TÌNH YÊU - TÍNH DỤC - HÔN NHÂN
NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA NGƯỜI TRẺ HÔM NAY
NHẬN DIỆN VÀ ĐỊNH HƯỚNG
Lm. Matthia Võ Nhân Thọ
Dẫn nhập
Vào dịp đi chơi nhân tiết Thanh minh, Thúy Kiều đã gặp Kim Trọng.[1] Chỉ
trong thoáng chốc, tình yêu kì lạ giữa người quốc sắc và kẻ thiên tài đã bắt đầu
nảy nở. Ngay trong đêm hôm ấy, hình bóng phong nhã và hào hoa của Kim Trọng đã
in đậm trong tâm hồn Thuý Kiều, khiến trái tim nhạy cảm của nàng thổn thức.
Nàng băn khoăn tự hỏi:
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không ?
Còn Kim Trọng thì
cũng:
Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người,
Nhớ nơi kì ngộ vội dời chân ơi,
Đó là cảm xúc về lần gặp gỡ đầu tiên của đôi trai tài gái sắc. Và kể từ
“cái buổi ban đầu lưu luyến ấy”, có thể chỉ cần một cử chỉ, giọng nói, hay một
ánh mắt của Thúy Kiều là có thể khiến cho Kim Trọng, và bất cứ người nào trong
chúng ta cũng có thể như vậy, trở nên ngây ngô không cưỡng lại được, khi gặp được
đúng “một nửa yêu thương” của đời mình.
Có lẽ đó chính là quy luật từ ngàn xưa đến nay. Người nữ hấp dẫn người nam và
ngược lại. Theo quan điểm sinh học, thì đó là vì lợi ích của sự duy trì giống
loài. Sự thèm muốn lẫn nhau xuất hiện như một động lực thúc đẩy bản năng con
người, hướng đến hành vi sinh sản để lưu truyền nòi giống.
Nhưng có phải người nam và người nữ hấp dẫn nhau chỉ vì nhu cầu của tính dục
không, hay còn vì những giá trị gì khác nữa? Người ta thường bảo rằng “con tim
có lý lẽ riêng mà lý trí không biết.”
Tại sao người ta hồi hộp rung động trước người này mà trơ lì trước người khác?
Khoa học lâu nay luôn đi tìm, nhưng vẫn chưa có được những câu trả lời nào thuyết
phục nhất. Người ta vẫn đang đi tìm giá trị đích thực của tình yêu và tính dục.
Quan điểm của Giáo Hội về tình yêu và tính dục trong đời sống hôn nhân như thế
nào?
1/ GIÁ TRỊ CỦA TÌNH YÊU VÀ TÍNH DỤC
TRONG THÁNH KINH
1.1 Theo Cựu Ước
Kinh Thánh có rất nhiều đoạn nói cho chúng ta biết về tình yêu nam nữ, tình yêu
hôn nhân và tình yêu vợ chồng. Bởi thế, nhìn cách chung, ta có thể nhận ra:
Kinh Thánh là một cuốn sách kể lại lịch sử của giao ước tình yêu giữa Thiên
Chúa và con người cách rõ nét nhất. Chính Thiên Chúa đã sánh ví Ngài như người
chồng luôn yêu thương nhân loại là vợ của mình. Và chính Chúa Giêsu cũng sánh
ví tình yêu của Ngài với Hội Thánh, một tình yêu chung thuỷ như Hiền Thê đối với
Vị Tân Lang.
Sách sáng Thế 1,26-28: “Thiên Chúa
phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh của chúng ta, giống chúng
ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc và dã thú, tất cả mặt đất
và mọi vật bò dưới đất. Thiên Chúa sáng tạo theo hình ảnh mình. Thiên Chúa sáng
tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có
nữ”.
Đây là điểm quan trọng trong việc mặc khải về tương quan giữa người nam và người
nữ, trở nên dấu chỉ tiên báo và mạc khải về Thiên Chúa, và về tương quan giữa
hai phái tính khác nhau, nhưng lại đón nhận và yêu thương nhau.
Nền tảng của mọi cộng đồng nhân loại đều dựa trên nền tảng được xây dựng từ người
nam và người nữ. Chỉ từ nền tảng này, mọi tương quan khác đều lãnh nhận được
ánh sáng và năng lực. Người nam được tạo dựng để có một tương quan và liên hệ mật
thiết với một người khác phái.
Khái niệm toàn vẹn của con người không chỉ có trong nam mà thôi, nhưng cả nam lẫn
nữ. Tính dục được nhìn nhận như một giá trị. Sau khi tạo dựng người nam và người
nữ. Thiên Chúa thấy mọi sự tốt đẹp. Sự tốt đẹp này bao gồm cả thân xác và cả
kinh nghiệm về sự thân mật tính dục nữa.
