TRUYỀN
THÔNG KITÔ GIÁO TRONG VIỆC QUẢNG BÁ VÀ THỰC HÀNH HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO
Lm. Phêrô Tạ Anh Vũ
1.1 Truyền Thông
Để giải quyết một vấn đề chúng ta trước hết phải
biết gọi tên vấn đề đó, sau đó chúng ta phải có khả năng hiểu được vấn đề. Với
cách thức này chúng ta tiếp cận vấn đề được đặt ra và tìm tòi những phương cách
để giải quyết nó. Vì thế, trước hết chúng ta cần có một định nghĩa về truyền
thông. Trên phương diện xã hội học, có rất nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những định
nghĩa khác nhau về truyền thông tùy thuộc vào bối cảnh và góc độ các nhà nghiên
cứu đó suy tư về hiện tượng này, ví dụ như trong lãnh vực thông tin, trên
phương diện xã hội, trong nghiên cứu văn hóa hoặc nhân chủng học[1]. Nhìn
chung các nhà nghiên cứu đều hiểu truyền thông, theo bản chất của nó, là một tiến
trình qua đó con người biểu lộ, biểu hiện chính mình, chia sẽ những ý nghĩa, những
giá trị đời sống để đi tới gần gũi thân thiện với nhau hơn qua việc hướng đến
những ý nghĩa giá trị chung[2].
Chúng ta có thể tổng hợp những ý tưởng định nghĩa cho truyền thông như sau:
“Truyền thông là một quá trình có tính
năng động, đối thoại, và luôn tiếp diễn. Trong quá trình này con người chia sẻ
với nhau những giá trị, ý nghĩa của đời sống; họ thực hiện việc này bằng cách sử
dụng những biểu tượng, những dấu hiệu, những phương tiện và những phương cách
phù hợp với bối cảnh xã hội và văn hóa mà họ đang sống.”[3]
1.2 Một Số Kiểu Mẫu Truyền Thông
Để có một cái nhìn rõ nét hơn về truyền thông,
chúng ta xem qua một số kiểu mẫu (models) truyền thông, được các nhà nghiên cứu
phác họa lên. Trong bài này, chúng ta chỉ giới hạn trong một số kiểu mẫu căn bản.
Kiểu mẫu thứ nhất được Claude E. Shannon và
Warren Weaver giới thiệu trong việc nghiên cứu lý thuyết truyền thông dựa trên
phương diện toán học vào năm 1948. Cả hai nhà nghiên cứu đều là kỹ sư về thông
tin viễn thông. Họ tìm hiểu và phân tích quá trình truyền tải thông tin qua cuộc
gọi điện thoại, được mô tả trong biểu đồ dưới đây[4]:
Kiểu mẫu truyền thông này cho thấy đây là kiểu
truyền thông một chiều. Những yếu tố liên quan đến ngôn ngữ, ngữ cảnh và bối cảnh
của quá trình truyền thông không được xem xét đến. Nó cũng không chú ý đến những
yếu tố làm nên tác nhân truyền thông như sự phản hồi, mức độ tham gia tích cực
của người nhận thông tin khi tham dự vào quá trình truyền thông. Tính chủ động
của người nhận tin cũng đưa đến việc phải quan tâm đến sự hiểu biết, khả năng
truyền đạt cũng như tình trạng tâm lý và bối cảnh văn hóa của người nhận tin.
Harold Lasswell đề xướng ra một công thức căn bản để phân tích quá trình truyền
thông, kiểu mẫu dưới đây đưa ra những nhân tố tạo nên một quá trình truyền
thông[5]:
Với công thức trên đây, sự ảnh hưởng của phương
tiện truyền thông phải được quan tâm đến, và người ta cũng phải để ý đến hiệu
quả của truyền thông tác động nên người nhận. Dù vậy, kiểu mẫu của Lasswell vẫn
còn mang tính chất truyền thông một chiều, chỉ nhắm đến việc truyền đạt thông
tin để thuyết phục người nhận. Everett Rogers, trong bài nghiên cứu của mình,
cũng giới thiệu những kiểu mẫu khác của Osgood, Westley và MacLean, cũng như của
Berlo, nhưng các nhà nghiên cứu này cũng chỉ đưa ra những kiểu mẫu tương tự như
của Shannon và Weaver, chỉ biến cải đôi chút, có nghĩa là tất cả những kiểu mẫu
này vẫn nằm trong phạm vi truyền thông một chiều: chú trọng đến việc truyền đạt
của người gửi thông điệp với mục đích thuyết phục, “biến đổi” cách nhìn và hành
xử của người nhận, ở đây người nhận ở trong một trạng thái tiếp nhận thụ động[6].
Toàn bộ quá trình truyền thông theo cái nhìn truyền thông một chiều dường như
chưa được xem xét đầy đủ, ví dụ như điều gì đang diễn ra giữa người truyền tin
và người nhận tin? Người nhận phản ứng như thế nào với thông tin được truyền đạt?
Cách thức người nhận hiểu về thông tin được gửi đi có tương ứng với cách thức
(ý định) thông điệp được người truyền đạt gửi đi? …
Vì thế, Rogers đưa ra một kiểu mẫu truyền thông
được hiểu là một quá trình “tuần hoàn (circle: có đi và có đến, rồi có đến và
có đi trở lại), mang tính hai chiều” mà trong đó cả hai người gửi tin và người
nhận tin đều lệ thuộc vào nhau, cả hai đều có ảnh hưởng lên việc diễn đạt và gửi
đi thông điệp cũng như việc tiếp nhận và hiểu về thông điệp đôi bên trao cho
nhau. Truyền thông không phải là một quá trình nhằm thuyết phục người khác,
nhưng nó là một quá trình sinh động hướng tới việc hiểu nhau và hướng đến việc
đồng thuận về một vấn đề, chia sẻ một ý nghĩa được truyền tải, vì thế nó đòi hỏi
một hoạt động mang tính hỗ tương. Ở đây, chúng ta cũng phải ý thức về bối cảnh
và những ảnh hưởng xã hội tồn tại trong những mối quan hệ giữa các cá nhân trong
mạng lưới xã hội họ đang sống. Everett Rogers và Lawrence Kincaid một kiểu mẫu
“truyền thông hội tụ” (convergence communication). Xin mời xem biểu đồ dưới đây[7]:
Biểu đồ của Kincaid cho chúng ta thấy có những
lưu chuyển của quá trình trao đổi thông điệp người tham dự A biểu lộ ý tưởng của
mình cho người tham dự B. Sau khi đã hiểu được thông điệp đến từ A, B giải
thích cho A mình hiểu thông điệp đó như thế nào. Sự tương tác hai chiều này được
tiếp tục khi A nói lúc này mình hiểu B bắt được thông tin như thế nào và cả hai
tiếp tục trao đổi để cho thông tin mình gửi đi càng lúc càng được hiểu rõ hơn.
Việc này cuối cùng dẫn đến sự hiểu biết lẫn nhau. Ta gọi kiểu mẫu truyền thông
này là truyền thông có tính “đồng tham dự” (Participatory Communication).
2. Truyền Thông Xã Hội dưới cái nhìn của
Giáo Hội Công Giáo
Khi các nhà nghiên cứu truyền thông trên phương
diện xã hội học họ chỉ nói đến những khái niệm như ‘truyền thông’, ‘truyền
thông của con người’, etc. Hiện nay, khi nghe nói đến truyền thông thì người ta
thường liên tưởng đến báo chí, truyền hình, phim ảnh, radio, và trong xã hội hiện
đại ngày nay người ta nghĩ nhiều đến Internet, mạng xã hội, youtube, hoặc apps,
vv… Nhưng dưới cái nhìn của Giáo Hội Công Giáo những hình thức truyền thông hiện
đại chỉ là một phần của TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI. Khái niệm “Truyền Thông Xã Hội” được
dùng lần đầu tiên trong Công Đồng Vatican II. Khi các thành viên trong ban chuẩn
bị phác thảo văn bản “Inter Mirifica”[8] có
liên quan đến truyền thông để các nghị phụ công đồng thông qua, họ đã giải
thích rằng những khái niệm như “truyền thông đại chúng” (mass media), “truyền
thông quảng bá” (media of diffusion), những hình thức truyền thanh, truyền hình
(audio-visual means) hay những hình thức tương tự không diễn tả đầy đủ điều mà
Giáo Hội quan tâm. Vì thế, các thành viên trong ban này ưu tiên dùng một khái
niệm mới “Truyền Thông Xã Hội” (Social Communication), điều này được các nghị
phụ công đồng chấp thuận và công bố trong công đồng. Khái niệm “Truyền Thông Xã
Hội” hàm chứa việc truyền thông TRONG xã hội loài người và CỦA xã hội loài người[9]. Với
cái nhìn này, Truyền Thông Xã Hội nhắm đến bất cứ hình thức tương tác mang tính
chia sẻ trao đổi giữa con người với nhau, bao gồm cả những phương tiện sử dụng,
những hình thức truyền thông trong xã hội loài người: từ thuở sơ khai đến thời
hiện đại ngày nay. Dưới chiều kích này truyền thông xã hội chú trọng đến sự
tương tác của con người mà qua đó con người biểu lộ chính mình và chia sẻ những
giá trị sống trong bối cảnh văn hóa xã hội mình đang sống. Sau này khoa tâm lý
học khi sử dụng và giải thích khái niệm biểu lộ của cá nhân (communication of
the self) thường dùng khái niệm Truyền Thông Xã Hội làm bối cảnh cho việc biểu
lộ của cá nhân.
