SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA
NHÂN NGÀY THẾ GIỚI NGƯỜI NGHÈO
LẦN THỨ 3 – CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN
NGÀY 17.11.2019
Hy vọng của người nghèo sẽ không bao giờ thất vọng (x. Tv 9,19)
1. “Những người túng thiếu không mãi bị bỏ quên, người nghèo khó chẳng tuyệt vọng bao giờ” (Tv 9,19). Những lời của Thánh Vịnh biểu lộ một tính thời sự lạ thường. Chúng bày tỏ một chân lý sâu xa mà đức tin có thể trước hết in khắc trong tâm khảm của những người nghèo khó nhất : trả lại hy vọng bị mất đi, trước những bất công, những đau khổ và sự bất ổn của đời sống.
Tác giả thánh vịnh
mô tả tình trạng của người nghèo và sự ngạo nghễ của những kẻ đàn áp họ (x. Tv 10,1-10). Ngài cầu khẩn sự phán
xét của Thiên Chúa để vãn hồi công lý và đánh bại sự bất chính (x. Tv 10,14-15). Dường như trong những
từ ngữ này, vấn đề đặt ra trong bao thế kỷ, ngày hôm nay vẫn còn vang
vọng : làm sao mà Thiên Chúa có thể dung dưỡng sự bất công đó được ?
Tại sao Người lại cho phép những người đàn áp có một cuộc đời sung sướng trong
lúc hành vi của họ phải bị lên án trước những đau khổ của người nghèo khó.
Vào lúc viết thánh
vịnh này, đã có một sự phát triển kinh tế, như thường xảy ra, cũng đã sản xuất
ra những sự mất quân bình xã hội mạnh mẽ. Sự bất bình đẳng đã sinh ra một nhóm
quan trọng người nghèo, mà tình trạng dường như còn thảm hại hơn so với sự giàu
có được thực hiện bởi một số người được ưu đãi. Tác giả thánh, khi quan sát tình
trạng này, đã dựng lên một bức họa vừa hiện thực vừa chính xác.
Đó là thời kỳ mà
những con người ngạo nghễ và không có tinh thần của Thiên Chúa, đánh đuổi người
nghèo để chiếm hữu ngay cả chút ít của cải họ có và biến họ thành nô lệ. Ngày
nay cũng không mấy khác. Khủng hoảng kinh tế đã không ngăn cản nhiều nhóm người
làm giàu, đó là điều nhiều khi có vẻ bất bình thường trong lúc chúng ta cụ thể
nhìn thấy con số khổng lồ người nghèo đang thiếu thốn những thứ cần thiết trên
đường phố trong các thành thị của chúng ta, và họ bị ức hiếp và khai thác.
Những câu trong sách Khải huyền đã hiện đến trong trí tôi : “Ngươi
nói : Tôi giàu có, tôi đã làm giàu, tôi chẳng thiếu thốn chi ; nhưng
ngươi không biết rằng ngươi là kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo khó, đui
mù và trần truồng” (Kh 3,17).
Các thế kỷ đã trôi đi, nhưng tình trạng những kẻ giàu, người nghèo vẫn không
thay đổi, như thể kinh nghiệm của lịch sử chẳng dạy được cho chúng ta điều gì.
Những lời của Thánh vịnh như thế không liên hệ với quá khứ, mà với hiện tại của
chúng ta, được đặt trước sự phán xét của Thiên Chúa.
2. Ngay cả trong ngày hôm
nay, chúng ta phải liệt kê nhiều hình thức nô lệ mới trong đó hàng triệu con
người nam, nữ, thanh thiếu niên đã bị bắt buộc chịu đựng. Mỗi ngày, chúng ta
gặp gỡ những gia đình bị
bắt buộc phải rời bỏ quê hương của mình để đi tìm những phương tiện sống còn ở
nơi khác ; những trẻ mồ côi đã mất cha mẹ hay đã bị
chia cắt với cha mẹ một cách thô bạo để bị khai thác một cách tàn
nhẫn ; các người trẻ đi tìm sự thành công nghề
nghiệp, thấy mình bị từ chối sự tiếp cận với công ăn việc làm chỉ vì lý do
chính trị, kinh tế mù quáng ; những
nạn nhân của nhiều hình thức bạo lực, từ mại dâm đến ma túy, và bị làm
nhục đến tận đáy lòng. Hơn nữa, làm sao quên được hàng triệu người di dân, nạn nhân của biết bao lợi nhuận
bị che giấu, nhiều khi họ bị công cụ hóa cho những mục tiêu chính trị, và họ bị
từ chối sự liên đới và bình đẳng ? Và biết bao con người vô gia cư và bị gạt ra ngoài lề xã hội đang lang thang trên các đường
phố trong các thành thị của chúng ta ?