Sách Sáng Thế 2,19: “Và rồi Thiên
Chúa phán: “Con người ở một mình thì không tốt, Ta sẽ làm cho nó có một trợ tá
tương xứng”. Ở đây, diễn tả một sự thiếu vắng trong cuộc sống con người, dù
rằng cũng đã có đầy đủ những cảnh vật thiên nhiên, muôn loài súc vật. Như vậy,
hiểu rằng con người cần có một người đồng hành với mình, chung sống với mình và
trợ giúp cho mình, để có thể đối thoại, cảm thông, chia sẻ, và biểu lộ tương
quan tình cảm, và cả tính khác biệt của tính dục.
Người trợ tá ở đây không thể hiểu như người xưa, đó là người chỉ để sinh con
thôi, mà là người bạn đồng hành của người nam, người bình đẳng trong quan hệ,
chứ không phải là một tài sản hay một sức mạnh để làm việc cho người nam.
Sách Tiên tri Hôsê diễn tả cuộc hôn nhân mới, biểu tượng của giao ước mới giữa
Thiên Chúa với dân Israel, thể hiện qua người đàn ông không là người làm chủ mà
là người làm chồng: “Vào ngày đó, sấm
ngôn của Đức Chúa, ngươi sẽ gọi ta: “này mình ơi”, chứ không gọi là “ông
chủ ơi!”. (Hs 2,18)
Trong mối tương quan mới giữa Thiên Chúa và dân Israel, Ngài sẽ có những tâm
tình yêu thương đối với dân Ngài, và không dùng quyền như quyền sở hữu, và dân
Ngài được mời gọi sống đầm ấm yêu thương với Ngài như người vợ với người chồng.[2]
1.2. Theo Tân Ước:
Tin Mừng thì không dùng những hình ảnh để diễn tả về tình yêu vợ chồng,
nhưng điểm quy chiếu là Đức Giêsu Kitô, Ngài là tình yêu tròn đầy và tuyệt hảo
nhất. Các sách Tin Mừng nói với chúng ta rằng, để biết được Thiên Chúa yêu
thương chúng ta như thế nào thì cần phải nhìn vào Chúa Giêsu Kitô: “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu
thương Anh em” (Ga. 15, 2). Thánh Phaolô mở cho chúng ta một cái nhìn
về sự đổi mới, hay nói đúng hơn là đường hướng được thay đổi. Hai vợ chồng cần
phải hiểu được hôn nhân bắt đầu từ Đức Kitô. Ngài dạy rằng: “Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ
mình như Đức Kitô đã yêu thương Hội Thánh và phó mình vì Hội Thánh.” (Ep.5, 25)
Để hiểu rõ thêm, chúng ta cần biết rằng, trong Cựu Ước, tình yêu vợ chồng chỉ
mang tính cách loan báo, có tính tiên tri và diễn tả qua hình ảnh. Trong Tân Ước,
tình yêu ấy trở nên sự hiện diện của Thiên Chúa, trở nên một thực tại, nơi chốn
cụ thể, để diễn tả tình yêu Đức Kitô dành cho Hội Thánh, và cũng vì tình yêu mà
Ngài thiết lập Hội Thánh. Chính vì thế, Công đồng Vaticanô II trong Hiến
chế Lumen Gentium đã gọi hôn nhân là “Giáo hội thu nhỏ”, “Hội Thánh tại
gia.”[3]
1.3. Theo Giáo huấn Giáo hội
a/ Theo Thông điệp “Sự sống con người” trình
bày, tình yêu trong hôn nhân: Bản chất thực tiễn và sự cao quý của tình yêu
trong hôn nhân được biểu lộ hoàn toàn khi người ta nhìn qua nguồn gốc tối thượng
của nó là Thiên Chúa tình yêu (Ga 4, 8), “là Cha toàn năng, nguồn mạch của mọi tình cha con, trên trời cũng
như dưới đất” (Ep 3, 15).
Chính vì thế, hôn nhân không phải là kết quả của ngẫu nhiên, nhưng là do một tổ
chức khôn ngoan, do Đấng Tạo Hoá vì tình thương thực hiện nơi nhân loại. Đôi vợ
chồng cống hiến cho nhau chính bản thân mình, hòa đồng bản thể đôi bên lại để
hoàn thiện hóa cá nhân, hầu cộng tác với Thiên Chúa trong việc lưu truyền sự sống
và dưỡng dục các đời sống mới.
Tình yêu trong hôn nhân được nổi bật sáng chói, và mang một giá trị cao trọng
qua các đặc tính: Đó là một thứ tình yêu hoàn toàn hữu hình và siêu hình, vì
không phải là một thứ chuyển thông tình cảm bản năng từ người này sang người
kia, mà là hành vi của lý trí và tự do, để hai người kết nên một tâm hồn,
một tinh thần và đạt tới sự hoàn thiện của nhân loại.
