Bài 07: Lời cầu nguyện của Mô-sê
Hồng Thủy
Trong bài giáo lý tại buổi tiếp kiến chung trực
tuyến vào sáng thứ Tư 17/06, Đức Thánh Cha suy tư về cách cầu nguyện của ông
Mô-sê. Đức Thánh Cha nhận định rằng ông Mô-sê là gương mẫu cho các mục tử, những
người không bao giờ bỏ rơi dân mình, nhưng phải luôn gắn bó và cầu nguyện cho họ.
Ngài cũng mời gọi các Ki-tô hữu không lên án, nhưng cầu nguyện, khẩn cầu cho những
người cần sự trợ giúp của Thiên Chúa, ngay cả những người tội lỗi nhất, và cầu
xin cho ơn cứu độ của toàn thế giới.
Sách Xuất hành
miêu tả ông Mô-sê như một người thất bại, theo cái nhìn của con người. Nhưng
ông được Thiên Chúa gọi để đưa Dân Người khỏi ách nô lệ, đến sự tự do. Ông từ
chối trách nhiệm này với lý do mình không xứng đáng. Tuy nhiên, Thiên Chúa ủy
thác cho ông trách nhiệm thông truyền lề luật Chúa cho dân Israel và ông đã trở
thành người cầu thay nguyện giúp cho dân, đặc biệt khi họ gặp thử thách và phạm
tội. Ông trở thành trung gian, cầu nối giữa đất và trời, cầu khẩn cho dân khi họ
gặp khốn khó. Theo cách này, ông là hình ảnh báo trước của Chúa Giê-su, Đấng
chuyển cầu vĩ đại và là thượng tế của chúng ta.
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha
Bắt đầu bài giáo lý, Đức Thánh Cha nói:
Trong hành trình của chúng ta về chủ đề cầu nguyện, chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa không bao giờ thích đối xử với những người cầu nguyện một cách “dễ dàng”. Và ngay cả ông Mô-sê cũng không phải là một
người không yếu đuối trong giao tiếp, ngay từ những ngày đầu trong ơn gọi của ông.
Thiên Chúa gọi ông Mô-sê, con người "thất bại",
cho sứ vụ giải thoát dân Israel
Khi Thiên Chúa gọi ông Mô-sê, ông đang là người "thất bại".
Sách Xuất hành mô tả ông ở vùng đất Midian như một kẻ chạy trốn. Khi còn trẻ,
ông đã cảm thấy thương xót người dân của mình, và ông cũng đã chọn lựa bảo vệ
những người bị áp bức. Nhưng chẳng bao lâu sau, ông phát hiện ra rằng, mặc dù
có ý tốt, từ đôi bàn tay ông không nảy sinh công lý mà chỉ có bạo lực. Giấc mơ
vinh quang của ông tan vỡ như thế: ông không còn là một quan chức đầy triển vọng,
được định sẵn cho một sự nghiệp thăng tiến nhanh chóng, mà là một người đã tận
dụng các cơ hội, và giờ đây chăm sóc một đàn vật thậm chí không phải là của
mình. Và chính trong sự thinh lặng của hoang địa Midian, Thiên Chúa gọi ông
Mô-sê đến mặc khải của bụi gai cháy đỏ: “‘Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên
Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp.”
Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa.” (Xh 3,6).
Ông Mô-sê từ chối vì thiếu tin tưởng vào Chúa
Một lần nữa, ông
Mô-sê đáp lời Thiên Chúa, Đấng đang nói, Đấng mời gọi ông chăm sóc dân Israel,
bằng sự sợ hãi. Ông đưa ra vấn nạn: ông không xứng đáng với sứ mệnh đó, không
biết tên của Thiên Chúa, sẽ không được dân Israel tin tưởng, có tật nói lắp bắp
... Từ ngữ thường xuyên xuất hiện trên môi của ông Mô-sê nhất, trong mỗi lời
ông cầu nguyện với Thiên Chúa, là câu hỏi: "tại sao?". Tại sao Chúa
sai con đi? Tại sao Chúa muốn giải thoát dân tộc này? Trong Bộ Ngũ thư, thậm
chí còn có một đoạn sách kịch tính, khi Thiên Chúa quở trách ông Mô-sê vì ông thiếu tin tưởng; sự thiếu lòng tin này sẽ khiến
ông không được vào đất hứa (x. Ds 20,12).