Dưới ánh sáng của Công Đồng Vatican II, đặc biệt
qua các hiến chế như “Dei Verbum”, “Lumen Gentium”, “Gaudium et Spes” và sắc lệnh
“Ad Gentes”, ý tưởng về Truyền Thông Xã Hội đã gợi lên sự cần thiết của việc
suy tư thần học làm nền tảng cho truyền thông. Tài liệu hướng dẫn mục vụ
“Communio et Progressio” lần đầu tiên đưa ra những suy tư mang tính thần học
liên quan đến truyền thông xã hội. Ngay câu đầu tiên, tài liệu này nói: “Sự hợp
nhất và tiến bộ của con người sống trong xã hội là mục đính chính của truyền
thông xã hội và của tất cả những phương tiện nó sử dụng.”[10]
Sau đó tài liệu này còn giải thích thêm “Những kênh truyền thông mặc dù được
xác định để tiếp cận những cá nhân, nhưng chúng cũng chạm đến toàn bộ xã hội và
ảnh hưởng đến nó.”[11]
Những hình thức truyền thông khác nhau này không thể thiếu được trong việc vận
hành xã hội hiện đại và có tính tích cực là đem con người đến gần lại với nhau,
vì mục đích của truyền thông xã hội là tạo thuận lợi cho nhiều cuộc gặp gỡ
trong xã hội và đào sâu thêm về ý thức xã hội của con người để đi đến kết quả
là “cá nhân càng có sự gắn kết hơn với người khác và có thể tích cực đóng góp
phần của mình trong tiến trình lịch sử, được hướng dẫn bởi bàn tay của Thiên
Chúa.”[12]
“Communio et Progressio” nhấn mạnh nền tảng có tính thần học cho truyền thông nằm
ở trong 2 yếu tố: (1) mọi sự kiện truyền thông đều có cội rễ trong sự truyền
thông nội tại của Thiên Chúa, đó là sự Trao-Ban-Chính-Mình trong đời sống của
Thiên Chúa Ba Ngôi, diễn ra giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và truyền
thông của Thiên Chúa Ba Ngôi hướng tới con người, (2) Đức Kitô là nhà truyền
thông tuyệt vời (dịch theo bản tiếng Đức: Chúa là Bậc Thầy về truyền thông)[13]:
Người, trong bản tính Thiên Chúa và con người thật, đã hiệp nhất con người với
Thiên Chúa và hiệp nhất giữa con người với nhau. Đỉnh cao của việc truyền thông
của Đức Kitô đó là: vì tình yêu Người Trao-ban-chính-mình cho loài người. Kiểu
mẫu truyền thông của Đức Kitô chính là kiểu mẫu tiêu biểu cho truyền thông Kitô
giáo, hay nói giữa chúng ta cho truyền thông Công Giáo. Biểu đồ dưới đây miêu tả
truyền thông Công Giáo như thế nào[14]:
2.1 Truyền Thông của Thiên Chúa – Sự
Trao-Ban-Chính-Mình trong Tình Yêu
Khái niệm chính yếu cho việc suy tư về sự Truyền
Thông của Thiên Chúa (divine communication) là khái niệm Trao-Ban-Chính-Mình của
Thiên Chúa (Self-Communication of God; tiếng Đức Selbstmitteilung Gottes: dịch
sát nghĩa là sự Tự-biểu-lộ, Tự-thông-truyền). Trong cách diễn giải của ngôn ngữ
Việt Nam chúng ta có từ Tự-Mặc-Khải. Karl Rahner chỉ ra với khái niệm trên đây
một ý nghĩa thần học quan trọng: Khi Thiên Chúa thể hiện mình cho con người nhận
biết Ngài, thì Người hoàn toàn trao trọn những gì Người là trong bản chất Thiên
Chúa của mình mà không dấu diếm bất cứ điều gì có trong bản chất này. Món quà
được trao cũng chính là con người tặng món quà đó[15].
Điều này luôn diễn ra trong đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.
2.2 Thiên Chúa Ba Ngôi: Truyền Thông
trong Hiệp Thông và Hiệp Thông nhờ vào Truyền Thông
Gisbert Greshake, một nhà thần học người Đức, đã
diễn tả Ba Ngôi như sau: “Thiên Chúa là sự hiệp thông trong đó BA Ngôi Vị cùng
thực hiện (sống) MỘT đời sống thiên tính là sự Trao-Ban-Chính-Mình cho nhau dưới
ba hình thức tương tác trong tình yêu.”[16]
Chúng ta thấy có những chiều kích căn bản của truyền thông ẩn chứa trong sự
miêu tả trên đây về đời sống của Ba Ngôi. Đó là những chiều kích sau[17]:
Sự hiệp thông của Ba Ngôi có thể được xem là một
sự “trao đổi” liên tục của sự hiệp nhất và khác biệt và là thực tại nguyên thủy
có trong đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Dưới cái nhìn này, cuộc sống của
Thiên Chúa bao hàm những khoảnh khắc trao ban cho nhau được diễn ra tùy thuộc
vào từng cách CHO và NHẬN của mỗi Ngôi Vị. Có nghĩa là mỗi một Ngôi Vị “truyền
đạt” (communicate himself) cho Ngôi Vị khác với một cách thức rất riêng biệt chỉ
thuộc về Ngôi Vị đó.
Chúa CHA thể hiện bản chất của mình khi CHA hoàn
toàn trao tặng chính mình cho CON, tất cả những gì CHA là, tất cả những gì CHA
sở hữu. Với phương cách này, Chúa Cha thể hiện bản tính Thiên Chúa là Tình Yêu
TRAO TẶNG.
Chúa CON khi hoàn toàn đón nhận sự
Trao-Ban-Chính-Mình của CHA với lòng biết ơn, với lòng tôn trọng, với những gì
có trong con, Người thể hiện mình là Tình Yêu ĐÓN NHẬN, tình yêu ĐÁP TRẢ.
Chúa THÁNH THẦN đón nhận cả hai sự CHO và NHẬN
trong yêu thương của Chúa Cha và Chúa Con. Người thể hiện mình trong việc kết hợp
cả hai Tình Yêu Trao Ban và Tình Yêu Đón Nhận nên một Tình Yêu Duy Nhất, Tình
Yêu HIỆP THÔNG. Chúng ta có thể nói rằng: Chúa Thánh Thần có thể được xem như
là Bầu Khí nhân vị đầy yêu thương, Bầu Khí đó được tạo ra bởi sự trao ban của
CHA và sự đón nhận của CON, trong tình yêu.
Như vậy chúng ta có thể nói: Đời sống của Thiên
Chúa Ba Ngôi có sự chia sẻ sống động giữa các Ngôi Vị với nhau, sự chia sẻ đó
chính là việc Trao-Ban-Chính-Mình (self-communication) và đây là một quá trình
CHO và NHẬN từ lẫn nhau, được thực hiện bởi các Ngôi Vị. Tất cả ba sự
Trao-Ban-Chính-Mình này làm nên MỘT đời sống của Thiên Chúa. Từ sự chia sẻ sống
động này Thiên Chúa đi đến chia sẻ đời sống nội tại của mình với thế giới, với
con người.
2.3 Chiều Kích Truyền Thông trong Mặc Khải
của Thiên Chúa
Những gì là tuyệt hảo nhất, những gì là hoàn mỹ
nhất, những gì là chân thật nhất, được Thiên Chúa thể hiện qua việc tạo dựng
nên vũ trụ và đỉnh cao của việc tạo dựng là Chúa gọi con người từ hư vô đến với
hiện hữu trong trật tự tạo dựng của Thiên Chúa. Lời Chúa được phán ra trong hư
vô, trong một “mớ hỗn độn”, một trật tự thế giới được hình thành. Lời Chúa phán
ra con người được dựng nên trong trật tự đã được sắp xếp nơi Thiên Chúa, để nó
có thể sống trong đó[18].
Đặc biệt nhất, đó là con người được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa: điều này
cho con người một phẩm giá không thể thay thế hay mua bán được. Hơn nữa vì giống
hình ảnh Thiên Chúa, con người có khả năng sáng tạo, tổ chức và xây dựng đời sống
của mình. Giống hình ảnh Thiên Chúa con người có khả năng thể hiện mình, biểu lộ
mình. Con người không thể nào không truyền thông được[19].
Thiên Chúa tạo nên con người để nó được tham dự vào đời sống CHO và NHẬN của Ba
Ngôi, cũng như hưởng những ân sủng từ đời sống Hiệp Thông này.
Lịch sử Mặc Khải của Thiên Chúa có thể được xem
là một tường thuật về sự “truyền thông” của Thiên Chúa nơi dân tộc được Chúa chọn,
đó là dân tộc Israel[20].
Thiên Chúa ‘nói’ Lời của Ngài với con người, Người truyền đạt Lời của Chúa cho
người trong lịch sử cụ thể của nó. Con người khi nghe Lời của Chúa, cần có câu
trả lời cho Lời ấy[21].
“Dabar” được hiểu trong Kinh Thánh Cựu Ước là điều thoát ra khỏi môi miệng của
con người (Gr. 17:16; Ds. 30:13), nhưng trước khi dabar được nói ra, điều đó đã
nằm trong trái tim của người nói, đã được nhẩm đi nhẩm lại trong lòng của người
nói, đã được luôn nghĩ đến trong tư tưởng của người truyền đạt (St. 17:17; Tv.
14:1; Gr. 3:16; Is. 65:17). Với cách hiểu này, Lời của Đức Chúa trước hết được ấp
ủ trong tâm tư của Thiên Chúa, sau đó được biểu lộ truyền đạt cho con người. Lời
của Đức Chúa khi truyền đạt cho con người có 3 chiều kích: (1) con người có thể
hiểu được (cognitive), (2) mang tính sáng tạo với ý nghĩa là mang sự sống mới
cho con người (creative), (3) làm biến đổi con người (transformative). Điều này
xuyên suốt quá trình Mặc Khải của Thiên Chúa cho dân Do Thái.
Truyền thông của Thiên Chúa luôn có 4 khuôn mẫu
nhất định:
1.Từ lòng thương xót, từ tâm tình Chúa dành cho
con người, Người truyền đạt Lời của Đức Chúa với con người (điển hình như: St.
12:12, Xh. 3:7ff., và còn nhiều ví dụ khác trong Cựu Ước).
2.Lời của Đức Chúa tạo nên, đưa con người vào cuộc
sống mới và đồng thời tạo ra một trật tự mới để con người sống trọn vẹn nhân phẩm
của mình và sống chung với người khác, khi luôn luôn giữ liên lạc với Thiên
Chúa (điển hình St. chương 1 và 2, đặc biệt Xh. 20:1-17; trong thời lưu đày Is.
40:26; 45:12; 48:13).
3.Lời của Chúa biến đổi đời sống của từng cá
nhân, khi người đó đón nhận Lời và Thần Khí của Lời có một quyền năng tạo nên đời
sống cộng đoàn và củng cố đời sống đó.