Biết bao lần chúng
ta nhìn thấy những người nghèo trong những bãi rác thu lượm những của phí, của
thừa, để tìm được ở nơi đó cái gì để ăn, để mặc ! Chính họ đã trở thành bộ
phận trong một bãi rác của nhân loại, họ bị đối xử như rác rưởi, mà không có
một mặc cảm tội lỗi nào ảnh hưởng đến những kẻ đồng lõa với cái scandal này.
Nhiều khi họ bị coi như những ký sinh trùng của xã hội, kể cả người ta còn
không tha lỗi cho người nghèo vì cái nghèo của họ. Sự phán xét luôn rình mò. Họ
không thể cho phép mình được rụt rè hay nản chí, họ được coi như là những đe
dọa và những kẻ bất tài, chỉ vì họ nghèo.
Thảm họa trong thảm
họa, chính là vì họ không được cho phép nhìn thấy sự chấm dứt con đường hầm của
sự khốn khổ. Chúng ta thậm chí đã đưa ra cả lý thuyết và thực hành một kết cấu
kỳ thị để loại bỏ sự hiện diện của họ, kể cả trên đường phố, địa điểm thù tiếp
cuối cùng của họ. Họ lang thang từ khu phố này sang khu phố kia, với hy vọng
tìm được một việc làm, một mái nhà, một chút tình thương… Mỗi cơ hội đưa ra là
một lóe sáng của hy vọng ; tuy nhiên, dù là nơi mà công lý đã được ghi ra,
thì nó cũng thường hay tấn công họ với bạo lực và ngược đãi. Họ bắt buộc phải
trải qua hàng giờ bất tận dưới ánh nắng mặt trời nóng bỏng để thu hoạch trong
mùa trái cây và thường nhận được một đồng lương chết đói ; họ không có một
quy chế bảo đảm việc làm nào, hay điều kiện con người nào, để cho phép họ được
cảm thấy mình bình đẳng với những người khác. Đối với họ, không có thất nghiệp
cũng không có bồi thường, kể cả không có khả năng bị bệnh tật nữa.
3. Tác giả thánh vịnh đã mô
tả với một nét hiện thực sống sượng, thái độ của những kẻ giàu có tấn công
người nghèo : “Chẳng khác nào sư tử phục sẵn trong hang, nó phục nơi ẩn
khuất rình bắt người nghèo khó, lừa vào lưới nó giăng” (Tv 10,9). Như thể đối với chúng, đây là một cuộc đi săn, nơi
những người nghèo bị săn lùng, bị bắt và bị biến thành nô lệ. Trong những điều
kiện như thế, tấm lòng của nhiều người khép lại và ước muốn trở thành vô hình
đã vượt trội lên. Tóm lại, chúng ta thừa nhận có một số đông người nghèo thường
hay bị đối xử bằng lời nói và bị chịu đựng bởi sự bực bội. Họ trở nên như những
người biết tàng hình và tiếng nói của họ không có sức mạnh cũng như tầm quan
trọng nào trong xã hội. Những con người nam, nữ đó ngày càng trở nên xa lạ với
nhà cửa của chúng ta và bị gạt ra ngoài lề xã hội trong các khu phố của chúng
ta.
Bối cảnh được mô tả
trong Thánh Vịnh in dấu của buồn bã vì bất công, đau khổ và cay đắng, tác động
đến người nghèo. Mặc dù vậy, nó cống hiến một định nghĩa đẹp của người nghèo.
Người nghèo là kẻ “tin cậy vào Chúa” (x. c.11), bởi vì người đó biết chắc là
hắn sẽ không bao giờ bị bỏ rơi. Người nghèo, trong Sách Thánh, là người tin
tưởng ! Tác giả thánh cũng đưa ra lý do của lòng tin tưởng đó : hắn
“biết Chúa của mình” (x. ibid.), và trong ngôn ngữ Thánh Kinh sự “biết” này chỉ
rõ một quan hệ cá nhân của tình cảm và tình yêu.