Dù yếu đuối, ông Mô-sê không bao giờ bỏ rơi dân của
mình
Với những nỗi sợ
hãi này, với trái tim thường xuyên dao động này, làm thế nào ông Mô-sê có thể cầu
nguyện? Thật ra, ông Mô-sê cũng là người phàm như chúng ta. Chúng ta cũng có những
nghi ngờ, làm thế nào chúng ta có thể cầu nguyện? Chúng ta có ấn tượng mạnh
không chỉ vì sự mạnh mẽ của ông nhưng cả vì sự yếu đuối này. Được Thiên Chúa
trao trách nhiệm thông truyền Lề luật cho dân Chúa, là người thành lập việc phụng
tự Thiên Chúa, là trung gian của các mầu nhiệm cao cả nhất, nhưng không vì lý
do này mà ông sẽ không còn mối liên kết chặt chẽ với dân của mình, nhất
là khi họ bị cám dỗ và phạm tội. Ông luôn gắn bó với dân. Ông không bao
giờ quên dân. Đây là sự vĩ đại của các mục tử: không bao giờ quên dân, không
bao giờ quên nguồn cội. Như thánh Phao-lô nói với môn đệ Ti-mô-thê thân yêu của
ngài: “Hãy nhớ mẹ và bà của con, nhớ nguồn cội và dân tộc của con” . Ông Mô-sê
gần gũi với Thiên Chúa đến nỗi ông có thể nói chuyện trực tiếp với Người (x. Xh
33,11); và ông sẽ vẫn gần gũi với con người đến mức cảm thấy xót xa cho tội lỗi
của họ, cho những cám dỗ của họ, cho nỗi nhớ bất chợt về quá khứ của những người
lưu vong, nhớ lại khi họ ở Ai Cập.
Ông Mô-sê là người có tinh thần nghèo khó
Ông Mô-sê không
chối từ Thiên Chúa, cũng không chối từ dân tộc của mình. Do đó, ông Mô-sê không
phải là một nhà lãnh đạo độc tài và chuyên chế; trái lại, sách Dân số định
nghĩa ông "khiêm tốn và hiền lành hơn mọi người trên trái đất" (x.
12.3). Bất chấp điều kiện đặc quyền của mình, ông Mô-sê vẫn thuộc về nhóm người
nghèo khó trong tinh thần, những người sống bằng cách biến niềm tin tưởng vào
Thiên Chúa thành lương thực trong cuộc hành trình của họ.
Cách cầu nguyện của ông Mô-sê: chuyển cầu cho dân
Cách cầu nguyện
thích hợp nhất của ông Môsê sẽ là sự chuyển cầu (x. Giáo lý Hội thánh Công
giáo, 2574). Niềm tin vào Thiên Chúa của ông trở nên một với cảm thức ông là một
người cha của dân tộc mình. Kinh Thánh thường mô tả ông với đôi bàn tay vươn
lên, hướng về Thiên Chúa, bằng chính con người mình, ông trở thành chiếc cầu nối
giữa trời và đất. Ngay cả trong những thời khắc khó khăn nhất, ngay cả vào ngày
mà mọi người chối từ Thiên Chúa và từ chối xem ông như một người lãnh đạo, và tạc
cho họ một con bò vàng, ông Mô-sê không cảm thấy muốn bỏ dân của ông. Đó là dân
của con. Đó là dân của Chúa. Ông không chối bỏ Thiên Chúa và cũng không chối từ
dân của mình. Và ông thưa với Chúa: "Dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã
làm cho mình một tượng thần bằng vàng! Nhưng giờ đây, ước gì Chúa miễn chấp
tội họ… Bằng không, nếu Chúa không tha thứ cho tội lỗi này, thì xin Chúa xoá
tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết.” (Xh 32,31-32). Ông Mô-sê không thương lượng
với dân chúng. Ông là cây cầu, là người cầu khẩn. Ông là người đứng giữa dân
Chúa và Chúa. Ông không bán đứng dân mình vì sự nghiệp. Ông không phải là người
tìm cách leo thang danh vọng, ông là người chuyển cầu: vì dân của mình, vì máu
thịt của mình, vì lịch sử của dân, vì dân tộc và vì Thiên Chúa Đấng đã gọi ông.
Ông là cây cầu nối.
Ông Mô-sê là gương mẫu cho các mục tử
Ông Mô-sê là một gương mẫu cho tất cả các mục tử, những người phải là
"cầu nối". Vì thế, họ được gọi là pontifex, những cây cầu. Mục tử là cầu nối giữa những người mà họ
thuộc về với Thiên Chúa, Đấng mà theo ơn gọi, họ thuộc về. Ông Mô-sê cũng vậy.
“Xin Chúa tha thứ cho tội lỗi của họ, nếu Chúa không tha thứ, xin hãy xóa con
khỏi cuốn sách mà Chúa đã viết. Con không muốn dùng dân của mình để tiến
thân.
Không lên án nhưng cầu nguyện cho người thiếu
sót, tội lỗi
Đây là lời kinh
nguyện mà các tín hữu chân chính cũng phải thực hiện trong đời sống tâm linh của
họ. Ngay cả khi họ nhìn thấy những thiếu sót và sự xa cách của con người với
Thiên Chúa, khi cầu nguyện, họ không lên án những người này, không từ chối họ.