4.Lời của Đức Chúa luôn đồng hành cùng cộng đoàn
qua những giai đoạn thăng trầm của đời sống.
Nhìn vào toàn cảnh Lời của Đức Chúa được mặc khải
cho dân tộc Israel, ta thấy sự Truyền Thông của Thiên Chúa có những đặc điểm
sau:
Khi truyền đạt Lời tới cho con người, Thiên Chúa
tạo điều kiện cho con người bước vào một tương quan đặc biệt với Thiên Chúa: có
khi giống như sự tương quan giữa chủ nhân và đầy tớ, có khi giống như tương
quan giữa người cha và con, có khi giống như một người bạn, có khi giống như
người chồng với người vợ, có khi giống như một người cố vấn, vv… Qua đó, Lời của
Đức Chúa cho con người một căn tính mới.
Lời của Thiên Chúa không có trừu tượng, nhưng được
truyền đạt cụ thể trong lịch sử và qua lịch sử của con người. Khi truyền đạt Lời
cho con người, Chúa dùng rất nhiều cách ví dụ như những hiện tượng thiên nhiên,
những kinh nghiệm của con người trong xã hội thời đó, những sự kiện lịch sử, những
thị kiến, những khoảnh khắc xuất thần, vv… Chúa dùng nhiều loại người khác nhau
để truyền đạt Lời ví dụ như các tư tế, những nhà thông thái, các tiên tri, các
vị vua, những người giàu có, những nhà nông, những người chăn cừu, phụ nữ cũng
như đàn ông… Lời được truyền đạt qua nhiều phương pháp như sấm truyền, những
câu chuyện, những lời dạy, những suy niệm, các bài thơ, những văn chương truyền
thống chuyển tải sự khôn ngoan trong đời sống con người như tục ngữ, dùng những
kho tàng văn hóa quý báu của các dân tộc láng giềng hay nói cách khác dùng kho
tàng văn hóa quý báu mà con người thu thập được qua nhiều thời gian, vv…
Cố Hồng y Carlo Martini, nhà thần học chuyên về
Kinh Thánh, khi còn là Tổng giám mục của Tổng giáo phận Milanô, đã suy niệm và
đề cập đến truyền thông dựa trên nền tảng Kinh Thánh. Những suy tư về truyền
thông của ngài được viết trong 2 lá thư mục vụ mở ra chương trình thảo luận học
hỏi và thực hành truyền thông trong 2 năm cho Tổng giáo phận Milanô[22].
Trong 2 lá thư đó, lá thư thứ nhất “Effata ‘Apriti’”, Martini xây dựng nền tảng
truyền thông trên mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và trên mầu nhiệm Mặc Khải; lá
thư thứ hai “Il Lembo del Mantello” chỉ ra một số nguyên tắc trong truyền
thông, và nhu cầu thiết yếu của việc đào tạo và giáo dục về truyền thông. Đặc
biệt, ngài đưa ra một số đặc điểm của Truyền Thông của Thiên Chúa[23]:
1.Truyền Thông của Thiên Chúa được chuẩn bị
trong thinh lặng và trong sự “bí ẩn” huyền nhiệm của Thiên Chúa (Ep 3,9), “… mầu
nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa, nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn
sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm
này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa” (Rm
16,25-26).
2.Truyền Thông của Thiên Chúa diễn tiến không ngừng
(progressive), sự kiện nối sự kiện (cumulative), được thực hiện trong lịch sử
(historical). Có nghĩa là Truyền Thông của Thiên Chúa không được thực hiện chỉ
trong một thời điểm lịch sử nào đó, nhưng nó bao gồm nhiều thời gian khác nhau,
nhiều sự kiện khác nhau. Vì thế, chúng ta phải “đọc” tất cả những sự kiện này với
những yếu tố thời gian của chúng để hiểu ý định Chúa muốn. Truyền Thông của
Thiên Chúa xảy ra trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, vì thế Chúa dùng nhiều cách
khác nhau để tỏ mình ra. Những sự kiện Chúa để xảy ra và Lời của Đức Chúa là
phương tiện truyền thông có liên hệ với nhau và giải thích cho nhau. Toàn bộ lịch
sử Mặc Khải cũng được gọi là lịch sử Cứu Độ được ghi lại trong Kinh Thánh và được
xem là một “Cuốn sách về Truyền Thông của Thiên Chúa”.
3.Truyền Thông của Thiên Chúa diễn tiến trong một
cách thức mang tính biện chứng. Truyền thông này không diễn ra từ sự vẻ vang
này đến sự huy hoàng khác, chỉ có ánh sáng mà không có bóng tối. Thật ra, đây
là một sự tiếp nối giữa các sự kiện có cả ánh sáng lẫn bóng tối. Chỉ có sự tìm
tòi kiên nhẫn cho việc khám phá toàn bộ quá trình của các sự kiện và của Lời của
Đức Chúa mới dẫn tới sự hiểu biết hoàn toàn về điều Chúa muốn truyền đạt. Điều
kiện đó là chúng ta phải có lòng ước muốn tìm kiếm và đón nhận những dấu chỉ
cho thấy sự hiện diện của Thiên Chúa, biết chuẩn bị tâm hồn để tiếp nhận thông
điệp của Người. Truyền thông thường đòi hỏi thời gian, sự khôn ngoan và sự tôn
trọng người khác.
4.Truyền thông mà Thiên Chúa thực hiện không đạt
đến sự toàn mỹ bao lâu việc này còn xảy ra trong thế gian. Chúng ta phải biết
phân biệt giữa truyền thông ở thế gian (in via), chúng ta là những khách hành
hương, và truyền thông trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa (in patria).
Truyền Thông mà Thiên Chúa thực hiện ở trong thế giới của chúng ta có giá trị
làm cho chúng ta “nếm thử” trước sự toàn mỹ của Thiên Chúa trong thời gian viên
mãn khi chúng ta được nhìn thấy Thiên Chúa như Ngài là (1 Ga 3,2). Vì thế, tất
cả mọi sự truyền thông dù có tốt đến đâu vẫn chưa được trọn vẹn khi chúng ta
nhìn vào sự hoàn tất mang tính cánh chung của Nước Thiên Chúa. Điều này cũng
nói lên rằng: trong thế gian này, chúng ta không bao giờ hiểu một cách trọn vẹn
người khác với cách thức mà họ sống và biểu lộ chính mình. Đó luôn luôn là một
điều bí ẩn, một lãnh vực không thể nào giải thích cho tận gốc được, chúng ta
cũng cảm nhận điều này trong chính con người của chúng ta.
5.Truyền thông của Thiên Chúa mang tính nhân vị
(personal), Thiên Chúa truyền ban chính mình chứ không phải là điều gì đó. Bất
cứ điều gì Chúa biểu hiện cho chúng ta đều là một dấu chỉ hay một biểu tượng của
thánh ý Chúa đó là Chúa trao ban chính mình là quà tặng lớn lao. Đồng thời Truyền
Thông của Thiên Chúa cũng mang tính liên nhân vị (interpersonal), Chúa tác động
đến chúng ta qua Lời của Người, điều này đòi hỏi nơi chúng ta sự chú ý, sự tiếp
nhận và lắng nghe. Nếu không có sự trả lời hay hồi đáp thì không có truyền
thông thực sự. Thiên Chúa hằng sống thức tỉnh chúng ta cảm nhận được niềm tin
và hy vọng.
6.Cuối cùng, Truyền Thông của Thiên Chúa bao hàm
tất cả mọi hình thức truyền thông mang tính liên nhân vị (interpersonal
communication). Truyền thông của Ngài chứa đựng thông tin tác động đến người nhận
và đồng thời là sự biểu lộ chính mình cho người nhận. Trong việc truyền thông của
mình, Thiên Chua thông tin cho con người về bản thân của Ngài, đồng thời Ngài
cũng tác động đến con người qua những lời hứa ban, qua những đe dọa và những cảnh
báo, nhưng tất cả những hình Chúa truyền đạt cuối cùng vẫn là sự biểu lộ chính
bản chất của Người cho con người thấy.
Tất cả Thiên Chúa làm với mục đích là cho con
người có một cuộc sống hoàn hảo hơn đúng với nhân phẩm nó được tạo dựng nên: giống
hình ảnh của Thiên Chúa. Xin xem biểu đồ trình bày toàn bộ quá trình truyền
thông của Lời ở dưới đây:
2.4 Truyền Thông của Thiên Chúa trong qua
Đức Giê-su Kitô: Sự kiện Thiên-Chúa-Làm-Người (Incarnation)
“Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã
phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên
Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ
trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người là phản ánh vẻ
huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời
quyền năng của mình mà duy trì vạn vật.” (Dt. 1:1-3)
Những lời dẫn nhập vào thư của Thánh Phaolô tông
đồ gửi cho các tín hữu Do Thái có thể được xem là một đúc kết ngắn gọn của việc
Truyền Thông của Thiên Chúa qua sự kiện Thiên-Chúa-Làm-Người (Incarnation). Tất
cả những gì tốt đẹp nhất, thiêng liêng nhất và chân thực nhất, mà Thiên Chúa ấp
ủ trong lòng mình, nay được Người CON là điều quý giá nhất của CHA, truyền tải
cho con người. Chúa Giê-su, với Ngôi Vị là CON, đã chia sẻ những điều ấy với
Cha trong đời sống của Ba Ngôi, nay tự mình mang đời sống này đến chia sẻ nhân
loại trên cương vị là con người như bao người khác. Điểm khác biệt duy nhất với
những người khác, chính là Người mang trong mình đời sống liên kết với Chúa Cha
và Chúa Thánh Thần. Vì thế, sự kiện Thiên-Chúa-Làm-Người được thực hiện qua
CON, nhưng là công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Có thể nói tất cả những khoảnh khắc trong toàn bộ
đời sống của Chúa Giê-su là truyền thông, có nghĩa là sự trao ban: bối cảnh được
sinh ra trong nghèo khó, những năm ẩn dật ở Na-gia-rét, thân phận là con của một
ông thợ mộc, 40 ngày thử thách trong sa mạc, những chối bỏ, khinh thị đến từ
người khác khi rao giảng Nước Trời, và Cuộc Khổ Nạn, cái chết trên Thánh Giá. Tất
cả những sự kiện trong đời sống của Chúa Giê-su nơi trần thế cho chúng ta thấy
Người đã “nói” gì với chúng ta[24].