Chúng ta đối mặt
với một sự mô tả thật sự gây xúc động mà chúng ta không ngờ tới. Điều này, tuy
thế, chỉ biểu lộ sự vĩ đại của Thiên Chúa khi Ngài đứng trước một người nghèo.
Sức mạnh tạo dựng của Ngài vượt xa mọi chờ đợi của con người và được cụ thể hóa
trong “ký ức’ mà Ngài có về con người cụ thể này (x. c.13). Chính lòng tin cậy
vào Chúa, sự xác tin không bị bỏ rơi này, đã đánh thức hy vọng. Người nghèo
biết rằng Thiên Chúa không thể bỏ rơi mình ; vì thế, hắn luôn sống trước
mặt đấng Thiên Chúa đó, Đấng luôn nhớ hắn. Sự giúp đỡ của Người đi xa hơn điều
kiện đau khổ hiện tại để vạch ra một con đường giải thoát làm thay đổi lòng
người, vì Người nâng đỡ tận sâu thẳm trong tâm hồn.
4. Sự mô tả hành động của
Thiên Chúa đối với người nghèo là một điệp khúc thường xuyên trong Sách Thánh.
Ngài là Đấng “lắng nghe”, “can thiệp”, “che chở”, “bảo vệ”, “chuộc tội’, “cứu
độ”…Tóm lại, một người nghèo sẽ không bao giờ có thể thấy Thiên Chúa thờ ơ hay
im lặng trước sự cầu nguyện của hắn. Thiên Chúa là Đấng thực thi công lý và
không hề quên (x. Tv 40,18 ;
70,6) : quả vậy, Ngài là nơi trú ẩn của hắn và Ngài không quên tới giúp đỡ
hắn (x. Tv 10,14).
Nhiều bức tường có
thể được xây lên và những lối vào bị chặn lại để có ảo giác cảm thấy an toàn
với những của cải của mình, gây thiệt hại cho những kẻ bị bỏ lại ở bên ngoài.
Sẽ không mãi mãi như thế nữa đâu. “Ngày của Đức Chúa”, như các ngôn sứ đã mô tả
(x. Am 5,18 ; Is 2-5 ; Ge 1-3), sẽ phá hủy các rào cản
dựng lên giữa các quốc gia và sẽ thay thế sự ngạo nghễ của số ít người bằng sự
liên đới của nhiều người. Hoàn cảnh bị gạt ra ngoài lề xã hội qua đó hàng triệu
người đã bị ức hiếp sẽ không thể kéo dài lâu nữa. Tiếng kêu của họ đã gia
tăng và ôm lấy toàn trái đất. Như cha Primo Mazzolari đã viết : “Người
nghèo là một sự phản kháng liên tục chống lại những bất công ; người nghèo
là một thùng thuốc nổ. Nếu anh châm lửa, thế giới sẽ nổ tung”.
5. Không thể nào tránh khỏi
lời kêu gọi khẩn cấp mà Sách Thánh đã trao gửi cho người nghèo khó. Ở mọi nơi
chúng ta nhìn tới, Lời của Thiên Chúa cho thấy người nghèo là những kẻ không có
cái cần thiết để sống bởi vì họ lệ thuộc người khác. Đó là những người bị đàn
áp, những người khiêm cung, những người phủ phục trên mặt đất. Và tuy thế,
trước cái đám đông vô số những người nghèo túng này, Chúa Giêsu đã không sợ
đồng hóa mình với mỗi người trong bọn họ : “mỗi lần các ngươi làm như thế
cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho
chính Ta vậy” (Mt 25,40). Chạy
trốn sự đồng hóa này có nghĩa là làm huyền bí Tin Mừng và làm loãng đi sự mặc
khải. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu muốn mặc khải là như thế này : một Đấng là
Cha rộng lượng, giàu lòng thương xót, và không cạn kiệt lòng nhân hậu và ân
sủng của Ngài, Ngài trước hết ban xuống hy vọng cho những người thất vọng và
không có tương lai.