Tiếp đến, là một thứ tình yêu trọn vẹn, nghĩa là một hình thức đặc biệt của
tình bạn cá nhân, nhờ đó hai vợ chồng cùng nhau chân thành yêu mến, chia sẻ mọi
sự, không dấu diếm, không tính toán ích kỷ, nhưng họ cảm thấy hạnh phúc và sung
sướng vì những cái bạn mình đã trao cho mình. Đồng thời, nó thể hiện một tình
yêu chung thuỷ, dành riêng một người cho đến chết. Lòng chung thuỷ, tuy trong
cuộc sống đôi lúc cũng gặp muôn vàn khó khăn, nhưng không phải là không thực hiện
được, bởi lòng chung thuỷ là một thái độ cao quý, đáng trân trọng. Cuối cùng,
đây cũng là một tình yêu phong phú không hề tiêu hao trong việc truyền thông giữa
hai vợ chồng, trái lại, nó luôn đủ lực để tiếp sức bằng việc tạo dựng những mầm
sống mới.[4]
b/ Thông điệp “Tin Mừng Sự sống” cho
thấy rằng: Việc con người tham dự một phần nào đó vào quyền Chủ Tể của Thiên
Chúa, cũng được biểu lộ rõ ràng do sự kiện họ được trao trách nhiệm đặc thù với
sự sống con người nói riêng. Đó là một trách nhiệm sẽ đạt tới đỉnh cao, khi người
nam và người nữ trong bậc hôn nhân ban tặng sự sống qua việc sinh sản, như Công
đồng Vaticanô II nhắc lại: “Chính
Thiên Chúa, Đấng đã phán: con người ở một mình không tốt” (St. 2,18), và
là Đấng “ngay từ ban đầu đã dựng nên con
người có nam và nữ“(Mt. 19, 4), muốn cho con người tham dự cách đặc biệt
vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, vì thế Ngài chúc phúc cho hai người nam
nữ: “Hãy sinh sôi nảy nở ra nhiều”
(St 1,28).[5]
c/ Thông điệp “Ân ban sự sống” trình
bày: Trong Giáo hội và nhờ Giáo hội, đôi bạn Kitô hữu phải là một hiện thân
mang tính bí tích và hiện sinh của mối quan hệ tình yêu bất khả phân ly giữa Đức
Kitô và Hội Thánh (Ep 5, 21-32). Đó là mầu nhiệm cao cả. Nghĩa là, đôi bạn được
kêu gọi để yêu thương nhau cùng một cách thức mà Chúa Kitô yêu thương Hội
Thánh. Cách thức đó được thể hiện cao điểm nơi biến cố Thập giá. Đôi bạn cũng
được mời gọi cử hành hôn phối của họ, trong sự hiến thân cho nhau nơi những thập
giá hằng ngày của đời họ.
Sứ mạng của đôi vợ chồng còn là một đòi hỏi nội tại của sự kết hợp thân mật ấy,
tức là ân huệ sự sống: Hợp tác với tình yêu của Đấng Tạo Hoá qua trao ban ân huệ
sự sống.
Ân huệ sự sống trước hết là ân huệ con cái Thiên Chúa trao tặng cho đôi bạn. Sự
sống đó không chỉ liên hệ đến nhiệm vụ sinh sản, nhưng xét cho cùng, là sinh
thành một con người, một nhân vị, và dẫn đưa một con người đến chỗ thành toàn,
viên mãn, nghĩa là nhiệm vụ giáo dục con người.[6]
2. GIÁ TRỊ CỦA TÌNH YÊU VÀ TÍNH DỤC
TRONG NHÃN QUAN LUÂN LÝ KITÔ GIÁO
Chúng ta vừa có cái nhìn về giá trị của tình yêu và tính dục trong Kinh Thánh
và trong Huấn quyền của Giáo hội. Điều đó giúp chúng ta thấy rõ vai trò quan trọng
của tình yêu hôn nhân, và giá trị của việc sử dụng tính dục trong đời sống của
đôi bạn. Tình yêu và tính dục phải hướng về Cội nguồn của Đấng Tối Cao là Thiên
Chúa tình yêu, và cộng tác với Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, để xây dựng
và phát triển sự sống mới theo luân lý Kitô giáo.
2.1 Tình yêu và sự thân mật của đôi bạn
Trong đời sống hôn nhân, đôi vợ chồng không chỉ dừng lại ở mối quan hệ thể lý,
mà phải hướng đến một giá trị cao hơn là sự kết hợp tinh thần. Không chỉ hiểu rằng,
một khi đã kết hôn rồi, thì sử dụng “quyền của người này trên thân xác người
kia” một cách quá duy vật. Nếu sinh hoạt vợ chồng chỉ nhắm đến tính dục và tách
khỏi khía cạnh của tình yêu, thì không thể nào nói đến sự khiết tịnh được.
Theo luân lý Kitô giáo, tính dục và tình yêu không có sự tách rời, không thể cô
lập và tách rời đời sống tính dục ra khỏi sự quan tâm quý giá và lớn lao mà hai
vợ chồng dành trao cho nhau.
Thánh Phaolô Tông đồ dạy rằng: “Chồng hãy làm tròn bổn phận của mình đối với vợ,
và vợ đối với chồng cũng vậy. Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là chồng;
cũng vậy, chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ. Vợ chồng đừng từ
chối nhau, trừ phi hai người đồng ý như vậy trong một thời gian, để chuyên lo cầu
nguyện; rồi hai người lại ăn ở với nhau, kẻo hai người không tiết dục nổi mà
Xa-tan lợi dụng để cám dỗ” (1Cr.7,3-5).