Tác giả chỉ sơ lược dưới đây những chiều kích truyền thông căn bản của Chúa
Giê-Su trong thời gian ở với con người với thân phận, hình ảnh cụ thể của con
người (con người thật) và với trái tim yêu thương của Thiên Chúa Cha, được liên
kết bởi Chúa Thánh Thần (Thiên Chúa thật)[25].
Khi hòa mình vào dòng người chịu phép rửa sám hối
bởi Gioan Tẩy Giả, Chúa Giê-su đã hòa mình vào dòng người đang đi tìm kiếm
Thiên Chúa để thoát ra khỏi khủng hoảng xã hội, chính trị, tôn giáo thời đó.
Chúa đồng hành cùng với những người này trong việc họ tìm kiếm cái Chân, Thiện,
Mỹ đến từ Thiên Chúa. Việc chịu phép rửa tội là để họ tẩy rửa những gì là “nhơ
bẩn” đã che mắt họ không còn có thể tìm ra những Chân, Thiện, Mỹ ấy. Chúa
Giê-su đến từ nguồn của Chân, Thiện, Mỹ muốn gần gũi họ và chia sẻ đời sống với
họ.
Chúa Giê-su đến với con người với tư cách là người
giới thiệu và quảng bá Nước Thiên Chúa. Chúa thực hiện việc này qua lời rao giảng,
qua các việc chữa lành, làm phép lạ, qua đời sống của Chúa. Chúa rao truyền cho
con người như là một thầy dạy tuyệt hảo. Trong Tám Mối Phúc Thật, Người đã công
bố Nước Thiên Chúa một cách ngắn gọn xúc tích để con người có thể nhớ được, dễ
thấm nhuần và sống chương trình của Nước Thiên Chúa (Mt 5:1-12; Lc. 6:20-26).
Chúa sử dụng tâm tình của người nghe, những giá trị căn bản được thừa nhận
trong bối cảnh văn hóa xã hội và tâm linh của họ được nhắc đến để giải thích và
hướng họ đến giá trị và trọng tâm của Nước Chúa. Người đã không bỏ đi những giá
trị đó nhưng hoàn thiện nó với thông điệp của Người (Mt. 5:17). Nơi nào Chúa đến,
thì Chúa không bỏ qua cơ hội để quảng bá Nước Thiên Chúa. Chúa còn dùng những
ví dụ và những câu chuyện trong đời sống hằng ngày, những sự kiện xảy ra trong
xã hội để con người có thể mường tượng được hình ảnh của Nước Thiên Chúa như thế
nào: người con bỏ nhà đi xa, người khách bộ hành bị cướp dọc đường, người tìm
được kho báu, người nông dân gieo hạt, người chủ thuê thợ làm công, người phụ nữ
ủ bột làm bánh, những sự kiện xã hội, chính trị cũng được Chúa sử dụng đến
trong việc giải thích hay hướng dẫn. Nếu như những lời dạy của Chúa Giê-su làm
cho con người biết và hiểu về Nước Thiên Chúa, thì những lần chữa lành bệnh tật,
sự quan tâm của Người dành cho những người bị loại ra bên lề xã hội là những bằng
chứng cụ thể Chúa muốn đưa con người đến với Chúa Cha, cảm nghiệm được sự hiện
diện của Thiên Chúa trong đời họ.
Trong bữa Tiệc Ly, với sự hiện diện đầy thân
tình và yêu thương của Chúa, với lời truyền đạt đầy thân thương, sâu sắc “Này
là Mình Ta”, “Này là Máu Ta”, Chúa Giê-su không phải chỉ cử hành nghi thức truyền
thống mà một người cha người Do Thái phải làm trong lễ Vượt Qua. Với Chúa
Giê-su ở đây không còn là nghi thức thông thường, nhưng là một khoảnh khắc
thiêng liêng sâu đậm, gần gũi thân thương với người đồng bàn. Sự hiện diện
thiêng liêng này mang lại cho các môn đệ cảm xúc được tiếp xúc thật gần gũi với
đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi mà Chúa Giê-su muốn chia sẻ qua suốt cuộc đời
rao giảng và hoạt động của Người. Vì thế, Chúa Giê-su được gọi là “người truyền
thông hoàn hảo” (trong bản dịch tiếng Đức: Người được gọi là Bậc Thầy về truyền
thông)[26].
Bởi vì, truyền thông nơi con người của Chúa Giê-su là điều gì đó “hơn hẳn việc
biểu tả những ý tưởng và biểu hiện của cảm xúc. Ở mức độ sâu xa nhất, đó là sự
trao ban chính mình trong tình yêu. Truyền thông của Đức Kitô, thật vậy, hàm chứa
thần khí và sự sống.”[27]
Điều mà Chúa muốn truyền ban cho các môn đệ
trong bữa Tiệc Ly, được minh chứng và thể hiện nơi cây Thánh Giá. Có thể nói,
Thánh Giá là một “Cử Chỉ” tối hậu của Tình Yêu Thiên Chúa trao ban cho con người.
Cử chỉ ấy nói CÓ, nói lời đón nhận con người, đối với sự từ chối KHÔNG, khi con
người không chấp nhận Thiên Chúa. Thánh Giá chính là hành động đến từ Thiên
Chúa để tỏ cho con người biết sự trung tín của Ngài, nhưng cũng là hành động đến
từ con-người-thật Giê-su hướng về Thiên Chúa, mang đến cho Thiên Chúa Cha tất cả
những giới hạn của con người trong đời sống tương quan 3 chiều Tôi – Thiên Chúa
– Người Khác, đời sống đòi hỏi việc Cho và Nhận đi đến chỗ giới hạn tột cùng là
sự Chết. Tuy vậy, Thiên Chúa là Người nói câu cuối cùng quyết định tất cả: Người
nói Lời Sự Sống.
Nói tóm lại, Lời của Đức Chúa trong Cựu Ước, qua
con người của Chúa Giê-su trở thành máu thịt (Ga 1:14), trở thành con người thật
mà loài người có thể chạm đến, nhìn thấy, hiểu được, và cảm nhận được[28].
Sự truyền thông của Chúa Giê-su chính là sự trao ban đời sống thần linh của
Thiên Chúa Ba Ngôi cho con người. Những người tìm kiếm Thiên Chúa, tìm kiếm sự
thông hiểu về đời sống con người và ý nghĩa của nó được Chúa Giê-su hướng dẫn,
chỉ đường qua những kinh nghiệm và hiểu biết của con người, để rồi hướng họ về
sự nhận biết Thiên Chúa trong những sự kiện của đời sống. Đặc biệt sự kiện
Thiên-Chúa-Làm-Người nơi Đức Kitô không phải là sự truyền tải thông tin về
Thiên Chúa và những đòi hỏi của Chúa đối với con người. Trên hết, qua con người
Đức Kitô, con người hiểu được họ là ai trong sự tương quan với Thiên Chúa: Họ
là một nhân vị tự do, được Thiên Chúa yêu thương, và được Thiên Chúa mời gọi sống
trong hiệp thông với Ngài và qua đó sống trong hiệp thông với người khác. Với
tinh thần và với cách thức sống như Chúa Giê-su, con người có thể trải nghiệm sự
kiện Hiện Xuống mới, là được Chúa Thánh Thần “đả thông” và hướng dẫn, con người
vượt qua những giới hạn của mình hướng đến Thiên Chúa và tha nhân. Đây chính là
ơn gọi chung cho tất cả mọi Kitô hữu[29].
2.5 Giáo Hội – Hình Ảnh của Thiên Chúa Ba
Ngôi: Một thực tại mang tính truyền thông
Nếu nói Giáo Hội là Hình Ảnh của Thiên Chúa Ba
Ngôi thì sự xác tín này nói lên tính truyền thông có trong bản chất của Giáo Hội.
Giáo Hội được sinh ra dựa trên nền tảng của sự Trao-Ban-Chính-Mình của Thiên
Chúa. Theo hiến chương của Công Đồng Vatican II “Lumen Gentium”: trong Đức
Kitô, Giáo Hội là bí tích hoặc là “dấu chỉ và phương tiện” của sự hiệp nhất sâu
xa với Thiên Chúa và với loài người[30].
Nói một cách khác: qua sự hiện diện của Giáo Hội, người ta nhìn thấy được sự hiệp
thông giữa Thiên Chúa và con người, và giữa con người với nhau; qua hoạt động của
Giáo Hội con người có cơ hội cụ thể để bước vào đời sống hiệp thông với Thiên
Chúa. Vì thế, ta có thể sử dụng câu nói của Avery Dulles: “Giáo Hội là Truyền
Thông.”[31]
Nhà thần học này giải thích thêm: “Giáo hội là một mạng lưới truyền thông rộng
lớn, được thiết lập nên để đưa con người ra khỏi sự cô lập và lạc loài, và để
đưa họ, theo từng cá nhân hay từng nhóm, vào hiệp thông với Thiên Chúa, trong Đức
Kitô.”[32]
Jürgen Werbick, một nhà thần học người Đức cũng có cái nhìn về căn bản tương tự
như Dulles trong lập luận của ông, đối với nhà thần học này thì khi sống hiệp
thông với Thiên Chúa và giữa các thành viên của mình giáo hội thể hiện mình như
là một văn hóa (sống) mới và có tính truyền thông đặc biệt giữa nhân loại[33].
Trong giáo hội học chúng ta có được những khái
niệm Communio/Koinonia. Hai trạng thái Communio hoặc Koinonia chính là sự biểu
lộ rõ rệt và có thể cảm nhận được của đời sống “văn hóa mới có tính truyền
thông đặc biệt” mà Werbick đã đề cập đến. Hiệp thông dưới cái nhìn về Communio
hoặc Koinonia chính là chúng ta chia sẻ, trao truyền cho nhau cái quý giá nhất
mà chúng ta có: đó là đời sống Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta như Người
đang chia sẻ cho nhau trong Ba Ngôi và như Chúa Con đang chia sẻ một cách đặc
biệt trong Giáo Hội cho con người. Sự chia sẻ này có thể được định dạng trong
ba chiều kích truyền thông căn bản của Giáo Hội: Làm Chứng (martyria), cử hành
Phụng Vụ (leiturgia), và thực hành các Công Việc Bác Ái (diakonia)[34].