Làm sao mà không
nhấn mạnh rằng các Mối Phúc Thật, qua đó Chúa Giêsu đã khai mạc sứ vụ rao giảng
Nước Thiên Chúa, đã bắt đầu bằng câu này : “Phúc cho anh em là những kẻ
nghèo khó” (Lc 6,20) ? Ý
nghĩa của sự loan báo mang tính nghịch lý này là Nước Thiên Chúa chính là thuộc
về người nghèo, bởi vì họ có khả năng tiếp nhận. Biết bao người nghèo chúng ta
đã gặp mỗi ngày ! Dường như đôi khi thời gian và những cuộc chinh phục của
nền văn minh làm tăng con số người nghèo thay vì làm nó giảm xuống. Các thế kỷ
đã trôi qua và Phúc Thật của Tin Mừng ngày càng tỏ ra nghịch lý ; người
nghèo vẫn nghèo và ngày hôm nay họ còn nghèo hơn nữa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu,
Đấng đã khánh thành Nước của Người bằng cách đặt người nghèo vào trung tâm,
muốn nói với chúng ta chính xác điều này : Người đã khánh thành, nhưng
Người đã trao gửi cho chúng ta, các môn đệ của Người, nhiệm vụ hoàn thành tốt
đẹp, với trách nhiệm là cống hiến hy vọng cho người nghèo. Ở một thời đại như
thời đại của chúng ta, cần phải cho lại hy vọng và phục hồi lòng tin cậy. Đây
là một chương trình mà cộng đồng Kitô giáo không thể coi nhẹ. Sự khả tín của
lời tuyên bố của chúng ta và của sự làm chứng của các Kitô hữu phụ thuộc vào
điều đó.
6. Trong sự gần gũi với
người nghèo, Hội Thánh khám phá ra rằng Hội Thánh là một dân tộc, tản mác trên
bao quốc gia, có ơn gọi là đừng làm cho bất cứ ai cảm thấy họ là người xa lạ và
bị hất hủi, bởi vì mọi người đều được can dự vào con đường chung của sự Cứu Độ.
Điều kiện sống của người nghèo bắt buộc chúng ta đừng xa rời Thân Thể của Chúa
đang đau khổ trong họ. Đúng hơn là chúng ta được kêu gọi phải đụng chạm đến da
thịt của Người để can dự cá nhân vào việc phục vụ Phúc Âm hóa đích thực. Sự
thăng tiến xã hội của người nghèo không phải là một sự tham gia bề ngoài vào sự
tuyên bố Phúc Âm, trái lại, nó cho thấy tính thực tế của đức tin Kitô giáo và
giá trị lịch sử của nó. Tình yêu, vốn cung cấp sự sống cho đức tin vào Chúa
Giêsu, không cho phép các môn đệ của Người thu mình lại trong một chủ nghĩa cá
nhân ngột ngạt, được che giấu trong những khúc đoạn thầm kín thiêng liêng,
không một chút ảnh hưởng trên đời sống xã hội (x. Tông huấn Evangelii Gaudium, số 183).
Gần đây, chúng ta
đã khóc cái chết của một tông đồ vĩ đại của người nghèo, Jean Vanier, người,
với sự tận tụy của mình, đã mở ra những con đường mới cho sự chia sẻ với những
người bị gạt ra ngoài lề xã hội, để nhắm tới sự thăng tiến của họ. Ông Jean
Vanier đã nhận được từ Thiên Chúa ơn sủng cống hiến cả cuộc đời mình cho những
người anh em bị khuyết tật trầm trọng mà xã hội thường có xu hướng loại bỏ. Ông
đã là “vị thánh nhà bên cạnh”. Với sự hăng hái của ông, ông đã biết quy tụ
chung quanh ông nhiều người trẻ, những con người nam, nữ, với một sự dấn thân hàng
ngày, đã cống hiến tình yêu và cho lại nụ cười cho bao con người yếu đuối và dễ
bị tổn thương, bằng cách cống hiến cho họ một “hòm bia” đích thực của sự cứu độ
chống lại sự loại bỏ và sự cô đơn. Chứng ngôn của ông đã làm thay đổi cuộc sống
của nhiều người và đã giúp cho thế giới có cái nhìn khác với những người dễ bị
tổn thương và những người yếu đuối nhất. Tiếng kêu của người nghèo đã được nghe
thấy và đã tạo ra một niềm hy vọng không lay chuyển được, tạo ra những dấu hiệu
hữu hình và có thể sờ mó được của một tình yêu cụ thể mà chúng ta có thể đụng
chạm tới bằng bàn tay chúng ta cho tới ngày hôm nay.