Trong đời sống chung, người chồng cần phải khéo léo để đọc ra được những yêu cầu
thầm kín của vợ mình, giải thích được những dấu hiệu muốn tỏ bày trong sự riêng
tư của đời sống chung, những ý kiến và yêu cầu của vợ. Với người chồng khôn
ngoan như vậy, tình yêu của hai người sẽ mỗi ngày một gia tăng, hai bên sẽ gặp
nhau trong sự hiểu biết, cảm thông và chia sẻ.[7]
2.2 Trách nhiệm luân lý trong tình yêu
hôn nhân
Trong
thời gian chuẩn bị cho việc kết hôn, các đôi bạn trẻ thanh niên nam nữ thường
có một thời gian chuẩn bị, hay còn gọi là thời kỳ đính hôn. Động cơ để đưa hai
người đến với nhau và xích lại gần nhau hơn, thường là do hai người đã có một cảm
tính về tình yêu với nhau, hay nói cách thông thường bình dân, là đã “hợp nhãn”
với nhau rồi. Thời gian tìm hiểu và chuẩn bị cho cuộc hành trình hôn nhân mãi
mãi và trọn đời chung thuỷ là vấn đề cần thiết và quan trọng. Do vậy, đôi bạn
trẻ cần có sự chuẩn bị cho việc xây dựng một nền tảng vững chắc, cần có một lưu
ý đến giáo lý tiền hôn nhân, cần tìm hiểu về tình yêu và những cung cách sống
cho phù hợp. Tuy nhiên, thời gian này dù chỉ là giai đoạn tìm hiểu, nhưng cũng
cần phải biểu lộ một tình thương, lòng trung thành và thẳng thắn đối với
nhau.[8]
Tính dục, hiểu theo một nghĩa rộng, đóng vai trò quan trọng và thiết yếu trong
giai đoạn chuẩn bị, nó liên quan đến tâm linh và thể lý, nên không thể trao hiến
cho nhau cách trọn vẹn ngay từ lúc ban đầu vừa mới quen biết nhau, nguy hiểm
cho cả một quá trình sống trọn đời với nhau sau này. Đừng bao giờ nghĩ chúng
mình sẽ là của nhau, rồi mãi là của nhau, để tự cho nhau một sự thoả mãn, một
cách tự do dễ dàng, nó dẫn đến một hậu quả thiếu lành mạnh, trong sự dại khờ và
non dạ của thuở ban đầu.
2.3 Trách nhiệm luân lý của tình yêu
tính dục trong hôn nhân
Mục đích của đời sống hôn nhân có một liên hệ chặt chẽ với các mục tiêu của
tình yêu tính dục, không phải chỉ là việc sinh sản con cái, mà còn là việc giáo
dục con người trưởng thành. Đồng thời, hai người hỗ trợ nhau trong mọi lãnh vực
tinh thần lẫn thể chất.
Mục tiêu truyền sinh của tình yêu tính dục là một mục tiêu căn bản của hôn
nhân. Hiến chế Mục Vụ số 50 khẳng định: “Tự bản chất, hôn nhân và tình yêu vợ
chồng được tổ chức nhằm sinh sản và giáo dục con cái. Con cái đúng là một
món quà cao quý nhất của hôn nhân, góp phần rất căn bản vào hạnh phúc của cha mẹ… Vì
thế, tuy không coi nhẹ các mục tiêu khác của hôn nhân, tình yêu vợ chồng đích
thực và ý nghĩa của đời sống gia đình đều nhằm mục tiêu ấy: Vợ chồng phải sẵn
sàng can đảm và cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa Tạo Hoá và Cứu Độ, đã dùng
họ để ngày ngày mở rộng và làm giàu thêm cho gia đình của Ngài.”
Quan hệ tính dục chỉ có giá trị và hợp pháp trong khuôn khổ hôn nhân. Kinh
Thánh đã giải thích ý định của Đấng Tạo Hoá một cách đúng đắn, khi coi truyền
sinh là một mục tiêu thiết yếu của hôn nhân. Hôn nhân thời nào cũng được bảo đảm
là đưa tới sinh sản, vì chính Chúa đã chúc phúc cho cặp vợ chồng nhân loại đầu
tiên rằng: “Hãy sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất” (St 1, 28) như trình thuật sáu
ngày sáng tạo cho thấy.[9]
2.4 Trưởng thành trong tình yêu nhân loại
Theo quy luật tự nhiên, sự thu hút lẫn nhau là do bản năng tính dục của hai người
nam nữ khi gặp gỡ nhau. Nhưng nếu việc kết hợp tính dục chỉ dựa theo bản năng
này thì chưa phải là tình yêu nhân loại đúng nghĩa. Bên cạnh hay thậm chí trước
cả khi có những biểu hiện của tình yêu tính dục ấy, quan hệ giữa các phái tính
phải là một sự giao tiếp cá nhân, biết kính trọng, yêu thương và quan tâm đến
nhau.