Từ ba chiều kích truyền thông căn bản này, Giáo
Hội có thể khai triển rộng ra những hình thức truyền thông riêng biệt cho những
hoàn cảnh và những trường hợp khác nhau, trong công tác mục vụ cũng như trong
các hoạt động truyền giáo. Cũng giống như Chúa Giê-su, mục đích chính của truyền
thông của Giáo Hội không phải là đem thông tin về Thiên Chúa, về Chúa Giê-su đến
cho người khác, nhưng qua chính đời sống của nhà truyền thông, Giáo Hội đem thực
tại của Nước Chúa đến cho người khác, chia sẻ đời sống hiệp thông với Thiên
Chúa, mở lòng đón nhận người khác bước vào sống trong thực tại này, từ đó chính
bản thân của họ cũng có thể làm được như những người đã chia sẻ cho họ.
3. Học Thuyết Xã Hội Của Giáo Hội Công
Giáo Trong Mối Liên Hệ Với Truyền Thông Công Giáo
3.1 Những Vấn Đề Căn Bản trong Học Thuyết
Xã Hội Công Giáo
Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo là một
kho tàng quý giá về sự hiểu biết và những kinh nghiệm khôn ngoan cho con người
biết nên làm thế nào để xây dựng một xã hội công bằng và để sống nên thánh giữa
những biến đổi của xã hội hiện đại. Học thuyết này được hình thành từ những văn
bản của các Đức giáo hoàng, những văn bản của các công đồng chung, và của các hội
đồng giám mục trên toàn cầu. Chúng ta cần phải đọc và suy tư thật kỹ lưỡng mới
có thể nhận ra được những tư tưởng sâu sắc và phong phú của các ngài, chứ không
thể lướt qua những cấu trúc và nội dung của nó trên phương diện nghiên cứu học
thuật. Tác giả chỉ xin nhấn mạnh một số đề tài quan trọng của Học Thuyết Xã Hội
Công Giáo và liên hệ những đề tài đó với những yếu tố căn bản của Truyền Thông
Kitô Giáo.
Cuộc sống và nhân phẩm của cá nhân con người:
Giáo Hội Công Giáo xác tín và nhận định rằng, cuộc sống của con người là thiêng
liêng, và nhân phẩm của con người, được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa, là nền
tảng đạo đức trong việc xây dựng xã hội.
Con người là một nhân vị riêng biệt, nhưng được
tạo nên để sống đời sống liên kết trong gia đình, trong cộng đồng, xã hội và nhất
là sống trong tương quan với Thiên Chúa. Xã hội phải hỗ trợ nó trong đời sống
tương quan này như thế nào để con người có thể tích cực đóng góp phần mình cho
xã hội.
Con người phải được bảo đảm những quyền con người
qua xã hội và phải có những trách nhiệm gì đối với xã hội.
Giá trị của những đóng góp cá nhân qua công việc
để xây dựng xã hội và những quyền của người lao động.
Tình liên đới với những người nghèo khó và những
người dễ bị đẩy ra bên lề xã hội, xa hơn nữa tình liên đới với những quốc gia,
dân tộc nghèo, kém phát triển.
Trách nhiệm bảo vệ công trình tạo dựng của Thiên
Chúa: trách nhiệm bảo tồn trái đất, bảo vệ môi trường.
Mục đích của Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công
Giáo cho thấy rõ ràng: Giáo hội trình bày cái nhìn của mình về con người và xã
hội, giáo hội đề cao những giá trị cổ võ và hỗ trợ cho đời sống con người và xã
hội. Giáo Hội nhắc nhở cho các thành viên của mình về sứ vụ sống ơn gọi Kitô hữu
trong những vấn đề liên quan đến con người và xây dựng xã hội dưới ánh sáng của
Đức Tin Công Giáo. Nếu nhìn vào những điều căn bản của Học Thuyết Xã Hội của
Giáo Hội Công Giáo, thì việc quảng bá học thuyết này gắn liền với việc Truyền
Thông Xã Hội mang tính Công Giáo, đã được trình bày ở trên. Để cho mọi người biết
Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, chúng ta thấy có rất nhiều phương cách để thực
hiện. “Truyền Thông” mà Chúa đã làm nơi dân tộc Chúa chọn, đặc biệt nơi con người
của Đức Kitô, có nhiều hình thức, nhiều cách thức, được lựa chọn trong nhiều bối
cảnh xã hội khác nhau. Vấn đề chính không nằm ở trong cách truyền thông, nhưng
nằm ở chỗ con người truyền thông. Chúng ta cần có những con người truyền thông
có tinh thần như Chúa Giê-su, có tâm tư thao thức cho con người, cho xã hội và
cho Giáo Hội, đồng thời những con người đó phải có trình độ hiểu biết về những
vấn đề xã hội, tâm linh, tâm lý, cũng như có khả năng sử dụng những phương tiện
truyền thông một cách linh hoạt và sáng tạo. Việc này cần có một chương trình
đào tạo.
3.2 Truyền Thông Xã Hội của Giáo Hội Việt
Nam: Một Cái Nhìn Sơ Lược
Theo cái nhìn cá nhân của tác giả, cho đến nay
chưa có một nghiên cứu nào vừa rộng vừa sâu về hoạt động truyền thông của Giáo
Hội Công Giáo Việt Nam, có thể với thời điểm hiện nay cái nhìn này quá mang
tính chủ quan. Nếu xét truyền thông theo những yếu tố đã được trình bày ở các
phần trên (martyria, leiturgia, và diakonia), truyền thông Công Giáo ở Việt Nam
được thực hiện qua việc cử hành các thánh lễ, dạy giáo lý, các khóa học cho
giáo lý viên, những dịp hội họp lớn cho giới trẻ, các nhóm sinh hoạt, các khóa
hôn nhân, những công việc từ thiện như phát quà, khám bệnh cho người nghèo, những
hoạt động có tính nghệ thuật trong các ngày lễ lớn, những ngày kỷ niệm, vv… được
tổ chức:
Trong các giáo xứ
Ở các điểm mục vụ hay truyền giáo của các cộng
đoàn dòng tu,
Nơi các trung tâm mục vụ (thuộc giáo phận, cũng
như thuộc các nhà dòng), từ một vài năm gần đây,
Qua những hoạt động đặc thù của các giáo phận, với
những hoàn cảnh khác nhau của từng giáo phận, ví dụ như mục vụ di dân, mục vụ
cho người nghèo, người khuyết tật, người bị nhiễm HIV, truyền giáo cho đồng bào
dân tộc thiểu số, vv…
Cũng cần phải nói rằng Giáo hội Công Giáo ở Việt
Nam còn bị giới hạn trong phát hành sách báo, phim ảnh, giới hạn trong truyền
thông qua những phương tiện hiện đại như Radio, TV, Cyber Space, Apps, etc… Có
những hoạt động còn mang tính truyền thống, giới hạn trong giáo xứ, có những hoạt
động chỉ được biết đến giữa những nhóm những thành viên quen biết nhau, ví dụ
như những nhóm người lao động, sinh viên xa quê (mục vụ di dân). Họ gặp gỡ chia
sẻ thông tin hữu ích cho những người mới, an ủi nhau trong hoàn cảnh xa nhà, mở
trang mạng để dễ liên lạc với nhau. Có những nhóm thiện nguyện mở quán ăn cho
người lao động với mức lương thấp, đi giúp tặng quà, khám bệnh cho người nghèo
được tổ chức một cách tự phát, tác giả có gặp gỡ một số nhóm và được họ CHO những
kinh nghiệm về đời sống về niềm tin rất quý báu. Nhưng ít người biết đến họ.
Cách truyền thông này là cách truyền thông qua các hoạt động cụ thể, đề cao
tình người, đề cao giá trị con người. Đây không phải là điều mà Học Thuyết Xã Hội
muốn đạt đến hay sao?
Nhìn chung có rất nhiều hoạt động “truyền
thông”, nhưng chúng ta biết đến các hoạt động đó hay không? Chúng ta biết họ hoạt
động như thế nào? Có những thành công nào hay có những khó khăn gì? Chúng ta có
nhận ra được họ đóng góp cụ thể điều gì cho xã hội và cho việc giới thiệu và
xây dựng giáo hội? Họ cần nơi chúng ta điều gì? Một số nghiên cứu sâu sẽ giúp
cho Giáo Hội có một cái nhìn cụ thể, có một bức tranh cụ thể về những hiện tượng
và hoạt động truyền thông đang diễn ra. Từ đó, chúng ta hy vọng có thể đóng góp
vào việc hỗ trợ và phát triển những hoạt động truyền thông trong mục vụ, cũng
như trong công việc truyền giáo hay trong các việc bác ái của Giáo Hội. Chúng
ta cần phải làm gì? Người khác có hiểu cách truyền đạt của chúng ta hay không?
Chúng ta cần phải thay đổi điều gì trong cách thức truyền thông của chúng ta hiện
nay? Việc này không chỉ dừng lại ở cảm nhận, nhưng phải được suy xét, nghiên cứu
kỹ lưỡng.
4. Hoàn Cảnh Xã Hội ở Việt Nam và Tác Động
Của Nó Trong Truyền Thông Xã Hội: Một Vài Nét Sơ Lược
Sự thay đổi về cấu trúc xã hội của Việt Nam được
tạo nên bởi quá trình phát triển các thành phố công nghệ. Những trung tâm công
nghiệp do người nước ngoài làm chủ được xây dựng, đặc biệt ở 2 thành phố lớn Hà
Nội và Sài Gòn, cũng như các thành phố đang phát triển, kéo theo những thay đổi
đậm nét trong cơ cấu trúc xã hội ở Việt Nam.