Thái độ cầu thay nguyện giúp là thái độ của các vị thánh, những người, khi bắt
chước Chúa Giêsu, trở thành những "cầu nối" giữa Thiên Chúa và dân của
Người. Theo nghĩa này, ông Mô-sê là vị ngôn sứ vĩ đại nhất của Chúa Giêsu, người
bênh vực và khẩn cầu của chúng ta (x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 2577).
Ngay cả ngày nay,
Chúa Giê-su là cầu nối giữa chúng ta và Chúa Cha. Và Chúa Giê-su khẩn cầu cho
chúng ta, cho Chúa Cha thấy các vết thương, cái giá Người chịu vì ơn cứu độ
chúng ta và khẩn cầu cho chúng ta. Và ông Mô-sê là hình ảnh của Chúa Giê-su Đấng
khẩn cầu ngày nay, cầu nguyện cho chúng ta và chuyển cầu cho chúng ta.
Khi tức giận ai, hãy cầu nguyện cho họ
Ông Mô-sê kêu gọi chúng ta cầu nguyện nhiệt thành như Chúa Giêsu, cầu xin cho thế giới, nhớ rằng bất chấp mọi yếu đuối của nó, thế giới luôn thuộc về Thiên Chúa. Tất cả thuộc về Thiên Chúa. Những người tội lỗi xấu xa nhất, những người gian ác nhất, những lãnh đạo tham nhũng nhất, những người con của Thiên Chúa và Chúa Giê-su cảm thấy điều này và cầu nguyện cho tất cả. Và thế giới sống và phát triển nhờ phúc lành của người công chính, nhờ lời cầu xin lòng thương xót mà thánh nhân, người công chính, người chuyển cầu, linh mục, giám mục, Đức Giáo hoàng, giáo dân, bất cứ ai đã được rửa tội, không ngừng dâng lên vì con người, ở mọi nơi và mọi thời điểm trong lịch sử. Chúng ta hãy nghĩ đến ông Mô-sê, người chuyển cầu. Và khi chúng ta có ý muốn kết án ai và chúng ta cảm thấy tức giận trong lòng… Bạn phải làm gì khi tức giận? Hãy đi cầu nguyện cho người đó. Điều này giúp chúng ta rất nhiều.
ĐTC Phanxicô cầu
nguyện cho tự do lương tâm được tôn trọng
Nhắc đến
"Ngày Lương tâm" vào ngày 17/06 hàng năm, lấy cảm hứng từ chứng tá của
nhà ngoại giao Bồ Đào Nha Aristides de Sousa Mendes, Đức Thánh Cha Phanxicô hy
vọng rằng mỗi Kitô hữu có thể "đưa ra một gương mẫu về sự nhất quán với một
lương tâm đúng đắn được chiếu sáng bởi Lời Chúa".
Sau bài giáo lý
trong buổi tiếp kiến chung ngày 17/06, Đức Thánh Cha nhắc đưa ra lời kêu gọi
nhân “Ngày Lương tâm”, được cử hành vào ngày 17/06 hàng năm.
Đức Thánh Cha
nói: Hôm nay là "Ngày Lương tâm", được cảm hứng từ chứng tá của nhà
ngoại giao người Bồ Đào Nha, ông Aristides de Sousa Mendes, người đã quyết định
nghe theo tiếng nói của lương tâm và cứu sống hàng ngàn người Do Thái và những
người bị bách hại khác."
Đức Thánh Cha
nói: “Cầu xin cho tự do lương tâm có thể được tôn trọng mọi lúc và mọi nơi; và
mỗi Kitô hữu có thể là gương mẫu về sự nhất quán bằng lương tâm ngay chính và
được chiếu sáng bởi Lời Chúa.”
Chứng tá của ông
Aristides de Sousa Mendes
Những lời của Đức
Thánh Cha được đan xen với câu chuyện của ông Aristides de Sousa Mendes, một
nhà ngoại giao người Bồ Đào Nha sinh năm 1855 trong một gia đình quý tộc tại
Cabanas de Viriato. Năm 1940, ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ,
ông được bổ nhiệm làm Lãnh sự của thành phố Bordeaux, Pháp.
Ông đã tận mắt
nhìn thấy vô số người tị nạn, trong đó có nhiều người Do Thái, đang tìm cách
thoát khỏi cơn thịnh nộ giết người của Đức quốc xã. Chính quyền Lisbon do
António de Oliveira Salazar lãnh đạo đã ra lệnh từ chối cấp thị thực cho
"người nước ngoài không có quốc tịch". Và không cấp cho cả những người
không quốc tịch và "người Do Thái, đã bị trục xuất khỏi quốc gia nguyên
quán hoặc nước mà họ là công dân. " Nhưng ông Aristides de Sousa Mendes đã
cấp thị thực, đặc biệt là cho người Do Thái, cho phép họ vào một quốc gia
trung lập như Bồ Đào Nha.
Nguồn: vaticannews.va/vi