3. NHỮNG KHÓ KHĂN CÓ THỂ XẢY RA ĐỐI VỚI
NGƯỜI TRẺ HÔM NAY
Tuy đã tìm hiểu cặn kẽ về hôn nhân theo luật Hội Thánh và đồng ý kết hôn, đôi bạn
trẻ cũng cần phải tìm hiểu trước những khó khăn có thể xảy ra trong đời sống
hôn nhân và gia đình. Tông huấn “Amoris Lætitia” (số 33) đã giải thích: “Giá trị
cao đẹp của Bí tích hôn nhân Ki-tô giáo đang đối diện với bao thách đố của thời
đại ngày hôm nay, những thách đố nhằm gạt bỏ giá trị cao đẹp của hôn nhân, và
nhất là loại bỏ đặc tính bí tích ra khỏi cấu trúc hôn nhân, để rồi hôn
nhân đơn thuần chỉ là một cuộc “ăn ở” của hai người thích nhau. Những
thách đố đó nảy sinh từ một ý thức hệ văn hóa bị chi phối bởi cuộc cách mạng
tình dục trong thế kỷ qua, và nhất là bị ảnh hưởng bởi một lối sống thực dụng
hưởng thụ. Ngoài ra, những thách đố này còn phát sinh từ những sự thay đổi sâu
xa về xã hội, cuộc khủng hoảng lớn về kinh tế, nhất là cuộc khủng hoảng lớn về
đời sống gia đình.” Có thể kể ra những thách đố sau đây.
3.1 Thách đố về thực dụng
Tuổi trẻ muôn đời vẫn là tuổi của ước mơ và hy vọng. Nhưng rất nhiều người cho
rằng giới trẻ ngày nay thực tiễn và thực dụng. Điểm độc đáo của tiếng Việt là
viết có dấu. Thế nhưng ở thời đại @ này, khi nhắn tin cho nhau, các bạn trẻ
cũng thường cho dấu bốc hơi". Cụ thể, đứa con gái đi làm xa nhắn tin cho mẹ:
“May con co mang roi me con minh noi chuyen nhe!”.
Nhận được tin nhắn bà mẹ hốt hoảng gọi lại cho con.
Tôi không có đứa con như chị, chưa chồng không giữ thân có mang là sao? May à?
Mày có mang với thằng nào?
Cô con gái cười khúc khích giải thích. Dạ không, ý con nói: “Máy con có mạng rồi,
mẹ con mình nói chuyện nhé”.
Bà mẹ lúc này mới thở phào nhẹ nhõm…
Hơn nữa, giới trẻ ngày nay coi mình là "trung tâm của vũ trụ" mà
không nghĩ đến người khác. Họ đòi hỏi yêu thương và thông cảm, nhưng lại ích kỷ
và khắc nghiệt với thế hệ đi trước. Hiếu thắng, hăm hở lao mình vào cuộc chạy
đua của nền kinh tế thị trường và khoa học kỹ thuật, nhưng cũng rất dễ chao đảo
trước những khó khăn của cuộc sống, những thất bại trong nghề nghiệp và lỡ dở
trong việc tình duyên. Không thiếu những bạn trẻ đã nản chí, buông xuôi và tìm
cách giải quyết vấn đề bằng ma túy, tình dục hay bằng chính cái chết.
Mặt khác, về lãnh vực tình dục, người trẻ hôm nay là những đại diện đầu tiên của
lớp người hưởng thụ ở Việt Nam, những người đầu tiên có sự tự chủ về đầu tóc,
quần áo, thân thể và cuộc sống mình. Quan niệm của các bạn về phái tính hoàn
toàn khác biệt với thế hệ đi trước. Các bạn cho rằng, cha mẹ chúng ta sống quá
gò bó, cố chấp giả tạo. Còn chúng ta không thể chấp nhận quan niệm sống gò bó
đó. Chúng ta muốn sống thực với lòng mình. Một số bạn trẻ khi mới ra thành thị,
mới thoát được vỏ bọc của gia đình, ban đầu thì còn e ngại, nhưng chỉ một thời
gian sau đã phá vỡ bức tường e ngại đó bằng việc ăn chơi, thậm chí một số bạn
sa vào con đường tệ nạn xã hội.[10]
3.2 Thách đố về tình yêu
Làm sao để có được một tình yêu đích thực? Hay cần phải nuôi dưỡng tình yêu như
thế nào? Đó là mối bận tâm rất lớn của hầu hết các bạn trẻ, đồng thời, nó cũng
là thách đố các bạn phải định hướng cho mình. Trong thực tế, hầu như các bạn trẻ
đang ở trong hai cơn lốc: đầu tư kiến thức và ăn chơi hưởng thụ vô độ. Họ cảm
thấy trống rỗng, vì chưa cảm thấy hạnh phúc thực sự của người được yêu. Bên cạnh
đó, do ảnh hưởng của nền văn hóa phương Tây, ngày nay một số bạn trẻ quan
niệm về tình yêu rất hiện đại, hay còn gọi tình yêu tốc độ.