Khi các thành phố có các khu công nghiệp lớn đón
tiếp làn sóng người lao động ở các địa phương khác đến tìm việc, họ cũng đồng
thời tiếp xúc với những cách sống, những nét văn hóa khác với môi trường của
mình, và họ phải học cách thích ứng với những người khác biệt này. Dẫn đến có
nhiều mối liên hệ mới khác với những liên hệ họ đã quen nơi địa phương mình. (Liên
quan đến mục vụ giáo xứ, mục vụ cho người di dân)
Đối với những địa phương có nhiều người phải rời
đi tìm việc hay đi học ở phương xa, có sự gián đoạn giữa các thế hệ, chỉ còn có
người già và trẻ em ở địa phương, thế hệ trẻ không còn bao nhiêu, thậm chí biến
mất. Họ không còn hiện diện để dung hòa hai thế hệ già và trẻ em. (Liên quan đến
mục vụ giáo xứ)
Những người trẻ phải đi xa kiếm việc hay đi học
có những thay đổi về môi trường sống, đặc biệt về văn hóa và nếp sống. Họ không
còn sống trong cộng đồng quen thuộc với những nét sinh hoạt đã định hình trong
đời sống thường ngày, với những nét văn hóa, những giá trị họ thường biết qua.
Trong môi trường mới, họ mất đi thế giới quen thuộc của mình và cũng không hoàn
toàn là một thành phần ở nơi cư ngụ mới. Họ sống giữa hai thế giới. Một nếp sống
với được hình thành với những nét văn hóa mới, họ tự lựa chọn những điều phù hợp
với mình và tổng hợp với những gì mà họ đã quen biết trước tạo thành một văn
hóa và nếp sống của riêng họ. (Mục vụ giáo xứ, mục vụ đặc biệt)
Xã hội hiện đại mở ra cho con người nhiều cánh cửa
hướng đến thế giới bên ngoài, đặc biệt là sự phát triển về kỹ thuật giúp cho việc
truyền thông xã hội của con người mở rộng ra hầu như không còn giới hạn nào cả.
Internet, mạng xã hội, ứng dụng công nghệ của điện thoại thông minh, đã tạo ra
những mạng lưới truyền thông ảo, hoàn toàn khác với những mạng lưới xã hội mà
con người đã quen biết trước như gia đình, làng xóm, khu phố, cộng đoàn, nhóm,
bạn học, vv… Qua thế giới ảo con người thu thập thêm những kiến thức, những
thông tin, những giá trị mới hay có thể khác với những gì trước đây họ đã học,
đã biết, đã chia sẻ. Trên mạng xã hội, trong thế giới ảo, không có một hệ thống,
thẩm quyền nào có thể định hướng, kiểm soát, hay thanh lọc những thông tin được
truyền tải, những giá trị được chia sẻ, những kiến thức được truyền bá với tốc
độ nhanh chóng và phạm vi rộng rãi.
Số lượng khổng lồ của những thông tin, thông điệp
(tích cực, cũng như tiêu cực), những giá trị chưa được thẩm định và đồng tình,
liên tục đến với người “lướt mạng”. Phần lớn, người ta không có đủ thời gian,
kiến thức vững vàng, và kinh nghiệm từng trải để tiêu thụ số lượng thông tin khổng
lồ này và họ chọn lựa những thông tin nào họ thích, giá trị nào “hợp” với họ và
coi đó là những kiến thức và kinh nghiệm họ học hỏi thêm được. Các nhà nghiên cứu
xã hội, từ năm 1990 trở đi, đã đề ra một khái niệm một “xã hội mang tính chọn lựa”
(selective society). Vì không thể tiêu thụ hết được những gì đang truyền tải
hay quảng bá trong xã hội, cá nhân đã phải tự chọn ra những điều họ cảm thấy
“phù hợp” với cuộc sống của mình và không quan tâm đến điều khác.
Bức tranh chung và còn rất sơ lược của những hiện
tượng thay đổi trong xã hội trên chính là thách đố của con người ngày nay. Theo
James Lull, những biến đổi đó đặt con người vào trong một tình huống ứng đối là
tạo ra một cách thức sống mới trong xã hội hiện đại: phối hợp giữa cái mới và
cái cũ. Trong một mớ hỗn độn của những thông tin, những giá trị mới và khác lạ,
đến từ những vùng và những nguồn văn hóa khác, con người ngày hôm nay là phải
mò mẫm, tổng hợp lại và tìm ra những cách thức để phối hợp với những gì có trong
một môi trường xã hội mà cá nhân con người đó đã quá quen thuộc, những điều được
gia đình, tôn giáo, xã hội và truyền thống dân tộc đã từng truyền tải cho người
đó[35].
Chịu nhiều ảnh hưởng nhất đó là những người trẻ.
Để có thể truyền bá và thực hiện Học Thuyết Xã Hội
của Giáo Hội Công Giáo một cách có hiệu quả, thiết nghĩ, chúng ta phải có ý thức
về những biến đổi này. Chúng ta phải biết đến hoàn cảnh xã hội của những người
chúng ta muốn giới thiệu những giá trị của Giáo Hội Công Giáo trong việc hỗ trợ,
xây dựng đời sống con người và trong những nỗ lực để phát triển xã hội. Chúng
ta phải biết đến những nhu cầu thiết thực nhất mà những con người đó đang tranh
đấu, vật lộn với cuộc sống để đạt đến.
Excursion: Một
Thoáng Nhìn Về Hoạt Động Online của Giáo Hội Trong Xã Hội Việt Nam
Theo thống kê của Internet World Stats về sử dụng
Internet ở Việt Nam vào tháng 6 năm 2017, Việt Nam có 64.000.000 người dùng mạng
Internet, cũng với số lượng đó là những người đang sử dụng Facebook trong tổng
số 95.414.640 người dân, tức là chiếm khoảng 67,1% dân số[36].
Có số lượng người dùng Facebook đứng thứ 3 châu Á[37].
Có một số mạng xã hội đã được thiết kế cho người
dùng ở Việt Nam, có lẽ mạng lớn nhất hiện nay là Zing Me. Zing Me đem đến nhiều
dịch vụ cho người dùng như Blog tiếng Việt, điện thư, tin tức, âm nhạc phim ảnh
để giải trí, trò chơi điện tử, etc. Mới đây còn có thêm ứng dụng App cho điện
thoại thông minh[38]. Phần lớn người dùng mạng
xã hội nhắm vào tìm kiếm thông tin, kiến thức, giải trí, tìm bạn, và chia sẻ ý tưởng.
Một số nhắm vào mục đích giao thương.
Theo tác giả tìm kiếm thì Giáo Hội Việt Nam, xét
theo cơ cấu căn bản, gồm có Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, các giáo phận, và một số
cơ cấu quan trọng, đã liệt kê trên trang Website của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
37 trang webs chính (bao gồm cả web của HĐGM)[39].
Tác giả cũng có biết một số trang webs khác của các dòng tu, các trung tâm mục
vụ, một số giáo xứ, nhưng chưa có tập trung thống kê ra có bao nhiêu trang webs
tương tự.
Nếu chỉ nhìn lướt qua các trang webs được kể
trên, chúng ta dễ dàng nhìn ra cấu trúc chung của các trang webs này:
Tin tức Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin tức giáo phận, giáo xứ, hay dòng tu
Suy niệm hay bài giảng ngày Chúa Nhật
(Audio/Video), Suy niệm Lời Chúa hằng ngày
Một số trang có đưa lên những tài liệu của Giáo
Hội Công Giáo như các tài liệu giáo huấn, tài liệu Công Đồng Vatican II, etc.
Một số có giới thiệu các tài liệu giáo lý
Thông tin về các hoạt động, những sự kiện đặc biệt
của từng giáo phận, giáo xứ, dòng tu, trung tâm, etc.
Muốn biết tin tức của Giáo Hội hoàn vũ, ta chỉ cần
đọc trong một trang web. Có những bài suy niệm Lời Chúa, có thể tìm thấy trên
trang web này hay trang web khác (không biết trang nào lấy của trang nào).
Tương tự người ta có thể tìm được một vài câu chuyện chia sẻ trên trang web nọ
giống với trang web kia (hình như đây là hiện tượng copy and paste).
Ngôn ngữ sử dụng vẫn là ngôn ngữ cho người đã
quen với cách nói trong Giáo Hội, tức là những người thường xuyên đến nhà thờ,
những người thường xuyên nghe và đọc những tài liệu, những văn bản hay những
bài giáo lý đã thường được nghe. Thêm nữa có những bài suy niệm, giáo lý rất
dài, điều mà tác giả thấy rằng chúng ta cần phải biết ngôn ngữ viết trên báo mạng
ngày nay thường rất ngắn gọn, xúc tích, chỉ truyền đạt nội dung chính của thông
điệp (không làm thơ, tả cảnh), nguyên nhân là người ta “lướt web” chứ không “đọc
web”, việc này hoàn toàn khác với việc đọc một cuốn sách, một tường thuật hay
ký sự trên báo giấy.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhận định:
“Mạng lưới Internet, hiểu theo nghĩa của thời
Rô-ma cổ (forum Romanum), rõ ràng là một địa điểm công cộng, nơi mà những vấn đề
chính trị, thương mại được trao đổi, nơi những nhiệm vụ mang tính tôn giáo được
hoàn tất, nơi có nhiều yếu tố về đời sống xã hội (của địa phương đó) đang diễn
ra, và nơi mà những điều tốt đẹp nhất và tệ hại nhất của bản chất con người được
biểu lộ. Nó như là một không gian đô thị với số lượng lớn người tuôn về đó và
nó phản ảnh lại nền văn hóa đang hiện diện đồng thời tạo nên một nền văn hóa
riêng biệt của mình.”[40]
Cũng chính vị giáo hoàng này đã từng nhắc nhở
trong Thông Điệp “Redemptoris Missio” vào năm 1990 rằng:
“Những phương tiện truyền thông xã hội đã trở
nên rất quan trọng như là những phương tiện chính cho truyền thông và giáo dục,
cho việc định hướng và hình thành nên những hành vi của cá nhân, gia đình cũng
như xã hội nói chung.”[41]
Vì thế, ngài đã nhấn mạnh:
“Sẽ không đủ, nếu như chúng ta sử dụng những
phương tiện truyền thông để quảng bá thông điệp của Kitô giáo cũng như những
giáo huấn của Giáo Hội. Điều cần thiết là chúng ta cũng phải để thông điệp (của
chúng ta) thấm nhuần vào nền văn hóa đó. Đây là một vấn đề phức tạp, bởi vì nền
văn hóa này được sinh ra không chỉ đơn giản từ nội dung mà rốt cuộc nó muốn biểu
đạt, nhưng từ một thực tế là nó chứa đựng những phương pháp truyền đạt mới, với
những ngôn ngữ mới, những cách thức mới và tâm lý mới.”[42]
Chúng ta chưa có thực hiện những khảo cứu ai là
những người ghé thăm trang mạng này hoặc trang mạng kia, có thường xuyên hay
không, họ có ý kiến gì về bài này hoặc bài nọ, họ thích hay không thích mục này
hay mục kia và vì sao. Chúng ta sử dụng những trang mạng vì đó là phương tiện
tiện lợi trong việc phát đi thông tin và lưu trữ những dữ liệu để người khác, nếu
họ muốn, có thể vào được. Đây vẫn còn là trạng thái của Web 1, Web 2 là trạng
thái tương tác, có nghĩa là tiếp xúc với đối tượng truyền thông và có tác động
hỗ tương với nhau. Hiện nay, có một số nơi người ta còn đang cố gắng phát triển
Web 3, và một số người còn có kỳ vọng hướng đến Web 4 trong tương lai.
