với
người khác, và các ức chế tâm lý cần được giải thoát, cùng với việc muốn thể hiện
mình, thích được khen, được tôn vinh, được chấp nhận.
Do những khiếm khuyết, những
thiếu hụt, do sợ hãi và cảm nghiệm sự không an toàn, mà người trẻ đăng tải những
thông tin không chính xác, tạo nên thông tin ảo. Hoặc do sự “tự do” gần như tuyệt
đối trong khi sử dụng, và không có những ràng buộc trách nhiệm hay ý thức nhân
bản, người trẻ dễ dàng lên án, phê phán, hùa theo, ủng hộ những trào lưu tràn
lan phổ biến... Những điều này tạo nên giá trị ảo.
Mặt khác, những trục trặc từ
chính nhân cách của người trẻ cũng góp phần làm cho việc phân định giá trị thật
hoặc ảo trong thông tin được tiếp nhận trở nên khó khăn”[19].
Xin dùng kết quả phần xét dưới
giá trị của Tin Mừng của chính các bạn trẻ Thanh Sinh Công để kết thúc như một
xác quyết và như một gợi mở:
“Chính Thiên Chúa là người thực
hiện đầu tiên việc truyền thông. Một cuộc truyền thông đích thực nhằm kéo con
người đến gần Thiên Chúa. Thiên Chúa đã thực hiện một cuộc truyền thông quyết
liệt và trọn vẹn, khi Nhập Thể xuống thế và trải qua cuộc Khổ nạn, để truyền một
thông điệp trọn vẹn cho Tình Yêu Vĩnh Hằng của Thiên Chúa dành cho con người.
“Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua
các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua
Thánh Tử” (Dt 1,1). Nói cách khác, Chúa Giêsu là người Thầy, là gương mẫu của mọi
sứ vụ truyền thông hiệu quả, “Thầy là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống” (Ga
14,5).
Ngang qua con đường truyền
thông (communication), Thiên Chúa quy tụ con cái ngài thành một cộng đoàn
(community) trong sự hiệp thông (communion) với Ngài và với nhau. Đây chính là
mục tiêu của việc Thiên Chúa truyền thông cho con người. Con đường này được
trao phó và đang được tiếp nối trong sứ vụ của Hội Thánh. Xuyên qua các thời đại,
Hội Thánh dùng những phương tiện khác nhau để thi hành mục tiêu này. Bởi thế,
dù có những kênh truyền thông khác nhau, sứ điệp được loan báo vẫn chỉ là một
và luôn mang giá trị thật. Chính qua sứ điệp/thông tin (information) được loan
báo, dân Chúa được dẫn dắt đi vào trong cuộc đào luyện (formation) để thực hiện
cuộc biến đổi (transformation) tận căn đời sống của mình. Nói cách khác, trong
mẫu thức truyền thông của Thiên Chúa và Hội Thánh giá trị thật vẫn luôn được biểu
lộ cách rõ nét qua mục tiêu và sứ điệp được bày tỏ”.
Ước mong, những người trẻ và
những gia đình trẻ gẫm suy và bắt đầu lại với sự đồng hành của những người có
trách nhiệm trong giáo Hội.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 106 (Tháng 5 & 6 năm 2018)
[1] Kaplan Andreas M. and Michael Haenlein, Users of the world,
unite! The challenges and opportunities of Social media. Business horizons 53.1
(2010): 59-68.
[2] Murphy, Dhiraj, Towards a Sociological Understanding of
Social media: Theorizing Twitter, Sociology 2012, 46:1059.
[10] Nye, Joseph. Bound to Lead: The Changing Nature of American Power (New York:
Basic Books, 1990).
[11] Nye, Joseph. Soft Power: The Means to Success in World Politics. (New York:
Basic Books, 2004).
[16] Trần
Anh Thụ, Mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng trẻ, khóa luận tốt nghiệp Đại học -
chuyên ngành tâm lý học, ĐHSP TPHCM.
[19] Tuyên
bố chung của Đại hội Liên đoàn Thanh Sinh Công năm 2004.