7. “Sự chọn lựa những người
bé mọn nhất, những người mà xã hội vứt bỏ và gạt sang bên” (ibid., số 195) là một sự lựa chọn ưu
tiên mà các môn đệ của Đức Kitô được kêu gọi tiếp tục để không phản bội lại sự
khả tín của Hội Thánh và cung cấp một niềm hy vọng có thực của bao con người
không được bảo vệ. Lòng bác ái Kitô giáo tìm thấy trong họ sự xác định, bởi vì
người thông cảm những đau khổ của họ với tình yêu của Đức Kitô, nhận được sức
mạnh và sự rắn rỏi để loan báo Tin Mừng.
Sự tham gia của các
Kitô hữu, nhân dịp Ngày Thế Giới Người Nghèo này, và nhất là trong đời sống
hàng ngày, không chỉ gồm những sáng kiến trợ giúp, vốn đáng khen ngợi và cần
thiết, mà phải nhằm tăng cường nơi mỗi người sự chú tâm tối đa đối với mỗi
người đang trong cơn khốn quẫn. “Sự chú tâm vào tình yêu đó là khởi đầu của một
mối lo lắng đích thực” (ibid., số
199) cho những người nghèo trong việc tìm kiếm điều thiện ích thật sự của họ.
Không dễ dàng là chứng nhân của niềm hy vọng Kitô giáo trong bối cảnh của các
nền văn hóa tiêu thụ và thải loại, luôn hướng tới cách gia tăng sự sung sướng
bề ngoài và chóng qua. Một sự thay đổi tâm trạng là cần thiết để tái khám phá
ra cái chủ yếu và làm cho việc loan báo Nước Thiên Chúa có chất lượng và sự hữu
hiệu.
Hy vọng cũng được
truyền đạt qua an ủi, được thực hiện khi đồng hành với người nghèo, không phải
chỉ trong một vài lúc phấn khởi, mà với một sự dấn thân lâu bền trong thời
gian. Người nghèo nhận được hy vọng thực sự không phải khi họ thấy chúng ta
thỏa mãn khi cho họ một ít thời gian, mà khi họ công nhận trong sự hy sinh của
chúng ta một hành động tình yêu nhưng không mà không đi tìm kiếm phần thưởng.
8. Với đông đảo những người
thiện nguyện, có công đã cảm nhận đầu tiên tầm quan trọng của sự chú ý này cho
người nghèo, tôi yêu cầu lớn lên trong sự tận tụy của họ. Thưa Quý Anh Chị Em,
tôi khuyên Quý Anh Chị Em hãy tìm kiếm, với mỗi người nghèo mà Quý Anh Chị Em
gặp gỡ, điều mà người đó thực sự cần thiết ; đừng dừng lại ở cái nhu cầu
vật chất đầu tiên, mà hãy khám phá sự tốt lành được che dấu trong thâm tâm của
họ, bằng cách tỏ ra quan tâm tới văn hóa của họ và những cách biểu lộ của họ
vốn đến từ những nhãn quan ý thức hệ hay chính trị, chúng ta hãy nhìn thẳng vào
điều cốt yếu vốn không cần đến nhiều lời, mà cần đến một ánh mắt tình yêu và
một bàn tay đưa ra. Quý Anh Chị Em đừng bao giờ quên rằng “sự phân biệt đối xử
tệ hại nhất mà người nghèo phải chịu đựng là sự thiếu chú ý tinh thần” (ibid., số 200).
Trước hết, người
nghèo cần Thiên Chúa, cần tình yêu của Người được làm nên hữu hình bởi những
con người thánh thiện đang sống bên cạnh họ, những người đó, bằng sự đơn sơ
trong đời sống của họ, biểu lộ và làm nổi lên sức mạnh tình yêu Kitô giáo.
Thiên Chúa sử dụng nhiều con đường và công cụ để đạt tới tâm hồn của con người.
Đương nhiên, người nghèo cũng tới gần chúng ta bởi vì chúng ta phân phát cho họ
lương thực, nhưng điều mà họ cần đi xa hơn bát cơm nóng hay khúc bánh mì thịt
mà chúng ta đề nghị. Người nghèo cần đôi bàn tay của chúng ta để họ đứng dậy,
cần trái tim của chúng ta để cảm thấy lại sự ấm áp của tình thân, cần sự hiện
diện của chúng ta để thắng sự cô lẻ. Họ đơn giản chỉ cần tình yêu.