5. Những Suy Tư Trên Phương Diện Truyền
Thông Kitô Giáo
Truyền thông trong Thiên Chúa Ba Ngôi dạy cho
chúng ta biết tôn trọng lẫn nhau. Việc chia sẻ của chúng ta không phải là sự
ban ân cho những người thiếu thốn, nhưng chúng ta cảm nhận cái quý giá của đời
sống liên kết với Thiên Chúa và đời sống ấy đã cho chúng ta điều gì, chúng ta
cho người khác điều đó. Chỉ có khi nào chúng ta cảm nghiệm được trong tận thâm
sâu của tâm hồn sức sống, sức mạnh và sự bình an mà Thiên Chúa ban, chỉ khi đó
chính cảm nghiệm này thúc đẩy chúng ta: Hãy chia sẻ nó! Khi tâm hồn chúng ta
tràn đầy niềm vui, được lấp đầy bởi sức sống dồi dào, chúng ta tự động chia sẻ
cảm nghiệm này cho người khác.
Chúng ta cũng học biết đón nhận những gì người
khác trao cho chúng ta, những gì có trong họ, trong đời sống của họ, những gì
đang đánh động họ, đang khuấy động tâm tư của họ. Dù kinh nghiệm của họ khác,
nhưng họ chỉ có thể chia sẻ với chúng ta điều họ có. Thái độ lắng nghe cũng là
một cách truyền thông. Ngày nay, trong các nghiên cứu khách hàng của các công
ty truyền thông, người ta thường chú trọng đến việc hướng về người nghe
(audience-oriented), trong lãnh vực tâm lý hay tư vấn người ta sử dụng những ý
tưởng như hướng về người bệnh (client-oriented) hay hướng về cá nhân/nhân vị của
người bệnh (person-centered). Hy vọng người truyền thông Kitô giáo thực sự biết
mình nên chia sẻ điều gì, đồng thời nên biết đối tượng mà mình chia sẻ là ai. Họ
không phải là đối tượng chỉ thụ động tiếp nhận những thông tin, hay kiến thức của
chúng ta, nhưng họ có quyền chia sẻ cảm nhận và kinh nghiệm của họ. Với cách
chia sẻ của chúng ta và với những gì chúng ta chia sẻ, người khác cảm nhận được
họ có giá trị gì trong mắt của chúng ta (nhân phẩm con người).
Từ việc tôn trọng đối tượng mình muốn chia sẻ
truyền đạt, chúng ta sẽ dễ dàng tiếp xúc và gần gũi với những người đó. Từ việc
gần gũi tiếp xúc trao đổi, chúng ta sẽ mau chóng học biết được phương tiện nào,
và cách thức nào là tốt nhất để truyền đạt chia sẻ cách hiệu quả nhất với những
người này. Truyền thông trong Cựu Ước cho chúng ta thấy chúng ta phải biết những
phương cách mà con người trong xã hội đang sử dụng để truyền đạt, bối cảnh văn
hóa mà họ đang sống, những kiểu mẫu truyền thông họ hay sử dụng nhất trong các
quan hệ. Điều này đòi hỏi chúng ta phải biết và hiểu những đối tượng mà chúng
ta muốn chia sẻ (loại người, tuổi tác, trình độ giáo dục, ngôn ngữ thích hợp).
Thêm vào đó, các ngôn sứ dạy chúng ta biết ý thức những gì đang xảy ra trong xã
hội chúng ta, những gì đang làm xã hội thay đổi (tích cực hay tiêu cực), sau đó
chúng ta biết suy tư và tìm hiểu về những biến đổi này dưới ánh sáng của Lời
Chúa, và rồi chia sẻ những giá trị xây dựng cá nhân và cộng đồng con người với
mục đích phát triển con người và xã hội. Truyền thông Công Giáo có tính ngôn sứ
nằm ở chỗ: (1) chúng ta học để biết đọc những sự kiện xã hội, (2) chúng ta biết
phân tích chúng dưới ánh sáng của Lời Chúa, (3) chúng ta đưa ra những thông điệp
hỗ trợ hay đưa ra những nhận định giúp người khác nhìn lại, kiểm định lại đời sống
của mình.
Truyền Thông trong tinh thần Đức Kitô thể hiện tất
cả những điều trên. Hơn nữa nó phải thấm nhuần hoàn toàn tâm hồn của con người
truyền thông.
Bắt đầu bằng sự liên kết mật thiết với Thiên
Chúa. Đây chính là nền tảng Truyền Thông của Chúa Giê-su.
Luôn dựa trên nền tảng Kinh Thánh mà Chúa đã được
học trong môi trường của Ngài.
Luôn từ thực tế đời sống và kinh nghiệm sống của
con người, nhưng Chúa hướng dẫn con người nhìn ra những thực tại thiêng liêng
có trong đó (Thực tại Nước Trời). Điều quan trọng là qua Truyền Thông của Đức
Kitô, con người nhận ra giá trị của mình, trách nhiệm của cá nhân đối với người
khác và xã hội, và nhất là cảm nghiệm được con người được Thiên Chúa yêu
thương.
Thao thức với những biến động xã hội, vì thế mà
Chúa cũng đưa ra những sự kiện đã xảy ra trong xã hội, để truyền tải Tin Mừng
cho con người.
Đánh động tâm hồn con người hay có khi đối chất
hay thách đố đối tượng Chúa giao tiếp bằng những câu hỏi, những ví dụ ai cũng
hiểu để họ biết nhìn lại mình. Vì thế, có khi Chúa nói lời an ủi, có khi Chúa
dùng lời lẽ sắc bén, có khi Chúa dùng những ví dụ giải thích, phản biện, phê
phán.
Trong Truyền Thông của Đức Kitô, con người truyền
thông đồng nhất với sứ điệp truyền thông. Chúa chia sẻ thông điệp của Thiên
Chúa qua lời giảng, qua hành động, qua cuộc sống của mình.
6. Tạm Kết Luận
Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo cần được
phổ biến trước hết cho các tín hữu công giáo và qua đó giới thiệu cho những
anh, chị, em khác trên đất nước Việt Nam. Đây có lẽ là điều Giáo Hội Công Giáo ở
Việt Nam rất mong muốn. Việc chia sẻ những giá trị mà Giáo Hội xác tín liên
quan đến đời sống con người và xã hội nên được thực hiện bằng hai cách: (1) giới
thiệu, giải thích nội dung của học thuyết này (kerygma), (2) thể hiện và minh họa
nội dung ấy qua các hoạt động của Giáo Hội, ở điểm này Giáo Hội trở nên “dấu chỉ
và công cụ” để người ta cảm nhận được điều Giáo Hội muốn chia sẻ, hiểu được những
giá trị mà người Công Giáo muốn chia sẻ với anh, chị, em mình (koinonia).
Muốn truyền đạt Học Thuyết Xã Hội một cách hiệu
quả và có phương pháp khoa học, chúng ta cần có một bức tranh toàn cảnh về
“Truyền Thông của Giáo Hội Công Giáo” ở Việt Nam. Mỗi một giáo phận, mỗi một
giáo xứ sẽ có những nét đặc thù ảnh hưởng bởi địa phương, bởi văn hóa của vùng
đó, vì thế sẽ có những hướng mục vụ và hoạt động khác nhau. Chính bởi nhiều yếu
tố khác biệt của vùng, miền, văn hóa, sinh hoạt theo nề nếp quen thuộc, chúng
ta cần phải có bức tranh toàn cảnh này, để học hỏi người khác cách thế họ truyền
thông trong bối cảnh của họ như thế nào, họ vượt khó ra sao, họ có những thách
đố gì. Ngược lại, các nơi khác cũng học hỏi nơi chúng ta điều gì đó có thể ứng
dụng riêng cho họ, hay điều gì đó gây cảm hứng cho những người truyền thông ở
những nơi ấy tìm ra cách làm tốt hơn. Việc này đòi hỏi một khảo cứu rộng của
Giáo Hội Việt Nam để vẽ lên bức tranh đó.
Việc truyền đạt những giá trị của Học Thuyết Xã
Hội đòi hỏi chúng ta phải nhạy bén nắm bắt những dịp, những cơ hội, chúng ta có
thể giới thiệu những nội dung căn bản của nó: có thể lồng với việc dạy giáo lý
không? Lứa tuổi nào nên được tiếp cận vấn đề gì? Nên nói chuyện gì liên quan đến
Học Thuyết Xã Hội ở nhóm này, đoàn thể kia, với bối cảnh xã hội riêng biệt của
họ (Công nhân, sinh viên, cha mẹ, etc.)? Vì thế, việc đòi hỏi nữa là biết và hiểu
những đối tượng mà chúng ta muốn chia sẻ: những trải nghiệm xã hội và những kiến
thức của họ cho chúng ta điều gì? Chúng ta có thể cùng nhau (người truyền thông
và đối tượng truyền thông) nhìn lại những trải nghiệm đó và phân tích chúng dưới
ánh sáng của Học Thuyết Xã Hội để đưa ra hướng sống? Đây chính là sự tôn trọng
nhau.