Con số những bạn trẻ chung sống trước khi cưới nhau ngày càng gia tăng, và thời
gian chung sống kéo dài trong nhiều năm. Thực tế còn phức tạp hơn nhiều, vì
ngày nay khái niệm sống chung không chỉ diễn ra với những người khác giới, khác
phái tính, mà còn với cả những người đồng giới nữa.[11]
Khi những người trong cuộc nhận hiểu việc sống chung đó có lợi cho đôi bên, được
luật pháp công nhận hoặc không can thiệp, thì lối sống “góp gạo thổi cơm chung”
không còn bị ràng buộc bởi khía cạnh luân lý nữa. Hậu quả của lối gắn kết tạm bợ
này là số trẻ em sinh ra bên ngoài hôn nhân gia tăng, cũng như số vụ phá thai
tăng mạnh. Bên cạnh đó, những trẻ em được nhận nuôi dưới mái nhà của những cặp
đồng tính sống chung, cũng gặp nhiều khó khăn về nhiều phương diện.
3.3 Thách
đố về tính dục trước hôn nhân
Ngày nay, do ảnh hưởng của sách báo, phim ảnh, và nền văn hóa ngoại lai cổ
xúy cho một thứ tình yêu cuồng vội, nặng tính xác thịt, người trẻ có nguy
cơ đồng hóa tình yêu với tương giao tính dục, tình yêu đồng nghĩa với tình dục.
Người ta không còn cảm thấy ngạc nhiên khi thấy những cô cậu học trò đang tuổi
cắp sách đến trường rủ nhau vào nhà nghỉ để thể hiện tình yêu của mình cho
nhau. Có em còn lý luận rằng “không đi nhà nghỉ với nhau thì chứng tỏ chưa phải
yêu nhau.”
Do vậy, không hiếm những bạn trẻ mới khoảng chừng mười tám đôi mươi mà đã có một
kinh nghiệm dày dạn về Sex. Điều đáng lo là những hiện tượng này không phải
diễn ra đơn lẻ mà ngày càng phổ biến, đến mức báo chí phải gọi là “trào lưu
tình dục thoáng.” Đặc biệt ở lứa tuổi sinh viên, công nhân, việc quan hệ tình dục
trước hôn nhân lại càng phổ biến hơn.[12]
Trong những năm gần đây, ở các khu công nghiệp, nhà trọ sinh viên, đã xuất hiện
một lối sống mới của giới trẻ: những cặp nam nữ sống chung như vợ chồng, mà
không có đăng ký kết hôn. Sau một thời gian, nếu thấy phù hợp thì họ tiến tới
hôn nhân chính thức, còn nếu thấy không phù hợp, thì sẽ chia tay nhau, không cần
đến pháp luật, khỏi làm phiền đến gia đình hai bên. Lối sống này được gọi
là “sống thử” trước hôn nhân. Thực trạng ấy đã đang là mối lo của xã hội,
không chỉ là mối ưu tư về sự phát tán “Căn bệnh thế kỷ,” về nạn phá thai, nhưng
đó còn là biểu hiện của sự suy thoái đạo đức xã hội, một sự “tầm thường hóa” đời
sống tình dục, tầm thường hóa tình yêu vốn dĩ rất thiêng liêng cao đẹp đối với
con người.
3.4 Thách
đố Gia đình đổ vỡ
Trong nhiều trường hợp không thể hòa giải xung đột gia đình, xã hội ủng hộ
việc ly thân hoặc ly dị, coi đó như một giải pháp giải quyết những khó
khăn của đời sống lứa đôi. Người ta thống kê số vụ ly thân thường xảy ra
trong giai đoạn 5 năm đầu đời sống gia đình, còn các vụ ly hôn có thể diễn ra ở
bất cứ giai đoạn nào của đời sống gia đình.
3.5 Thách đố về trách nhiệm của Gia đình
Bị chi phối bởi chủ nghĩa đề cao tự do cá nhân, các thành viên trong
gia đình đánh mất dần sự gắn bó với nhau. Những giây phút gặp gỡ chung trong
gia đình càng ngày càng hiếm hoi.