9. Đôi khi chỉ cần chút
đỉnh để cho lại hy vọng : chỉ cần dừng lại, mỉm cười, lắng nghe. Trong một
ngày, chúng ta hãy để sang bên những con số thống kê ; người nghèo không
phải là những con số hấp dẫn để khoe khoang những công trình và những dự án của
chúng ta. Người nghèo là những con người phải gặp gỡ ; người trẻ hay người
già, cần phải mời về nhà để chia sẻ một bữa cơm ; đàn ông, đàn bà và trẻ
em đang chờ một lời thân thiện. Người nghèo cứu chúng ta bởi vì họ giúp chúng
ta gặp được dung nhan của Chúa Giêsu Kitô.
Dưới con mắt thế
gian, dường như là phi lý khi nghĩ rằng sự nghèo khó và sự bần cùng có thể có
một sức mạnh cứu độ ; tuy nhiên, đó là điều mà thánh Phaolô tông đồ dạy
bảo chúng ta khi ngài nói : “đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời,
đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. Song những gì thế gian cho
là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì
thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh
; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên
Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám
tự phụ trước mặt Ngài” (1Cr 1,26-29).
Với con mắt của
người trần, người ta không thể thấy được sức mạnh cứu độ đó ; trái lại,
chính với đôi mắt của đức tin thì Quý Anh Chị Em mới nhìn thấy được sức mạnh đó
tác động và Quý Anh Chị Em có thể trực tiếp trải nghiệm. Giữa Dân của Thiên
Chúa đang lữ hành, sức mạnh cứu độ sống động và không loại trừ bất cứ ai cả, mà
thu hút mỗi người vào trong một cuộc hành hương trở lại đích thực để nhận biết
người nghèo và yêu mến họ.
10. Chúa không bỏ những
người đi tìm kiếm Ngài và kêu cầu Ngài ; “tiếng những người nghèo khổ,
Chúa chẳng quên bao giờ” (Tv 9,13),
bởi vì tai Ngài rất chú ý đến tiếng nói của họ. Niềm hy vọng của người nghèo
thách đố những tình trạng của sự chết, bởi người đó biết được Thiên Chúa đặc
biệt thương yêu và người đó chiến thắng sự đau khổ và sự loại trừ. Tình trạng
nghèo khó của người đó không lấy mất đi của hắn phẩm giá hắn đã nhận được từ
chính tay Đấng Tạo Dựng ; người đó sống trong sự xác tín rằng nhân phẩm
của hắn sẽ được chính Thiên Chúa trả lại đầy đủ cho hắn, Người không thờ ơ với
số kiếp của các con cái Người, những kẻ yếu đuối nhất ; trái lại, Người
thấy những vấn đề của họ và những đau đớn của họ và đón lấy trong tay Người và
ban cho họ sức mạnh và lòng can đảm (x. Tv 10,14).
Hy vọng của người
nghèo được tăng cường bởi sự xác tín được Chúa đón nhận, tìm được nơi Người
công lý đích thực, được thêm sức trong lòng để tiếp tục yêu thương (x. Tv 10, 17).
Điều kiện, để các môn đệ của Chúa Giêsu trở thành những người đi rao truyền Phúc Âm nhất quán, là phải gieo trồng những dấu hiệu cụ thể của hy vọng. Với tất cả các cộng đoàn Kitô giáo và tất cả những ai cảm thấy sự đòi hỏi phải mang lại hy vọng và ủi an cho người nghèo, tôi yêu cầu họ hãy làm việc để cho Ngày Thế Giới Người Nghèo tăng cường nơi nhiều người, ý chí hợp tác hữu hiệu để không còn một ai cảm thấy bị lấy đi sự gần gũi và tình liên đới. Mong rằng chúng ta được tháp tùng bởi những lời của ngôn sứ thông báo một tương lai khác : “Nhưng đối với các ngươi là những kẻ kính sợ Danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sáng chữa lành bệnh” (Ml 3,20).
Vatican ngày
13 tháng 6 năm 2019
Lễ nhớ thánh Antôn
thành Padova