Những người tự nguyện trong các hoạt động bác
ái, từ thiện, những hội nhóm của các giáo xứ trong những công việc tương tự cần
gì ở nơi chúng ta? Chúng ta làm thế nào để cổ võ và hỗ trợ họ trong việc thể hiện
các giá trị của Học Thuyết Xã Hội qua chính các hoạt động của họ. Những hội
đoàn, những cá nhân này cũng là những nét biểu tả khuôn mặt của Giáo Hội nơi những
anh, chị, em khác. Chúng ta có thể trang bị hành trang nào cho họ trong các hoạt
động đó? Họ có cần được đào tạo thêm ở điểm nào không? Họ có thể là sự trung
gian liên kết chúng ta với những người khác trong xã hội không? Chúng ta hiện
diện nơi họ như thế nào? Có sẵn sàng lắng nghe và tìm hiểu những vấn đề của họ?
Những suy tư này đòi hỏi chúng ta một cách tiếp cận với những đoàn thể và nhóm
tự nguyện.
Tất cả những vấn đề được nêu trên, thiết nghĩ, cần
phải được nghiên cứu, khảo sát nghiêm túc, để chúng ta có thể nắm bắt được vấn
đề, chứ không dừng lại ở chỗ “cảm thấy có những hiện tượng”. Từ những nghiên cứu
đó, chúng ta có thể lập nên một chương trình đào tạo cho những nhà truyền thông
Kitô giáo, vừa có khả năng, vừa có trình độ hiểu biết và có thái độ truyền
thông giống như Chúa Giê-su đã làm. Chương trình nghiên cứu cụ thể dẫn đến một
chương trình đào tạo rõ rệt, theo cái nhìn của tác giả chính là câu hỏi quan trọng
cho việc đào tạo các nhà truyền thông Công giáo, trước hết là hàng ngũ linh mục
tu sĩ và qua đó là những người Công Giáo đang hoạt động trong những lĩnh vực
truyền thông quan trọng trong xã hội.
Tài Liệu Tham Khảo
Anh Vu Ta & Franz-Josef Eilers, Social
Communication in Theological Perspective: Communication Theology. Manila: Logos
(Divine Word) Publications, Inc., 2015.
Anh Vu Ta. “Communication Theology for Pastoral
communication as a New Approach”, Asian Horizons: Dharmaram Journal of
Theology. (Dharmaram Vidya Kshetram: Bangalore, India, Vol. 5, No. 3,
September, 2011.
Avery Dulles. The Church is Communications,
Catholic Mind. 69, No. 1256: Multimedia International 1972.
Avery Dulles. “The Church and Communication,”
The Reshaping of Catholicism: Current Challenges in the Theology of Church. San
Francisco: Harper and Row 1988.
Carlo M. Martini, “Effata ‘Apriti’; Il Lembo del
Mantello.” Milano Centro: Ambrosiano di Documentazione e Studi religiosi, Milano,
1990.
Carlo M. Martini, Communicating Christ to the
World. Quezon City: Claretian Publication, 1996.
Everett M. Rogers, D. Lawrence Kincaid.
Communication Networks: Toward a New Paradigm for Research. London: Collier
Macmillan Publishers, 1981.
Franz-Josef Eilers. Communicating in Ministry
and Mission: An Introduction to Pastoral and Evangelizing Communication.
Manila: Logos (Divine Word) Publications, 3rd Ed. 2009.
Franz-Josef Eilers. Communicating in Community:
An Introduction to Social Communication. Manila: Logos (Divine Word)
Publications, Inc., 4th ed., 2009.
Franz-Josef, Eilers, Communicating Church:
Social Communication Documents: An Introduction. Manila: Logos [Divine Word]
Publications, Inc., 2011.
Gisbert Greshake. Der dreieine Gott: Eine Trinitarische
Theologie. Freiburg: Herder 4th ed., 2001.
James Lull, ed., Culture in the Communication
Age. London and New York: Routledge 2001.
Judy C. Pearson & Paul E. Nelson. An
Introduction to Human Communication: Understanding and Sharing. McGraw-Hill 8th
ed. 2000.
Jürgen Werbick. Eine Fundamentaltheologie.
Freiburg, Basel, Wien: Herder, 3rd ed., 2005.
Jürgen Werbick. Grundfragen der Ekklesiologie.
Freiburg: Herder, 2009.
Larry A. Samovar, Richard E. Porter & Edwin
R. McDaniel. Communication Between Cultures. Thomson/Wadsworth 6th Ed. 2007.
Littlejohn, Stephen W. and Karen A. Foss.
Theories of Human Communication. Belmont, CA: Thomson/Wadsworth 9th Ed. 2008.
Nguyễn Thị Hậu ed. Mạng Xã Hội với Giới Trẻ
Thành Phố Hồ Chí Minh (Social Network with the youth of Ho Chi Minh City). Ho
Chi Minh City: Văn Hóa Nghệ Thuật 2013.
Tài Liệu của Giáo Hội
“Communio et Progressio”, Tài Liệu Hướng Dẫn
trong việc Ứng Dụng văn bản “Inter Mirifica”, được soạn thảo và công bố bởi Hội
Đồng Cố Vấn Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội năm 1971.
“Internet: A New Forum for Proclaiming the
Gospel”, Thông Điệp cho Ngày Truyền Thông Thế Giới thứ 36, tháng Năm năm 2002,
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
“Lumen Gentium”, Hiến Chương Công Đồng Vatican
II về Giáo Hội, 1964.
“Redemtoris Missio”, Thông Điệp về Giá Trị của Sứ
Mạng Truyền Giáo của Giáo Hội, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, 1990.
Websites
http://www.internetworldstats.com/stats3.htm
http://www.internetworldstats.com/asia.htm#vn
Nguồn: ubclhb.com
[1] Stephen
W. Littlejohn and A. Foss. Karen, Theories of Human Communication, (Belmont,
CA: Thomson/Wadsworth 9th Ed. 2008), 3-7.
[2] ]
Eilers, Franz-Josef. Communicating in Ministry and Mission: An Introduction to
Pastoral and Evangelizing Communication (Manila: Logos 3rd Ed. 2009), 22-24.
Cf. Judy C. Pearson & Paul E. Nelson, An Introduction to Human
Communication: Understanding and Sharing (McGraw-Hill 8th Ed. 2000), 6-7; Larry
A. Samovar, Richard E. Porter & Edwin R. McDaniel, Communication Between
Cultures (Thomson/Wadsworth 6th Ed. 2007), 2-16.
[3] Anh
Vu Ta, “Communication Theology for Pastoral communication as a New Approach”,
Asian Horizons: Dharmaram Journal of Theology (Dharmaram Vidya Kshetram:
Bangalore, India, Vol. 5, No. 3, September, 2011), 432.
[4] Cf.
Everett M. Rogers, D. Lawrence Kincaid, Communication Networks: Toward a New
Paradigm for Research (London: Collier Macmillan Publishers, 1981), 32-33.
[8] “Inter
Mirifica” là sắc lệnh đầu tiên liên quan đến truyền thông xã hội, được một công
đồng chung soạn thảo và công bố.
[9] Franz-Josef,
Eilers, Communicating Church: Social Communication Documents: An Introduction
(Manila: Logos [Divine Word] Publications, Inc., 2011), 136-137.
[10] “Communio
et Progressio”, Tài Liệu Hướng Dẫn trong việc Ứng Dụng văn bản “Inter
Mirifica”, được soạn thảo và công bố bởi Hội Đồng Cố Vấn trực thuộc Giáo Hoàng
về Truyền Thông Xã Hội vào năm 1971, 1. (Viết tắt: CeP)
[14] Franz-Josef,
Eilers, Communicating in Community: An Introduction to Social Communication
(Manila: Logos [Divine Word] Publications, Inc., 4th ed., 2009), 35.
[15] Anh
Vu Ta and Franz-Josef Eilers, Social Communication in Theological Perspective:
Communication Theology (Manila: Logos [Divine Word] Publications, Inc., 2015),
36-37.
[16] “Gott
ist jene communio, in der die drei göttlichen Personen im trialogischen
Wechselspiel der Liebe das eine göttliche Leben als Sebstmitteilung
vollziehen.“ Gisbert Greshake, Der dreieine Gott: Eine Trinitarische Theologie
(Freiburg: Herder 4th ed., 2001), 179.
[17] Anh
Vu Ta and Franz-Josef Eilers, Social Communication in Theological Perspective:
Communication Theology, 48-49.
[20] Franz-Josef
Eilers, Communicating in Ministry and Mision (Manila: Logos [Divine Word]
Publications, Inc., 2009), 27.
[22] Carlo
M. Martini, “Effata ‘Apriti’; Il Lembo del Mantello” Milano Centro: Ambrosiano
di Documentazione e Studi religiosi, Milano, 1990.
[25] Xin
xem thêm: Anh Vu Ta, Social Communication in Theological Perspective:
Communication Theology, 75-81.
[29] Xem:
Anh Vu Ta, Franz-Josef Eilers, Social Communication in Theological Perspective:
Communication Theology, 86-87.
[31] Avery
Dulles, The Church is Communications, Catholic Mind (69, No. 1256: Multimedia
International 1972), 6.
[32] Avery
Dulles, “The Church and Communication,” The Reshaping of Catholicism: Current
Challenges in the Theology of Church (San Francisco: Harper and Row 1988), 110.
[35] Xem:
James Lull, ed., Culture in the Communication Age, (London and New York:
Routledge 2001), 138.
[38] Nguyễn
Thị Hậu ed., Mạng Xã Hội với Giới Trẻ Thành Phố Hồ Chí Minh (Social Network
with the youth of Ho Chi Minh City) (Ho Chi Minh City: Văn Hóa Nghệ Thuật
2013), 52-54.
[40] “Internet:
A New Forum for Proclaiming the Gospel”, Thông Điệp cho Ngày Truyền Thông Thế
Giới thứ 36, tháng Năm năm 2002, Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, 2.
[41] “Redemtoris
Missio”, Thông Điệp về Giá Trị của Sứ Mạng Truyền Giáo của Giáo Hội, Thánh Giáo
hoàng Gio-an Phao-lô II, 1990, 37c.
[42] “Redemtoris
Missio”, 37c.