3.6 Thách đố về vai trò giáo dục của cha
mẹ
Ngày nay, vì vấn đề sinh kế, cả chồng lẫn vợ đều phải đi làm suốt ngày suốt tuần,
thậm chí còn đi làm xa, ít có dịp họp mặt chung trong gia đình. Ngoài ra, quan
điểm duy thế tục đang thịnh hành trong xã hội ngày nay thường coi nhẹ vai trò
người mẹ, không coi nó như một ơn gọi bản thân, nó thường bị đánh giá thấp. Điều
này khiến cho việc ly thân, ly dị trở nên như một trào lưu khiến cho nền tảng
hôn nhân bị phá vỡ, gia đình tan nát, con cái khổ sở.[13]
4. HƯỚNG TỚI MỘT TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC
Tình yêu chỉ có nơi con người vì chỉ con người mới có lý trí. Tình yêu lớn hơn
nhiều so với lạc thú mà tình dục mang lại. Tình yêu cũng không phải là cảm xúc
nhất thời theo kiểu “tiếng sét ái tình”, nhưng là một tình yêu dâng hiến, phải
có trách nhiệm, phải hy sinh cho nhau, phải thánh thiện theo đúng nghĩa của tình
yêu Công giáo. Trong Hôn nhân bền chặt luôn có tình yêu đích thực, không giả
hình giả bộ, như lời thánh Phaolô dạy: “tình
yêu không giả dối (Rm 12,9).
Một cách cụ thể và dễ hiểu hơn, có người chia tình yêu thành hai dạng thức: thứ
nhất là tình yêu vị kỷ (Eros), nghĩa là chỉ biết yêu chính mình, sử dụng người
khác như một phương tiện, đồ vật để thỏa mãn sự thôi thúc của bản năng tính dục,
hoặc một mục đích vị lợi nào đó, khi thỏa mãn xong, hoặc không được như ý thì
chia tay; thứ hai là tình yêu vị tha (Agape) là yêu người khác như chính bản chất
vốn có của họ, sẵn sàng hy sinh tất cả để mang lại hạnh phúc cho người yêu.[14]
Các bạn trẻ Kitô hữu luôn được Giáo hội mời gọi yêu theo kiểu Agape, yêu như
Chúa yêu, một tình yêu được thể hiện rõ nét qua mầu nhiệm Nhập thể và cuộc
thương khó của Chúa Giêsu, một tình yêu mẫu mực dấn thân trọn vẹn cho người
mình yêu. Thánh Phaolô đã diễn tả cách tuyệt hảo về tình yêu mà Chúa Giêsu Kitô
dành cho con người:
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa
vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy
thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 6-7).
Một vị Thiên Chúa đã tự nguyện hủy mình, chấp nhận trở thành một tôi tớ vì tình
yêu với con người. Tình yêu ấy là mẫu mực cho một tình yêu đích thực, một tình
yêu sẵn sàng chịu thiệt về phần mình, để mang lại cho người mình yêu những
gì tốt đẹp nhất.
5. ĐỊNH HƯỚNG VÀ TINH THẦN MỤC VỤ
Trong sứ vụ giáo dục đức tin, đồng hành với người trẻ chuẩn bị kết hôn, hoặc
người đang sống đời gia đình, các mục tử cần biểu lộ sự ân cần, lòng thương xót
và nhẫn nại, như chính Đức Kitô, vị Mục Tử nhân lành đã nêu gương về đức bác ái
mục tử. Chúng ta cùng lướt qua các tiêu chí căn bản của chương trình định
hướng mục vụ toàn diện do Đức thánh cha Phanxicô nêu lên, trong Tông huấn Amoris Laetitia là:
5.1 Loan báo Tin mừng về gia đình[15]
Gia đình Kitô hữu, nhờ ân sủng của bí tích hôn phối, là những tác nhân chính của
công cuộc tông đồ gia đình. Vợ chồng là những người loan báo Tin Mừng ngang qua
“chứng tá đầy niềm vui của họ trong tư cách là những Giáo hội tại gia”. ĐTC
cũng nhấn mạnh đến việc cần thiết đào tạo các cộng tác viên giáo dân, để họ có
thể hỗ trợ trong việc săn sóc mục vụ các gia đình. Thực tế, trong giáo dân có một
nguồn lực to lớn bởi nghề nghiệp chuyên môn của họ: các nhà tư vấn, y bác sĩ,
nhân viên xã hội, luật sư, chuyên viên tâm lý, xã hội,…
5.2 Chuẩn bị kỹ lưỡng cho các đôi bạn trẻ
đính hôn[16]
Đây là cách thức thiết thực giúp các bạn trẻ khám phá phẩm giá và vẻ đẹp của
hôn nhân. Người trẻ cần được giúp đỡ, để ý thức về ý nghĩa của tính dục
như là quà tặng quý giá Thiên Chúa ban cho con người. Do đó, việc chăm sóc mục
vụ cho các đôi bạn trẻ đính hôn và các đôi vợ chồng cần tập trung vào mối dây
hôn phối, giúp họ đào sâu ý nghĩa của tình yêu phu phụ, nhờ đó vượt qua những
khó khăn phát sinh trong đời sống gia đình.
5.3 Đồng hành trong những năm đầu của đời
sống hôn nhân[17]
Giai đoạn đầu của đời sống hôn nhân thường gặp phải những khó khăn khi chuyển từ
cảm xúc vào thực tế. Làm thế nào để giúp đôi bạn chấp nhận rằng không ai trong
đôi bạn là người hoàn hảo. Mỗi người cần chấp nhận người kia như sự thực người ấy
là, để giúp nhau cùng hoàn thiện. Vì vậy, đời sống hôn nhân đòi hỏi từ hai phía
lòng kiên nhẫn, cảm thông, hy sinh… để cùng giúp nhau xây dựng một sự kết hợp
trưởng thành và thành toàn qua thời gian.
5.4 Soi sáng những khủng hoảng, lo lắng
và khó khăn[18]
Đức bác ái mục vụ cần được thể hiện cách kiên nhẫn và bền bỉ. Điều này thể hiện
qua việc các vị mục tử săn sóc cho cả những gia đình đang trải qua tình huống xấu
nhất do tình trạng đổ vỡ, ly thân và ly dị.
Cần bày tỏ sự lưu tâm đặc biệt đối với những đau khổ khi phải chịu ly thân, ly
dị hay người đã bị buộc phải cắt đứt đời sống chung do sự ngược đãi từ chồng
hay vợ mình. Việc săn sóc mục vụ nhất thiết phải bao gồm những nỗ lực làm trung
gian và hoà giải, xuyên qua việc thiết lập những trung tâm tư vấn đặc biệt
trong giáo phận.
Tạm kết
Yêu là trao ban, suy nghĩ, ước muốn và hành động”.[19] Tình dục là món quà
Thiên Chúa dành cho hôn nhân, để ràng buộc và củng cố tình yêu giữa vợ và chồng.
“Sống thử” ngoài hôn nhân, dù dưới hình thức nào, cũng là một điều mà chúng ta
phải tránh xa. Sống thử trước hôn nhân sẽ giết chết lòng yêu thích những điều
thiêng liêng cao đẹp trong tâm hồn chúng ta, khiến chúng ta dần dần khô héo và
chết đi.
Khi đôi bạn yêu nhau, với một tình yêu trong sáng, tôn trọng, biết lắng
nghe, biết chia sẻ, và không còn gì là riêng tư nữa; họ có cùng một tâm tình, một
ý muốn và một cách nhìn. Họ tuy hai mà một, từ một tạo ra hai. Thiên Chúa đã tạo
nên người phụ nữ đầu tiên từ xương sườn của người đàn ông, chứ không lấy ở chỗ
khác để người đàn bà bầu bạn với đàn ông, để sống với nhau ngang hàng và phải
biết yêu thương nhau.
Chính vì thế, tình yêu trong hôn nhân là vô cùng cần thiết, là một chiếc áo vạn
năng, che khuất cả xấu xa khuyết điểm và tô đẹp cho đời sống lứa đôi. Tình yêu
trong hôn nhân là một năng lực vững bền luôn đi trước hai người, người này hướng
đến người kia. Là một cuộc hành trình của con tim kéo dài suốt cả cuộc đời. Để
đón nhận hôn nhân gia đình như một thực tại trong suốt, lành mạnh, thánh thiện,
chúng ta cần thoát ra khỏi mọi lớp ảo tưởng bao quanh cái vẻ đẹp giả tạo của chủ nghĩa
hôn nhân cực đoan. Hôn nhân cũng giống như khu vườn, nếu chúng ta chăm sóc
nó, nó sẽ mang đến những bông hoa thơm ngát, còn ngược lại, cỏ dại sẽ mọc đầy lấp
cả lối đi về.
Ước mong sao, dưới ánh sáng của Lời Chúa, các bạn trẻ sẽ có khả năng phân định
đúng và lựa chọn đúng con đường mình sẽ đi, để có thể đem lại niềm vui và hạnh
phúc cho cuộc đời của các bạn.
[1] Truyện Kiều của
Nguyễn Du
[2] Giuse Nguyễn
Ngọc Thành, Gs. ĐCV Thánh Giuse - Xuân Lộc
Nguồn:
http://catechesis.net
[3] Ibid.
[4] Giuse Nguyễn
Ngọc Thành, Gs. ĐCV Thánh Giuse - Xuân Lộc
Nguồn:
http://catechesis.net
[5] Ibid
[6] Ibid
[7]
http://daminhvn.net
[8] Ibid
[9]
http://daminhvn.net
[10]
https://www.tgpsaigon.net/ Toàn cầu hóa: cơ hội và thách đố của giới trẻ ngày
nay, Tu sĩ Lôrensô Vũ Văn Trình MF
[11] Ibid
[12] Ibid
[13]
http://giaoxudatdo.net/nam-muc-vu-gia-dinh-2019/nguoi-tre-voi-doi-song-hon-nhan.html.
[14] Xc. Lm. Antôn Nguyễn Mạnh Đồng, Chuẩn bị vào đời sống Hôn nhân và
Gia đình, Tài liệu Mục Vụ, Giáo phận Cần Thơ, 2003, tr 33.
[15] X. Amoris
Laetitia, s. 200-204
[16] X. Ibid, s.
205-216
[17] X. Amoris
Laetitia, s. 217-230
[18] X. Ibid, s.
231-252
[19] Xc John L.
Thomas, Bước vào đời sống hôn nhân. Nxb Tôn giáo, 2007, tr 19.
Nguồn: gpquinhon.org